Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Những vấn đề chính trị, quân sự qua ba cuộc kháng chiến của việt nam thời âu lạc...

Tài liệu Những vấn đề chính trị, quân sự qua ba cuộc kháng chiến của việt nam thời âu lạc, nhà hồ và nhà nguyễn

.PDF
72
1
81

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ QUA BA CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA VIỆT NAM THỜI ÂU LẠC, NHÀ HỒ VÀ NHÀ NGUYỄN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành: Đại học Sư phạm Lịch sử - GDCD PHÚ THỌ, NĂM 2018 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ QUA BA CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA VIỆT NAM THỜI ÂU LẠC, NHÀ HỒ VÀ NHÀ NGUYỄN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành: Đại học Sư phạm Lịch sử - GDCD Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Hùng PHÚ THỌ, NĂM 2018 2 MỤC LỤC 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..................................................................... 2 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................... 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 5 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 6 6. Cấu trúc khóa luận.......................................................................................... 6 CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ CỦA NƯỚC TA THỜIÂU LẠC, NHÀ HỒ VÀ NHÀ NGUYỄN TRƯỚC KHÁNG CHIẾN....................... 8 1.1. Tình hình chính trị, quân sự thời Âu Lạc trước cuộc kháng chiến chống quân Nam Việt ................................................................................................... 8 1.1.1. Quá trình thiết lập nhà nước Âu Lạc ........................................................ 8 1.1.2. Những chính sách thời kỳ Âu Lạc ............................................................. 9 1.2. Tình hình chính trị, quân sự thời kỳ nhà Hồ trước cuộc kháng chiến chống quân Minh ........................................................................................................ 15 1.2.1. Quá trình thiết lập nhà Hồ...................................................................... 15 1.2.2. Những chính sách của Hồ Quý Ly cuối thời Trần và thời Hồ ................. 16 1.3. Tình hình chính trị, quân sự thời nhà Nguyễn trước cuộc kháng chiến chống Pháp ................................................................................................................. 20 1.3.1. Quá trình thiết lập nhà Nguyễn .............................................................. 20 1.3.2. Những chính sách của triều Nguyễn ....................................................... 21 * Tiểu kết chương 1.......................................................................................... 29 CHƯƠNG 2:TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ THỜI ÂU LẠC, NHÀ HỒ VÀ NHÀ NGUYỄN TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG XÂM LƯỢC ......... 30 2.1. Thời kỳ Âu Lạc kháng chiến chống Nam Việt ........................................... 30 2.1.1. Tình hình chính trị .................................................................................. 30 2.1.2. Đường lối quân sự ................................................................................. 33 2.2. Thời kỳ nhà Hồ kháng chiến chống quân Minh ......................................... 34 2.2.1. Tình hình chính trị .................................................................................. 34 2.2.2. Đường lối quân sự .................................................................................. 36 2.3. Thời kỳ nhà Nguyễn kháng chiến chống quân xâm lược Pháp................... 38 2.3.1. Tình hình chính trị .................................................................................. 38 2.3.2. Đường lối quân sự .................................................................................. 41 2.4. Kết quả của các cuộc kháng chiến xâm lược.............................................. 44 * Tiểu kết chương 2.......................................................................................... 47 CHƯƠNG 3:MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ THỜI ÂU LẠC, NHÀ HỒ VÀ NHÀ NGUYỄN QUA BA CUỘC KHÁNG CHIẾN ............................................................................................................. 48 3.1 Đặc điểm .................................................................................................... 48 3.1.1 Đặc điểm chung ....................................................................................... 48 3.1.2. Đặc điểm riêng ....................................................................................... 49 3.2. Bài học kinh nghiệm.................................................................................. 57 3.2.1. Chuẩn bị giữ nước từ thời hòa bình ........................................................ 57 3.2.2. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân .......................................................................................................... 59 3.2.3. Luôn luôn đề cao cảnh giác trước âm mưu của các thế lực thù địch....... 61 * Tiểu kết chương 3.......................................................................................... 62 KẾT LUẬN...................................................................................................... 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước dân tộc ta đã phải đối đầu với rất nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của bọn cướp và bán nước để đi đến thắng lợi như ngày hôm nay. Tuy nhiên không phải cuộc chiến tranh nào dân tộc ta cũng đều giành thắng lợi, mà có những cuộc kháng chiến chúng ta đã thất bại như các cuộc kháng chiến: chống Nam Việt thời Âu Lạc; chống quân Minh thời nhà Hồ và chống Pháp thời Nguyễn. Mặc dù các cuộc kháng chiến đã kết thúc từ rất lâu, đất nước ta hôm nay đã giành được độc lập. Nhưng nguyên nhân thất bại của ba cuộc kháng chiến này thì vẫn là một đề tài được nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu.Khi tìm hiểuvề nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của các cuộc kháng chiến này đã có rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu đưa ra các câu trả lời khác nhau có người cho rằng đó là do sự bất ổn về chính trị, có người thì cho rằng là do trong quá trình phản công nhà nước không đưa ra được biện pháp quân sự kịp thời nên dẫn đến thất bại và có người cho rằng đó là do sự chủ quan mất cảnh giác của những người đứng đầu, có người cho rằng do nhà nước không tập hợp được nhân dân cùng đánh giặc nên thất bại. Tất cả những công trình nghiên cứu này chỉ đưa ra một được một khía cạnh về nguyên nhân thất bại của các cuộc kháng chiến mà chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về vấn đề chính trị, quân sự trước và trong các cuộc kháng chiến. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề này sẽ lý giải các vấn đề: tình hình chính trị của đất nước trước và trong cáccuộc kháng chiến này diễn ra như thế nào?; Nghệ thuật quân sự được các triều đình xử lý ra sao trong các cuộc kháng chiến?; Vai trò của những người đứng đầu trong quá trình xây dựng và kháng chiến bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời khi nghiên cứu về vấn đề này sẽ cung cấp, mở rộng kiến thức cho các bài giảng lịch sử ở trường phổ thông. Hiện nay, Viêt Nam mặc dù đang trong thời kỳ hòa bình ổn định, đất nước đang thực hiện công nghiệp hóa- hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 2 Nhưng các thế lực thù địch vẫn liên tục tìm cách chống phá cách mạng Việt Nam, nguy cơ xâm lược của dân tộc luôn tiềm tàng. Vì vậy, khi nghiên cứu vấn đề chính trị, quân sự trong các cuộc kháng chiến thất bại này sẽ để lại những bài học kinh nghiệm quan trọng để hoàn thiện đường lối chính trị, quân sự của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ đó tạo thế chủ động và đánh bại mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với những lý do trên tôi chọn vấn đề “Những vấn đề chính trị, quân sự qua ba cuộc kháng chiến của Việt Nam thời Âu lạc, nhà Hồ và nhà Nguyễn” làm hướng nghiên cứu cho đề tài của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Trong lịch sử kháng chiến chống giặc ngoại xâm, chúng ta tìm hiểu tình hình chính trị, quân sự qua ba cuộc kháng chiến: kháng chiến chống quân Nam Việt của An Dương Vương năm 179 Tr.CN; kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nhà Hồ năm 1407; kháng chiến chống thực dân Pháp của nhà Nguyễn cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX. Đã có nhiều công trình khoa học và nhiều tác phẩm đề cập đến vấn đề này ở những mức độ khác nhau: Tác phẩm “Khởi nghĩa Lam Sơn” do Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn chủ biên, xuất bản năm 1977, nhà xuất bản khoa học xã hội. Tác giả đã khái quát sự thành lập nhà Hồ, những chính sách cải cách của Hồ Quý Ly, cuộc tấn công xâm lược của quân Minh, sự thất bại của nhà Hồ và sự bùng nổ của khởi nghĩa Lam Sơn, qua đó để lại giá trị trong việc nghiên cứu về thời kỳ nhà Hồ. Tác phẩm “Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược” tập 1 do Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn chủ biên, xuất bản năm 1984, nhà xuất bản khoa học xã hội. Tác phẩm là bản anh hùng ca tuyệt đẹp của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm qua các thời kỳ lịch sử trong đó có thời kỳ An Dương Vương. Qua đó khái quát về tình hình nước ta trong cuộc kháng chiến chống quân Triệu. Có giá trị trong việc nghiên cứu về tình hình chính trị, quân sự của nước ta dưới thời kỳ An Dương Vương. 3 Tác phẩm “Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời kỳ trước” do Nguyễn Lương Bích chủ biên, xuất bản năm 1996, nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Nội dung tác phẩm đã đề cập đến hoạt động ngoại giao của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, từ ngày đầu dựng nước đến khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược. Với những khái quát về ngoại giao như vậy đã để lại ý nghĩa to lớn trong việc nghiên cứu ngoại giao nước ta thời kỳ nhà Hồ, nhà Nguyễn. Tác phẩm “Lịch sử quân sự Việt Nam” tập 1 do đại tá Nguyễn Quốc Dũng chủ biên, xuất bản năm 1999, nhà xuất bản chính trị quốc gia. Tác giả đã khái quát tình hình nước ta trong buổi đầu dựng nước và giữ nước thời kỳ Hùng Vương- An Dương Vương,khái quát sự ra đời của hai nhà nước Văn Lang- Âu Lạc và hai cuộc kháng chiến đầu tiên chống đế chế Tần, quân Triệu Đà của nước ta. Tác phẩm đã đề cập đến các vấn đề cơ bản của quân sự, chiến lược quân sựcủa Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến đó. Với những khái quát về kinh nghiệm thực tế của cách mạng Việt Nam đã để lại ý nghĩa to lớn với các nhà nghiên cứu quân sự hiện nay. Đặc biệt có ý nghĩa trong việc nghiên cứu thời kỳ Âu Lạc. Tác phẩm “Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây dưới triều Nguyễn (1802- 1858)”,do Thạc sĩ Trần Nam Tiến chủ biên, xuất bản năm 2006, nhà xuất bản đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung tác phẩm đã xoáy sâu vào chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với các nước phương Tây trong đó có thực dân Pháp. Thông qua tác phẩm để lại bài học kinh nghiệm cho thế hệ sau về chính sách ngoại giao. Có giá trị cho việc nghiên cứu chính sách ngoại giao nước ta thời kỳ nhà Nguyễn. Tác phẩm “Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn”, do Chu Tuyết Lan, Hồng Nhuệ, Thuận Hóa, Trịnh Thành Công chủ biên, xuất bản năm 2007, nhà xuất bản văn hóa Sài Gòn. Đã nghiên cứu khái quát về tình hình nhà Nguyễn, những chính sách ngoại giao, quân sự của nhà Nguyễn với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Có giá trị trong việc nghiên cứu ngoại giao, quân sự nhà Nguyễn. 4 Tác phẩm “Lịch sử Việt Namtập 1 từ nguyên thủy đến đầu thế kỷ X”, do PGS Nguyễn Cảnh Minh chủ biên, xuất bản năm 2011, nhà xuất bản đại học sư phạm. Nội dung trình bày khái quát về các triều đại đã tồn tại ở nước ta trong đó có thời kỳ Âu Lạc. Qua đó, ta có thể biết được quá trình thành lập nhà nước Âu Lạc, quá trình đấu tranh chống ngoại xâm của An Dương Vương. Tác phẩm “Lịch sử Việt Namtập II từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XVI”, do PGS.TS Đào Tố Uyên chủ biên, xuất bản năm 2011, nhà xuất bản đại học sư phạm. Nội dung đã khái quát quá trình thành lập và phát triển của quốc gia Đại Việt trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa. Trong đó có thời kỳ của Hồ Quý Ly, qua đây cung cấp những kiến thức về quá trình thành lập nhà Hồ và những cải cách của Hồ Quý Ly. Tác phẩm “Lịch sử Việt Nam tập III từ đầu thế kỷ XVI đến năm 1858”, do PGS.TS Nguyễn Cảnh Minh chủ biên, xuất bản năm 2011, nhà xuất bản đại học sư phạm. Đã khái quát những kiến thức cơ bản về tiến trình phát triển của Việt Nam trong giai đoạn từ thế kỷ XVI- đến thế kỷ XIX và đặc điểm của tiến trình đó trên các khía cạnh kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội. Qua đây ta có thêm hiểu biết về quá trình thành lập nhà Nguyễn, những hoạt động của nhà Nguyễn trong thời gian kháng chiến.Có giá trị trong việc nghiên cứu sự thành lập nhà Nguyễn, những chính sách ngoại giao và hoạt động quân sự của nhà Nguyễn. Tác phẩm “Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam”, tập IIdo đại tá, TS Nguyễn Huy Thục chủ biên, xuất bản năm 2014, nhà xuất bản Chính trị quốc gia – sự thật. Tác phẩm đã trình bày tư tưởng quân sự Việt Nam từ thời Lê Sơ đến thời Nguyễn, có ý nghĩa phục vụ cho việc nghiên cứu hoạt động quân sự thời kỳ nhà Nguyễn. Tác phẩm “Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam”, tập IIIdo đại tá, TS Lê Văn Thái chủ biên, xuất bản năm 2014,nhà xuất bản chính trị quốc gia – sự thật. Nội dung tác phẩm nghiên cứu về vấn đề quân sự nước ta trong một giai đoạn đầy biến cố, đau thương của dân tộc trong đó có đề cập đến tình hình nước ta dưới triều Nguyễn. Có giá trị trong việc nghiên cứu tình hình quân sự nước ta dưới triều Nguyễn. 5 Tác phẩm “Lịch sử Việt Nam giản yếu”, do GS Lương Ninh chủ biên, xuất bản năm 2015, nhà xuất bản chính trị quốc gia – sự thật. Tác phẩm đã đề cập đến tình hình nước ta trên tất cả các khía cạnh từ thời Văn Lang – Âu Lạc cho đến thời kì nước ta bước vào đổi mới năm 1986. Có giá trị trong việc nghiên cứu quá trình thành lập của ba thời kỳ này. Còn có rất nhiều công trình, tác phẩm nghiên cứu về ba cuộc kháng chiến này. Tuy nhiên, nghiên cứu toàn diện về vấn đề chính trị, quân sự trước vàtrong từng cuộc kháng chiến của Việt Nam thời Âu lạc, nhà Hồ và nhà Nguyễn thì chưa có công trình nào, tác giả nào đề cập đến. Vì vậy đây là cơ sở quan trọng giúp tôi căn cứ để triển khai hướng nghiên cứu “Những vấn đề chính trị, quân sự qua ba cuộc kháng chiến của Việt Nam thời Âu Lạc, nhà Hồ và nhà Nguyễn”. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục tiêu nghiên cứu Đề tài hướng đến mục tiêu làm rõ tình hình chính trị, quân sự của nước ta trước và trong ba cuộc kháng chiếnchống Nam Việt, chống nhà Minh và chống thực dân Pháp, qua đó đánh giá nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của ba cuộc kháng chiến; rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích, đánh giá những chính sách và thực tiễn tình hình chính trị, quân sự của nước ta dưới các triều đại Âu Lạc, nhà Hồ, nhà Nguyễn trước và trong mỗi cuộc kháng chiến. - Phân tích và đánh giá những biện pháp quân sự của các triều đại Âu Lạc, nhà Hồ, nhà Nguyễn trong quá trình thực hiện kháng chiến. - Đánh giá những tác động của chính sách chính trị và quân sự đối với sự thất bại của nước ta trong ba cuộc kháng chiến; rút ra bài học kinh nghiệm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Những vấn đề chính trị, quân sự qua ba cuộc kháng chiến của Việt Nam thời Âu Lạc, nhà Hồ và nhà Nguyễn”. 6 * Phạm vi nghiên cứu Phạm vi thời gian: thời kỳ Âu Lạc (208 TCN – 179 TCN); thời kỳ nhà Hồ (1400 – 1407); thời kỳ nhà Nguyễn ( 1802 – 1884) 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp lịch sử: Phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu nhìn nhận các sự kiện, hiện tượng, quá trình phát sinh, phát triển và kết thúc, đặt trong mối quan hệ với hoàn cảnh khi sự kiện hiện tượng xảy ra. Phương pháp lịch sử giúp phục dựng khách quan, chân thực sự kiện lịch sử, hiện tượng. Trong đề tài tôi sử dụng phương pháp lịch sử để khôi phục tình hình chính trị, quân sự của nước ta qua ba cuộc kháng chiến: kháng chiến chống quân Nam Việt của An Dương Vương, kháng chiến chống quân Minh của nhà Hồ, kháng chiến chống quân Pháp của nhà Nguyễn. Phương pháp lôgic: Đây là phương pháp nghiên cứu các sự kiện hiện tượng trong mối quan hệ trung nhằm rút ra bản chất, quy luật sự kiện, hiện tượng để đi đến nhận định đánh giá về sự kiện đó. Tôi sử dụng phương pháp này để tìm hiểu nguyên nhân thất bại của ba cuộc kháng chiến cũng như bài học kinh nghiệm rút ra từ ba cuộc kháng chiến thất bại cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bên cạnh đó tôi còn sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, so sánh, sưu tầm, chọn lọc tài liệu nhằm giải quyết các mục tiêu mà đề tài đặt ra. Trên cơ sở đó đưa ra kết luận khoa học chính xác về nội dung nghiên cứu. 6. Cấu trúc khóa luận Ngoài chương mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận được trình bày theo ba chương. Chương 1. Tình hình chính trị, quân sự của nước ta thời Âu Lạc, nhà Hồ và nhà Nguyễn trước kháng chiến. Chương 2: Tình hình chính trị, quân sự của nước ta thời Âu Lạc, nhà Hồ và nhà Nguyễn trong kháng chiến. 7 Chương 3: Một số nhận xét về tình hình chính trị, quân sựthời Âu Lạc, nhà Hồ và nhà Nguyễn qua ba cuộc kháng chiến. 8 CHƯƠNG 1 TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ CỦA NƯỚC TA THỜI ÂU LẠC, NHÀ HỒ VÀ NHÀ NGUYỄN TRƯỚC KHÁNG CHIẾN 1.1. Tình hình chính trị, quân sự thời Âu Lạc trước cuộc kháng chiến chống quân Nam Việt 1.1.1. Quá trình thiết lập nhà nước Âu Lạc Để có được lãnh thổ như hiện nay, nước ta đã phải trải qua một quá trình đấu tranh bảo vệ Tổ quốc rất khó khăn và phức tạp. Đã có rất nhiều cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước nổ ra trong lịch sử dân tộc. Trong các thời kỳ đó ta không thể không kể đến thời kỳ đầu tiên của dân tộc, đó là thời kỳ Âu Lạc. Nhà nước Âu Lạc được hình thànhtrên cơ sở cuộc đấu tranh giữa nhân dân Âu Việt và Lạc Việt với quân xâm lược Tần.Nước Tần vốn là một nước lớn trong thời Chiến Quốc ở Trung Quốc do Tần Thủy Hoàng là hoàng đế. Mặc dù lên ngôi thống trị một vùng đất rộng lớn nhưng Tần Thuỷ Hoàng vẫn chưa thỏa mãn với lãnh thổ đó, mà còn muốn gây chiến tranh mở rộng lãnh thổ xuống tận phía Nam nơi sinh sống của tộc người Bách Việt, chính là nhà nước Văn Lang của chúng ta. Năm 218 TCN, Tần Thủy Hoàng cử Đồ Thư chỉ huy 50 vạn quân chia làm 5 đạo tiến xuống phía Nam. Đến năm 214 TCN, quân Tần đã đánh chiếm được một vùng rộng lớn gồm các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay, lập thành bốn quận mới sáp nhập vào lãnh thổ nước Tần, đó là các quận Mân Trung, Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quân, đặt ra các chức quan úy và lệnh để cai trị. Nhưng người Việt dưới sự chỉ huy của các tù trưởng đã kháng chiến kiên cường, chống lại quân Tần liên tục trong nhiều năm. Từ Tây Giang quân Tần tiến vào đánh chiếm nước Văn Lang, trước tình hình đó nhân dân Âu Việt và Lạc Việt đã đoàn kết lại cùng chống quân xâm lược Tần. Họ dựa vào các chiềng, kẻ, ngày ẩn, đêm đánh phá quân Tần. Cuộc chiến đấu lâu dài “ngày ẩn đêm đánh” của nhân dân Âu Việt và Lạc Việt đã khiến quân Tần rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nam: lương thực bị cạn kiệt, đóng binh ở đất vô dụng, tiến không được thoái cũng không xong. Khi quân Tần lâm vào thế cùng lực kiệt, binh sĩ 9 đều mệt mỏi thì người Việt đã tổ chức tấn công đánh trả.Cuộc kháng chiến chống quân Tần của nhân dân Âu Việt và Lạc Việt trên đất Văn Lang kéo dài từ năm 214 đến năm 208 TCN đã giành được thắng lợi, làm thất bại âm mưu xâm chiếm đô hộ nước Văn Lang của đế chế Tần. Năm 210TCN, Tần Thủy Hoàng chết, nội bộ nhà Tần mâu thuẫn, gặp nhiều khó khăn trong nước và sự kháng cự quyết liệt của người Lạc Việt và Âu Việt nên quân Tần rút khỏi nước Văn Lang [8,80]. Trước cuộc xâm lược của nhà Tần, người Lạc Việt và Âu Việt đã đoàn kết lại cùng đánh giặc, người Âu Việt sống ở phía Nam nước Văn Lang do Thục Phán làm thủ lĩnh. Người Lạc Việt sống ở phía Bắc nước Văn Lang do vua Hùng làm thủ lĩnh. Giữa lúc vua Hùng và Thục Phán đang xảy ra xung đột nhưng chưa phân thắng bại thì quân Tần xâm lược nước ta lần nữa. Trước thảm họa diệt vong hai bên chấm dứt xung đột hợp sức cùng chiến đấu chống ngoại xâm. Cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, với vai trò là người lãnh đạo, Thục Phán được tôn làm vua, ông lên ngôi và thành lập nhà nước Âu Lạc. Như vậy, có thể thấy nhà nước Âu Lạc ra đời trên cơ sở nhu cầu đấu tranh chống giặc ngoại xâm, là sự đoàn kết cùng kháng chiến đánh giặc của hai bộ tộc Âu Việt – Lạc Việt.Tinh thần đó đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ta, cứ khi nào đất nước có giặc ngoại xâm thì tinh thần đó lại dâng cao hơn bao giờ hết. Nhà nước Âu Lạc là bước kế tục và phát triển cao hơn của nhà nước Văn Lang- trên cơ sở ý thức dân tộc đã được nâng cao lên một mức cao hơn. 1.1.2. Những chính sách thời kỳ Âu Lạc Ngay sau khi kháng chiến giành được thắng lợi, đất nước thống nhất An Dương Vương đã tập trung vào củng cố ổn định đất nước, ban hành nhiều chính sách để phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, củng cố bộ máy chính trị. Nhà nước Âu Lạc dù chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự đều phát triển rất mạnh mẽ. * Về chính trị 10 Sau khi giành thắng lợi,Thục Phán đã thành lậpnhà nước Âu Lạc trên cơ sở sáp nhập hai vùng lãnh thổ Văn Lang và Âu Việt.Lãnh thổ nhà nước Âu Lạc được mở rộng hơn lãnh thổ của nhà nước Văn Lang. Sự sáp nhập về lãnh thổ và sự liên kết thống nhất về dân tộc giữa hai tộc người Lạc Việt và Âu Việt không phải bằng chiến tranh thôn tính, bằng vũ lựcquân sự mà là kết quả của sự liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung là quân xâm lược Tần. Vì vậy, mà tinh thần đoàn kết trong nhân dân rất cao, nhà nước Âu Lạc là một bước phát triển cao hơn nhà nước Văn Lang. Sau khi lên ngôi vua Thục Phántự xưng là An Dương Vương, đổi tên nước thành Âu lạc điều này đã phản ánh sự hợp nhất chặt chẽ giữa hai thành phần Việt tộc Âu và Lạc trong một chỉnh thể quốc gia thống nhất, một kết cấu chính trị - xã hội cao rộng, sâu sắc. Nhà nước Âu Lạc là một thể thống nhất Việt tộc, thống nhất dân tộc, thống nhất quốc gia cao hơn nhà nước Văn Lang. Nó phản ánh một trình độ phát triển của sức sản xuất cao hơn trước, đồng thời phản ánh nhu cầu chống giặc ngoại xâm bức thiết hơn giai đoạn trước, vì đế chế Trung Quốc đã từ lưu vực Trường Giang bành trướng tới lưu vực Việt Giang, áp sát quốc gia Việt Nam cổ đại [5; 56]. An Dương Vương dời trung tâm từ miền trung du (Phú Thọ ngày nay) về vùng ngã ba sông Đuống – sông Hồng – đỉnh thứ hai của tam giác châu Bắc Bộ, miền đất cao châu thổ. Vua cho xây dựng ở chạ Chủ một tòa thành làm trung tâm cho vùng đô mới. Đó là tòa thành Cổ Loa thuộc huyện Đông Anh – Hà Nội ngày nay. Việc dời đô này ghi dấu sự phát đạt của nền kinh tế vùng đồng bằng cả về mật độ dân số, về nông nghiệp và thủ công nghiệp, thương nghiệp, phản ánh địa vị ưu thắng của miền châu thổ so với miền trung du [5; 57]. Chế độ chính trị của nhà nước Âu Lạc căn bản vẫn là chế độ chính trị của nhà nước Văn Lang, tuy nhiên được tăng cường và hoàn thiện hơn, trong đó xu thế chuyên chế vẫn là xu thế chính. Quyền uy của nhà vua được tăng cường hơn trước, bộ máy nhà nước Âu Lạc được tổ chức hoàn chỉnh hơn. Một chức vụ của nhà nước Âu Lạc là chức tả tướng, giúp việc cho An Dương Vương còn có các 11 Lạc hầu, Lạc tướng, Nồi hầu, Đinh Toán... Bộ máy nhà nước Âu Lạc về cơ bản vẫn giống bộ máy nhà nước Văn Lang. Về hành chính, nước Âu Lạc bao gồm miền Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay. Đất đai chia thành từng khu vực (Bộ) giao cho các lạc tướng cai quản như cũ, Lạc tướng được kế truyền theo dòng máu. Bên dưới các bộ, đơn vị cơ sở của nước Âu Lạc vẫn giống như nước Văn Lang cũ là các công xã (làng- chạ). Nội bộ triều đình tương đối đoàn kết, An Dương Vương đã cùng với các đại thần bàn bạc về việc xây dựng hệ thống quân sự, củng cố quân đội để bảo vệ đất nước trước âm mưu xâm lược từ bên ngoài, vì họ nhận ra rằng các triều đình phong kiến sẽ không dễ dàng từ bỏ mưu đồ xâm lược nước ta như vậy. Trong quan hệ với các đại thần có công dẹp loạn quân Tần, An Dương Vương đối đãi rất hậu hĩnh, đặc biệt là hai công thần Cao Lỗ - người có công chế tạo ra nỏ thần được An Dương Vương tin tưởng giao cho nhiệm vụ xây dựng thành Cổ Loa, phụ giúp vua trong huấn luyện quân sĩ tập bắn nỏ. Nồi Hầu người có công lớn trong việc đánh quân Tần, được An Dương Vương phong cho làm quan, có nhiệm vụ trợ giúp vua trong việc huấn luyện quân đội. Có thể thấy khi mới thành lập nhà nước Âu Lạc, An Dương Vương rất quan tâm đến chính sự, đối đãi với công thần hết mực tin tưởng, mối quan hệ giữa nhà vua và các công thần rất thân thiết, gần gũi, nội bộ triều đình tương đối đoàn kết. Đời sống nhân dân giai đoạn này cũng rất ổn định, người dân ai cũng có cơm ăn áo mặc, có công việc ổn định. Sở dĩ như vậy là do An Dương Vương đã thi hành nhiều chính sách tích cực để phát triển kinh tế đất nước.Trong nông nghiệp, nhà nước ưu tiên nông nghiệp trồng lúa nước,coi đó là nền kinh tế chủ đạo của đất nước. Nhà nước tạo điều kiện để người dân phát triển các nghành chăn nuôi và trồng trọt.Ngoài trồng trọt người Âu Lạc còn phát triển mạnh chăn nuôi như nuôitrâu, bò, lợn, gà, chó. Nhờ những chính sách trong nông nghiệp, đặc biệt là việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp lúc nước mà đời sống nhân dân ngày càng ổn định hơn. Họ sống tập trung và định cư lâu dài hơn giai đoạn trước, sống quần tụ thành các làng, các chiềng, các chạ. 12 Do có đời sống vật chất ổn định nên người dân Âu Lạc cóđời sống văn hóa tinh thần khá phong phú, đa dạng, đã đạt đến một trình độ thẩm mỹ cao hơn.Trong xã hội, do cùng sinh sống trên một vùng lãnh thổ nên đã hình thành nên xu hướng thống nhất, đoàn kết, hòa hợp, họ cùng tham gia làm thủy lợi để phát triển nông nghiệp và chống giặc ngoại xâm. Từ ý thức cộng động đã nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng, các thủ lĩnh. Trong ý thức tư tưởng của người dân bấy giờ đều cho rằng người dân Văn Lang – Âu Lạc có chung một cội nguồn, một tổ tiên. Người dân Âu Lạc bấy giờ đã ý thức được rất rõ ràng vai trò của việc đoàn kết dân tộc trong việc phát triển kinh tế cùng như trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm. Bên cạnh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mới nảy sinh đó, người dân Âu Lạc còn bảo lưu những hình thức tín ngưỡng tôn giáo vật tổ, ma thuật, phồn thực, cưới xin, ăn hỏi, ma chay, chôn cất người chết. Nghệ thuật, âm nhạc cũng khá phá triển, nhiều nhạc cụ được chế tạo và sử dụng bộ gõ có trống đồng, trống da, chuông nhạc. Văn hóa Đông Sơn là cơ sở, là nền văn hóa chung của đất nước Âu Lạc. Do đó, thời kỳ Âu Lạc được coi là một giai đoạn phát triển tiếp tục của thời kỳ Văn Lang và nằm trong thời đại chung của lịch sử Việt Nam. Qua đây ta có thể thấy thời kỳ đầu của nhà nước Âu Lạc tiềm lực kinh tế đất nước tương đối mạnh và ổn định so với thời kỳ chống Tần thì mạnh hơn rất nhiều. Mối quan hệ giữa triều đình và nhân dân lúc này cũng rất gần gũi, gắn bó, người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của triều đình, khối đại đoàn kết dân tộc khá vững mạnh. * Về quân sự Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, văn hóa là sự phát triển của quân sự. Sau khi lên nắm quyền An Dương Vương chú trọng củng cố quân đội, xây dựng thành lũy để bảo vệ đất nước.Đặc biệt dưới thời kỳ An Dương Vương việc xây thành đắp lũy luôn là nhiệm vụ quan trọng được quan tâm hàng đầu.Trong đó không thể không kể đến công trình quân sự thành Cổ Loa – một công trình quân sự hiện đại bậc nhất của nhà nước Âu Lạc. Thành Cổ Loa thuộc xa Cổ Loa, huyện Đông Anh, thủ đô Hà Nội được xây dựng vào thế kỷ III 13 Tr.CN, là kinh đô của nhà nước Âu Lạc, ngoài ra còn là một công trình quân sự nổi tiếng của nước ta. Thành Cổ Loa nằm trong vùng đất cao Tây Bắc của châu thổ sông Hồng, chiếm ngự một vùng đất cao vững chãi. Là nơi giao lưu quan trọng cả về đường bộ và đường thủy, từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để ngoài đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Sử cũ có chép khi mới xây dựng xong thành có 9 vòng nhưng hiện nay trải qua một thời gian dài cùng nhiều biến động lịch sử thành chỉ còn ba vòng gồm thành nội, thành trung, thành ngoại. Thành Nội có cấu trúc đặc biệt hơn hai thành còn lại, với nhiều ụ đất nhỏ cao và nhô ra khỏi lũy thành, tua tủa như lông chim, cách xa nhau khoảng một tầm tên bắn. Đó là một tòa thành không có tứ giác, quân thù nấp bất cứ chỗ nào cũng bị phát hiện và bắn tên. Còn thành Trung và thành Ngoại thì bao bọc vùng Đầm Cả, Đầm Nềm rộng mênh mông hàng nghìn mẫu. Sông chảy qua con ngòi vào cửa phía Đông và dồn nước vào Đầm Cả, qua cửa Đông thành Trung, tách làm 5 nhánh, xòe bàn tay nước tưới tắm từ phía Đông đến phía Bắc kinh thành và một nhánh tụ lại ở khu vực Vườn thuyền giáp phía ngoài thành Nội. Vài trăm chiến thuyền có thể đậu ở các “quân cảng” này. Đây chính là nét độc đáo nhất của thành Cổ Loa: Kinh thành vừa là căn cứ bộ binh vừa là căn cứ thủy binh. Thuyền chiến từ Đầm Cả, Vườn Thuyền có thể triển khai ra các chiến hào, phối hợp chiến đấu với bộ binh,cũng có thể tiến ra sông Hoàng, ngược lên sông Cả, xuống sông Cầu, qua Lục Đầu Giang mà ra biển [5, 59]. Xây dựng thành Cổ Loa, An Dương Vương đã tích hợp được tinh hoa – tài đánh bộ, tài đánh thủy của mọi thành phần Việt tộc quen ở cao hay ở nước. Thành Cổ Loa thể hiện nghệ thuật quân sự tài giỏi của quân dân Âu Lạc. Làmột kinh đô, một quân trấn, một hệ thống phòng thủ vừa có chiều rộng vừa có chiều sâu, thể hiện trí thông minh và lòng dũng cảm của tổ tiên ta ngày ấy. Đồng thời thể hiện sự sáng tạo của người dân Âu Lạc trong quá trình đấu tranh giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức tường thành kiên cố, hào sâu rộng cùng các ụ, 14 lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến. Qua công trình thành Cổ Loa đã thể hiện một nhu cầu bức xúc chống ngoại xâm, chống bành trường Trung Quốc của nước Việt phương Nam. Thể hiện tài trí, lòng yêu nước thiết tha của dân tộc trong buổi đầu dựng nước và giữ nước, biểu thị sự cố kết dân tộc, khẳng định vị thế của đất nước. Tuy nhiên, khi thành Cổ Loa được xây dựng xong quan hệ giữa triều đình với nhân dân đã có sự thay đổi. Biểu hiện qua việc phân bốkhu vựccư trú cho vua, quan, binh lính trong thành Cổ Loa. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ gần như cô lập hẳn với cuộc sống của nhân dân. Lúc này An Dương Vương dường như đã xa rời dân chúng của mình, không còn quan tâm, gần gũi nhân dân như giai đoạn mới thành lập đất nước. Vì thế khối đại đoàn kết dân tộc phần nào bị suy giảm, đây là sơ hở để kẻ địch dễ dàng lợi dụng tấn công. Đây chính là nguyên nhân mà An Dương Vương đã không thể đoàn kết nhân dân cùng đấu tranh chống giặc ở giai đoạn sau. Bên cạnh một công trình quân sự độc đáo, triều đình Âu Lạc còn có một lực lượng quân đội thường trực lớn mạnh ngày càng được củng cố và phát triển chuyên nghiệp, nó đã phát triển và lớn mạnh cùng với cuộc kháng chiến chống Tần. Quân sĩ được trang bị bằng nhiều loại vũ khí đồng thau(mũi tên, lao, rìu, giáo mác, dao găm, qua, kiếm ngắn, mộc…) và nhất là nỏ liễu một lần bắn được nhiều phát tên. Ngoài ra còn có các tranh thiết bị quân sự khác từ đồ dùng cá nhân như mũ nón, giày đến các phương tiện cơ động, thông tin liên lạc. Trang bị quân sự quan trọng hơn cả ở giai đoạn này để đảm bảo tính cơ động cho quân đội là thuyền bè. Ngoài vũ khí lợi hại quân sĩ còn được tập luyện cẩn thận, kỹ càng cả về đánh thủy, đánh bộ và sử dụng cung nỏ… Tài nghệ dùng nỏ của quân đội An Dương Vương không chỉ được biết qua truyền thuyết mà còn được ca ngợi trong sử 15 sách. Việt kiệu thư chép: “Man động xưa ở nước Nam Việt (tức nước Âu Lạc khi bị Triệu Đà chiếm) thời Tần rất mạnh, về phép dùng nỏ thì lại càng giỏi lắm, mỗi phát tên xuyên qua hơn chục người, Triệu Đà sợ lắm”[2, 181]. Đội quân thường trực của Âu Lạc bấy giờ có khoảng một vạn người cả bộ binh và thủy binh, có nhiệm vụ trấn giữ và bảo vệ. Thời bình thì làm chức năng bảo vệ bộ máy thống trị, vào thời chiến là lực lượng chiến đấu chủ chốt. Quân đội, vũ khí quân sự dưới thời An Dương Vương tương đối mạnh, quân sĩ được đào tạo cẩn thận chu đáo, so với thời kỳ kháng chiến chống Tần thì mạnh hơn rất nhiều. Ta có thể thấy so với nhà nước Văn Lang, nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương trên tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự đều phát triển hơn rất nhiều, đời sống của người dân cũng rất ổn định. 1.2.Tình hình chính trị,quân sự thời kỳ nhà Hồ trước cuộc kháng chiến chống quân Minh 1.2.1.Quá trình thiết lập nhà Hồ Từ cuối thế kỷ XIV nhà Trần không còn chăm lo đến thủy lợi, đê điều và thi hành chính sách khuyến nông tích cực như giai đoạn trước. Không những thế địa chủ phong kiến, cường hào còn tăng cường vơ vét của cải, thóc gạo của nhân dân. Nạn vỡ đê, mất mùa, hạn hán, đói kém xảy ra liên miên. Nông dân phải bỏ làng đi phiêu tán, chạy vào các điền trang “làm nô cho các thế gia”, sản xuất bị đình trệvà tàn phá nặng nề. Chế độ điền trang ngày càng phát triển với quy mô lớn và nông dân tự do bị nông nô hóa ngày càng nhiều. Bị dồn vào đường cùng người nông dân, nông nô, nô tỳ đã vùng lên đấu tranh. Phong trào đấu tranh của nông dân kéo dài ở nửa cuối thế kỷ XIV là biểu hiện cụ thể nhất của sức sản xuất bị kìm hãm, phá hoại nghiêm trọng và thể hiện sự bất lực của nhà nước quân chủ quý tộc. Đối diện với nguy cơ bị nhà Minh xâm lược đang đến gần thì nhà Trần cũng chưa có biện pháp nào để đối phó. Chính vì vậy mà vào nửa cuối thế kỷ XIV đứng trước cuộc khủng hoảng về kinh tế, xã hội, trước xu hướng phân tán và li tâm ngày càng phát triển và lan rộng trong giới quý tộc nhà Trần, trước nguy cơ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng