TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA LỊCH SỬ
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2015 -2016
NHỮNG TRỤ CỘT CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA
CHÍNH QUYỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA LỊCH SỬ
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2015 -2016
NHỮNG TRỤ CỘT CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA
CHÍNH QUYỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA
Sinh viên thực hiện: Chế Thị Kim Hằng Nam, Nữ: Nữ
Dân tộc: Kinh
Lớp, khoa: D13LSVN, Lịch Sử
Năm thứ: 3
Số năm đào tạo: 4
Ngành học: Sư phạm Lịch Sử
Người hướng dẫn: Th.s Phạm Thúc Sơn
2
1
UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Thông tin chung:
-Tên đề tài: NHỮNG TRỤ CỘT CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA CHÍNH QUYỀN
ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA
- Sinh viên/ nhóm sinh viên thực hiện:
STT
Họ và tên
MSSV
Lớp
Khoa
Năm thứ/ Số
năm đào tạo
1
Chế Thị Kim Hằng
1321402180002
D13LSVN
Lịch Sử
3/4
2
Trượng Thị Dung
121402180032
D13LSVN
Lịch Sử
3/4
3
Huỳnh Toàn
1321402180077
D13LSVN
Lịch Sử
3/4
4
5
- Người hướng dẫn: Th.s Phạm Thúc Sơn
2. Mục tiêu đề tài:
Đề tài hướng đến các mục tiêu:
- Làm rõ những trụ cột chính trị - xã hội của chính quyền đệ nhất Việt Nam
cộng hòa, bao gồm những trụ cột cụ thể như: Phong trào Cách mạng quốc gia; Cần
Lao Nhân vị Cách mạng Đảng: Phong trào giáo dân Công giáo di cư. Từ đó, khái
quát những tác động của những trụ cột này đối với chính quyền Đệ nhất Việt Nam
cộng hòa.
- Nguồn tài liệu học tập và nghiên cứu dành cho các độc giả quan tâm đến
chính quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hòa.
3. Tính mới và sáng tạo:
- Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống về các trụ cột chính trị - xã hội của
chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa, trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ về những
trụ cột về chính trị xã hội của của Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa chính là nghiên cứu,
tìm hiểu những thành tố cấu tạo và là chỗ dựa để một thể chế tồn tại phát triển. Phục
dựng lại một cách hệ thống và toàn diện bức tranh lịch sử về những trụ cột chính trị
và xã hội của chính quyền Việt Nam Cộng hòa từ năm 1955 đến 1963.
- Nghiên cứu về những trụ cột về chính trị - xã hội của chính quyền đệ nhất
Việt Nam Cộng hòa trên tất cả các phương diện không chỉ góp phần vào công tác
nghiên cứu lịch sử miền Nam nước ta mà còn cùng với công trình sử học khác làm
sinh động thêm bức tranh kinh tế - xã hội miền Nam Việt Nam thời đế quốc Mỹ và
tay sai thống trị, góp phần lý giải một số vấn đề của lịch sử dân tộc thời kỳ này, bổ
2
sung và làm phong phú thêm nguồn tài liệu, phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và
những cá nhân quan tâm đến đề tài.
- Đồng thời, rút ra được những ưu điểm cũng như những hạn chế trong việc
xây dựng lực lượng chính trị và xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt Nam cộng
hòa. Qua việc nghiên cứu về những trụ cột về chính trị và xã hội của chính quyền
Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa, rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng
và hoàn thiện việc xây dựng lực lượng chính trị, xã hội và những nên tảng chính trị
- xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Kết quả nghiên cứu:
Thông qua việc nghiên cứu, đề tài làm rõ các vấn đề:
- Khái quát chính quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hòa: Khái quát về quá trình
xác lập của chính quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hòa; phong trào đấu tranh của nhân
miền Nam chống Mỹ- Diệm; sự sụp đổ của chính quyền vào năm 1963.
- Làm rõ những trụ cột chính trị- xã hội của chính quyền Ngô Đình Diệm.
- Trình bày những tác động của các trụ cột chính trị- xã hội đối với chính
quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hòa.
- Nguồn tài liệu học tập và nghiên cứu dành cho các độc giả quan tâm đến
chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa.
5. Đóng góp về mặt kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, an ninh, quốc phòng
và khả năng áp dụng của đề tài:
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn
đề xây dựng Đảng vững mạnh là cấp thiết. Bên canh đó vấn đề đoàn kết dân tộc là
một vấn đề quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Thủ đoạn lợi dụng tôn giáo để chống
phá cách mạng đang trở nên tinh vi của các thế lực phản động. Từ đề tài “Những trụ
cột chính trị- xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hòa” chúng ta rút ra
nhiều bài học kinh nghiệm đối với vấn đề xây dựng Đảng, xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Từ đây, có những chính sách phù hợp đối với các dân tộc, tôn giáo,
đặc biệt là các đồng bào có tôn giáo và tín ngưỡng cần được quan tâm nhiều hơn để
giữ vững tình hình ổn định của đất nước, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh và
bảo vệ thành quả cách mạng mà ông cha ta đã xây dựng lên.
6.Công bố khoa học của sinh viên từ kết quả nghiên cứu của đề tài (ghi rõ họ
tên tác giả, nhan đề và các yếu tố về xuất bản nếu có) hoặc nhận xét, đánh giá của
cơ sở đã áp dụng các kết quả nghiên cứu (nếu có):
Ngày 24 tháng 3 năm 2016
Sinh viên chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài
(ký, họ và tên)
3
TRƯỜNG: ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
Đơn vị: KHOA SỬ
----------------
THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN
CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN:
Ảnh 4x6
Họ và tên: Chế Thị Kim Hằng
Sinh ngày:
23 tháng 10 năm 1995
Nơi sinh: Ninh Thuận
Lớp:
D13LSVN
Khóa: 2013 - 2017
Khoa: Lịch Sử
Địa chỉ liên hệ:
Điện thoại:
0973054440
Email:
[email protected]
II. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP (kê khai thành tích của sinh viên từ năm thứ 1 đến
năm đang học):
* Năm thứ 1:
Ngành học:
Sư phạm Lịch Sử
Khoa:Lịch Sử
Kết quả xếp loại học tập: Trung bình - Khá
Sơ lược thành tích:
* Năm thứ 2:
Ngành học:
Sư phạm Lịch sử
Khoa: Lịch Sử
Kết quả xếp loại học tập: Khá
Sơ lược thành tích:
* Năm thứ 3:
Ngành học:
Sư phạm Lịch sử
Khoa: Lịch Sử
Kết quả xếp loại học tập HK1: Khá
Sơ lược thành tích:
Ngày 24 tháng 3 năm 2016
Xác nhận của lãnh đạo khoa
(ký, họ và tên)
Sinh viên chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài
(ký, họ và tên)
4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................................6
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
Lý do chọn đề tài.............................................................................................6
Mục tiêu đề tài.................................................................................................7
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.......................................................................7
Phương pháp nghiên cứu..............................................................................7
Lịch sử nghiên cứu vấn đề...............................................................................8
Nguồn tài liệu..................................................................................................9
Bố cục đề tài....................................................................................................9
PHẦN NỘI DUNG.............................................................................................................10
CHƯƠNG 1.........................................................................................................................10
KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA......................................10
1.1 Quá trình xác lập của Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa......................................10
1.1.1 Hoa Kỳ thế chân Pháp ở miền Nam Việt Nam............................................10
1.1.2 Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại.............................................................12
1.2 Khủng hoảng chính trị và sự sụp đổ của chính quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng
hòa 1955-1963.....................................................................................................13
1.2.1 Nhân dân miền Nam đấu tranh chống Mỹ - Diệm.....................................13
1.2.2 Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối phó với mâu thuẫn nội bộ...............17
1.2.3 Chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1963...................................18
CHƯƠNG 2.........................................................................................................................22
NHỮNG TRỤ CỘT CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỆ NHẤT VIỆT
NAM CỘNG HÒA.............................................................................................................22
2.1. Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng.............................................................22
2.1.1. Quá trình thành lập Đảng Cần Lao Nhân Vị..............................................22
2.1.2. Cương lĩnh của Đảng Cần Lao Nhân Vị....................................................24
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Đảng Cần Lao Nhân Vị..............................................25
2.1.4. Quá trình hoạt động của Đảng Cần Lao Nhân Vị.......................................26
2.2. Phong trào Cách mạng quốc gia...................................................................28
2.2.1 Sự thành lập của Phong trào Cách mạng Quốc gia....................................28
2.2.2 Cơ cấu tổ chức Phong trào Cách mạng Quốc gia.......................................29
2.2.3 Hoạt động của Phong trào Cách mạng Quốc gia........................................31
2.3. Lực lượng giáo dân công giáo di cư..............................................................32
2.3.1 Nguyên nhân giáo dân công giáo di cư.......................................................32
2.3.2. Tổ chức định cư lực lượng giáo dân công giáo di cư.................................36
2.3.3. Vài con số về cuộc di cư............................................................................38
2.3.4. Lực lượng giáo dân trong hệ thống chính quyền........................................39
CHƯƠNG 3.........................................................................................................................41
ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG TRỤ CỘT CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA CHÍNH QUYỀN
ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA...............................................................................41
3.1. Tác động của Cần lao Nhân vị Đảng đối với chính quyền đệ nhất Việt Nam
Cộng hòa.............................................................................................................. 41
5
3.2. Tác động của phong trào Cách mạng Quốc gia đối với chính quyền đệ nhất
Việt Nam Cộng hòa.............................................................................................43
3.3. Ảnh hưởng của giáo dân Công giáo di cư đối với chính quyền đệ nhất Việt
Nam Cộng hòa.....................................................................................................45
KẾT LUẬN.........................................................................................................................49
PHỤ LỤC ẢNH..................................................................................................................54
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đã trải qua 21 năm dưới chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ,
đây là thời kỳ lịch sử đầy biến động chính trị và những đổi thay to lớn của xã hội
Việt Nam trên nhiều phương diện. Thời kỳ lịch sử đó đặt ra các vấn đề nghiên cứu
cho giới khoa học ở nhiều lĩnh vực, nhất là khoa học lịch sử. Trong những năm qua,
các nhà sử học trong và ngoài nước đã dầy công nghiên cứu và làm sáng tỏ nhiều
nội dung khoa học với không ít vấn đề phức tạp về thời kỳ lịch sử này. Tuy nhiên,
cho đến nay vẫn còn tồn tại những khoảng trống chưa được nghiên cứu và cả những
vấn đề cần được nghiên cứu, đánh giá lại.
Chế độ Việt Nam Cộng hòa cùng với hệ thống các chính sách của Mỹ và
chính quyền tay sai đã gây ra những tác động đa chiều với kinh tế - xã hội Việt Nam
trên khắp các vùng ở miền Nam nước ta. Chế độ Việt Nam Cộng hòa đã từng bước
thực hiện những chính sách của mình, chính sách đó theo chính quyền Việt Nam
Cộng hòa là xuất phát từ những lợi ích thiết thân đồng bào ở miền Nam Việt Nam
mang giá trị nhân văn cao cả. Nhưng thực chất của hệ thống các chính sách của
chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa xuất phát từ những mưu đồ chính trị,
chính sách thực dân mới của Mỹ, do chế độ Việt Nam Cộng hòa là bộ máy tay sai
thực hiện chức năng thống trị trực tiếp dân tộc ta ở miền Nam Việt Nam.
Trong quá trình tồn tại ngoài sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, để trụ vững ở miền
Nam nước ta chính quyền đệ nhất Việt Nam Cộng hòa đã tạo ra cho mình những trụ
cột của chế độ. Quá trình chính thể Việt Nam Cộng hòa hoạt động là quá trình
những trụ cột của chính thể này phát huy vai trò của mình. Vậy những trụ cột của
chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa là gì? Được tổ chức và vận hành trên
những nguyên tắc nào? Chịu ảnh hưởng của những nhân tố gì? Kết quả và xu hướng
phát triển ra sao?...Đó là những vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu.
Nghiên cứu về những trụ cột về chính trị - xã hội của của Đệ nhất Việt Nam
Cộng hòa chính là nghiên cứu, tìm hiểu những thành tố cấu tạo và là chỗ dựa để
một thể chế tồn tại phát triển. Trong suốt thời tồn tại của chế độ Việt Nam Cộng
hòa, Giáo dân Công giáo di cư có vai trò là một lực lượng để thể chế này dựa vào
trên cơ sở là một lực chính trị hậu thuẫn cho chế độ và chế độ Việt Nam Cộng hòa
đã sử dụng các cá nhân của lực lượng Giáo dân trong bộ máy chính quyền như công
cụ phục vụ cho những mục đích khác nhau trong việc xây dựng củng cố, bảo vệ chế
độ. Bên cạnh đó để thống nhất các lực lượng, tạo ra “một thế” lực thực sự có thể
kiểm soát các lĩnh vực và các hội đoàn để củng cố chế độ mình trước các lực lượng
khác nhau, thực thi nhiệm vụ của chính thể, chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng
hòa đã tổ chức và thành lập Phong trào Cách mạng Quốc gia. Song song với lực
lượng Giáo dân Công giáo di cư và Phong trào Cách mạng quốc gia, để thống nhất
về lãnh đạo, thuần nhất về ý thức hệ và để đối trọng các giáo phái chính trị, các tổ
chức xã hội đang có tầm ảnh hưởng khác nhau trên mọi lĩnh vực ở miền Nam Việt
Nam, Ngô Đình Nhu đã thành lập Cần lao Nhận vị Cách mạng Đảng. Ba tổ chức
7
được thành lập, tổ chức và hoạt động với các mức độ, ảnh hưởng khác nhau và trở
thành chỗ dựa chính ở trong nước của chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa.
Chính vì vậy, nghiên cứu về những trụ cột về chính trị - xã hội của chính
quyền đệ nhất Việt Nam Cộng hòa trên tất cả các phương diện không chỉ góp phần
vào công tác nghiên cứu lịch sử miền Nam nước ta mà còn cùng với công trình sử
học khác làm sinh động thêm bức tranh kinh tế - xã hội miền Nam Việt Nam thời đế
quốc Mỹ và tay sai thống trị, góp phần lý giải một số vấn đề của lịch sử dân tộc thời
kỳ này, bổ sung và làm phong phú thêm nguồn tài liệu, phục vụ nghiên cứu, giảng
dạy và những cá nhân quan tâm đến đề tài. Đồng thời, rút ra được những ưu điểm
cũng như những hạn chế trong việc xây dựng lực lượng chính trị và xã hội của
chính quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hòa. Qua việc nghiên cứu về những trụ cột về
chính trị và xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa, rút ra những bài
học kinh nghiệm trong việc xây dựng và hoàn thiện việc xây dựng lực lượng chính
trị, xã hội và những nên tảng chính trị - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục tiêu đề tài
Phục dựng lại một cách hệ thống và toàn diện bức tranh lịch sử về những trụ
cột chính trị và xã hội của chính quyền Việt Nam Cộng hòa từ năm 1955 đến 1963.
Sau đó, tác giả sẽ rút ra những bài học kinh nghiệm cho công tác xây dựng lực
lượng chính trị và xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Thông qua khắc họa những trụ cột về chính trị và xã hội của Việt Nam Cộng
hòa từ 1955 đến 1963, tác giả xác định vị trí, vai trò hệ thống những trụ cột với
chính quyền Việt Nam Cộng hòa (1955-1963).
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài “Những trụ cột về chính trị - xã hội của chính quyền Đệ nhất
Việt Nam Cộng hòa”, đối tượng nghiên cứu chủ yếu là hệ thống những trụ cột về
chính trị - xã hội của chính thể Việt Nam Cộng hòa giai đoạn 1955 đến 1963 cụ thể
là:
Quá trình xác lập, hình thành, tổ chức và hoạt động của Cần lao Nhân vị
Cách mạng đảng, Phong trào Cách mạng Quốc gia và Giáo dân Công giáo di cư.
Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: đề tài sẽ nghiên cứu những trụ cột về chính trị - xã hội của
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa trên không gian “lãnh thổ” Việt Nam Cộng hòa
lúc bấy giờ.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian của đề tài: Ngày 23 tháng 10 năm 1955,
Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại và thiết lập chế độ Việt Nam Cộng hòa. Chính vì
vậy, mốc thời gian nghiên cứu của đề tài là từ khi chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng
hòa thành lập 1955 và đến khi chế độ này bị đảo chính lật đổ vào năm 1963.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tổng thể là dựa vào phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
8
Nam, Nhà nước Việt Nam về vấn đề chiến tranh và cách mạng, về vấn đề dân tộc và
giai cấp.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể là kết hợp hai phương pháp cơ bản của sử
học mácxit là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Hai phương pháp này
không chỉ giúp cho việc tái hiện lịch sử, phân tích và đánh giá những vấn đề lịch sử
mà còn cho phép xem xét lại mối quan hệ bản chất của các vấn đề lịch sử.
Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng những phương pháp cụ thể khác trong khoa
học xã hội nhân văn hiện nay, nhất là thống kê, so sánh, đối chiếu, để xác định các
cứ liệu lịch sử và các vấn đề kinh tế, quân sự, chính trị, xã hội, giáo dục, pháp lý và
các phương pháp liên ngành của chính trị học, xã hội học,.. để có thể đưa ra cái nhìn
toàn diện.
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quá trình thành lập, tồn tại và sụp đổ của Chính quyền Đệ nhất Việt Nam
Cộng hòa là đề tài thu hút được nhiều sự quan tâm của các học giả trong suốt thời
gian qua. Ngay sau khi nhà họ Ngô bị lật đổ Đoàn Thêm có điều kiện được chứng
kiến những sự kiện lịch sử của chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa. Những sự kiện
đó được ghi lại thuần túy theo lối biên niên sử, cung cấp nhiều dữ liệu gốc khá hiếm
hoi trong tác phẩm Những ngày chưa quên (1954 – 1963) xuất bản năm 1969.
Nông Huyền Sơn, Cái chết của anh em nhà họ Ngô, Nxb CAND, 2009. Đặt
vấn đề từ cái chết của anh em Ngô Đình Diệm, tác giả đi vào miêu tả những nhân
vật của gia đình họ Ngô và đặt họ trong chính sách của Mỹ. Từ đó nêu lên bản chất
tay sai phục vụ cho chủ nghĩa thực dân mới Hoa Kỳ của chế độ Đệ nhất Cộng hòa.
Nguyễn Khắc Viện (2008), Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ (Diệu
Bình dịch), Nxb Trí Thức. Qua góc nhìn của một nhà báo, tác giả đã dành 452 trang
viết về miền Nam Việt Nam từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954 – 1963). Tác
phẩm đã miêu tả chân dung chế độ Đệ nhất Cộng hòa qua hoạt động kinh tế, văn
hóa và xã hội, hoạt động đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam,
nhằm cung cấp cho người đọc “ý niệm một lối thoát khả dĩ cho một tình hình nguy
hiểm ở miền Nam Việt Nam” như tác giả viết trong lời mở đầu tác phẩm. Nhiều vấn
đề được tác giả trình bày mang tính thời sự, với nguồn tư liệu chủ yếu từ các báo,
tạp chí xuất bản ở Pháp và một số nước.
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của nhân dân miền Nam trong thời kỳ 1954 – 1975, có đề cập đến các vấn
đề liên quan trực tiếp đến chố độ Việt Nam Cộng hòa như: Cách mạng ruộng đất ở
miền Nam Việt Nam của Lâm Quang Huyên, Nxb Khoa học Xã hội, 1985; Cuộc
xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam, Nxb
Văn hóa, năm 1985 của Lữ Phương; Một cuộc chiến tranh sáu đời tổng thống của
Trần Trọng Trung, Nxb Văn nghệ TP HCM, 1986; Lịch sử Việt Nam 1954-1965 của
Viện sử học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1995; Tổng kết cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước: thắng lợi và bài học của Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh, Nxb
CTQG, 1995; Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 của Lê Cung,
Nxb ĐHQG, Hà Nội, 1999; Phong trào đô thị Huế trong kháng chiến chống Hoa
9
Kỳ (1954 – 1975) của Lê Cung, Nxb Thuận Hóa, 2001; Kinh tế miền Nam Việt Nam
thời kỳ 1955 – 1975 của Đặng Phong, Nxb Khoa học Xã hội, 2004; Cuộc Đồng
Khởi kỳ diệu ở miền Nam Việt Nam của Lê Hồng Lĩnh, Nxb Đà Nẵng, 2005; Giải
mã những bí ẩn của CIA, Nxb Thông Tấn, Hà Nội của tập thể nhiều tác giả.
Ngoài các tác phẩm kể trên, còn có các phẩm được xuất bản dưới chế độ Việt
Nam Cộng hòa: hai bộ sách Thành tích (các năm) hoạt động của chánh phủ VNCH
và Kỷ niệm đệ (nhất, nhị, tam,…) chu niên Ngô Tổng thống chấp chánh được xuất
bản theo từng năm từ 1954 đến 1967; Tổ chức hành chính và các cơ quan chánh
quyền do Tổng nha Ngân sách và Ngoại viện Phủ Tổng thống VNCH xuất bản năm
1962; Vấn đề địa phương phân quyền trong tổ chức hành chánh các đô thị tại Việt
Nam của Quách Tòng Đức (1960) và một số sách về Đảng Cần lao Nhân vị: Nhân
vị chủ nghĩa của Phạm Xuân Cầu (1958); Xây dựng nhân vị của Bùi Tuân(1956);..
Lịch sử Việt Nam hiện kim (1945 – 1956) của Phạm Xuân Hòa, xuất bản tại sài gòn
năm 1957…
Một số tác phẩm hồi ký của các cựu nhân viên, tướng tá chế độ Sài Gòn viết
trước và sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng năm 1975 ít nhiều có giá trị:
Đỗ Thọ (1970), Nhật ký Đỗ Thọ, Nxb Đồng Nai Sài Gòn; Hồi ký Hoàng
Linh Đỗ Mậu (2001), Tâm sự tướng lưu vong (Việt Nam máu lửa quên hương tôi),
Nxb CAND, Hà Nội. Tuy tác phẩm được viết xuất phát từ lập trường chống Cộng,
nhưng do đã từng làm Giám đốc An ninh Quân đội của chế độ Diệm nên Đỗ Mậu
có đủ điều kiện để hiểu rộng, biết sâu về chế độ này, có điều kiện suy ngẫm kỹ hơn,
nhìn nhận moi sự việc tương đối sát thực tiễn để lý giải nguyên nhân thất bại của
chế độ Diệm.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về đệ nhất Việt Nam Công hòa rất
phong phú và đa dạng, đề cập nhiều cấp độ khác nhau nhưng chưa có công trình nào
đề cập trực tiếp đến những trụ cột chính trị và xã hội của chính quyền đệ nhất Việt
Nam Cộng hòa. Các công trình của các học giả là nguồn tư liệu quý, trên cơ sở đó
nhóm tác giả kế thừa và thực hiện đề tài của mình.
6. Nguồn tài liệu
- Tài liệu đã xuất bản: bao gồm các công trình nghiên cứu đã được xuất bản
trong nước và địa phương.
- Tài liệu lưu trữ: hồ sơ lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia II.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài được chia
thành 3 chương:
-
Chương 1: Khái quát về chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa
-
Chương 2: Những trụ cột về chính trị - xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt
Nam Cộng hòa
-
Chương 3: Đánh giá về những trụ cột chính trị - xã hội của chính quyền Đệ
nhất Việt Nam Cộng hòa
10
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA
1.1 Quá trình xác lập của Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa
1.1.1 Hoa Kỳ thế chân Pháp ở miền Nam Việt Nam
Ngày 8-5-1954, một ngày sau khi quân Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ, Hội
nghị Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh Đông Dương khai mạc. Phái đoàn Hoa Kỳ
có mặt tại Giơnevơ, nhưng chỉ tập trung giải quyết vấn đề Triều Tiên. Đối với vấn
đề Đông Dương, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Dulles tuyên bố: “Tốt nhất là để
người Pháp rút ra, sau đó chúng ta sẽ lập một nền tảng mới”[3; 103].
Việc đầu tiên của Hoa Kỳ là trong tháng 6-1954, dùng viện trợ gây sức ép với
Pháp và Bảo Đại để đưa Ngô Đình Diệm (đang sống lưu vong) về nước làm Thủ
tướng Quốc gia Việt Nam.
Ngô Đình Diệm sinh năm 1901 ở Quảng Bình trong một gia đình nhiều đời
theo Công giáo. Cha là Ngô Đình Khả và anh là Ngô Đình Khôi đều làm quan cho
triều đình Huế dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp. Bản thân Ngô Đình Diệm cũng đã
từng làm quan, tích cực đàn áp các cuộc đấu tranh yêu nước và cách mạng. Do đó,
năm 1933 khi 32 tuổi, Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm là Thượng thư Bộ lại và sùng
Cơ mật Viện đại thần. Nhưng không được bao lâu giữa Ngô Đình Diệm và Phạm
Quỳnh có sự mâu thuẫn. Toàn quyền Pháp Pierre Pasquier ủng hộ Phạm Quỳnh nên
Ngô Đình Diệm bất mãn, từ chức. Khi quân Nhật tràn vào Việt Nam (1940), Ngô
Đình Diệm ngả sang theo Nhật, tôn Cường Để lúc này đang sống lưu vong ở Nhật
Bản làm minh chủ. Pháp định bắt Ngô Đình Diệm nhưng Nhật ra tay che chở, đưa
Ngô Đình Diệm vào Sài Gòn rồi sang lánh nạn ở Singapore và Bangkok.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, Hoa Kỳ tập trung phản kích vào chủ nghĩa
Cộng sản và Phong trào Giải phóng dân tộc trên thế giới. Hoa Kỳ giúp Pháp tái
chiếm Đông Dương, ủng hộ lá bài Bảo Đại nhưng vẫn tìm một con cờ dự bị cho
tương lai. Qua Hồng y Francis Joseph Spellman (một người bạn của Giám mục Ngô
Đình Thục, anh trai Ngô Đình Diệm), CIA đã chọn Ngô Đình Diệm. Mượn cớ sang
Roma dự Năm Thánh, năm 1950 Ngô Đình Diệm sang Mỹ. Trên đường đi, Ngô
Đình Diệm ghé lại Tokyo để gặp tiến sĩ Wesley R.Fishel, một nhân viên cao cấp
của cơ quan tình báo Hoa Kỳ CIA nhưng núp dưới bề ngoài là một giảng viên
trường Đại học Chicago và sau đó chuyển sang trường Đại học Michigan. Tại Mỹ,
Spellman đỡ đầu cho Ngô Đình Diệm về nơi ăn chốn ở, còn Fishel đào tạo Ngô
Đình Diệm thành một chính khách tương lai.
Tháng 6-1954, trước viễn cảnh Việt Nam sẽ tạm thời chia thành hai vùng tập
kết quân, Hoa Kỳ lợi dụng lúc Pháp đang rơi vào tình trạng khủng hoảng nội các
(chính phủ của thủ tướng Laniel bị đổ ngày 12-6, trong lúc Pierre Mèndes France
mãi tới 19-6 mới lập xong chính phủ mới), gây sức ép với Pháp, buộc Bảo Đại phải
bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng thay Bửu Lộc. Ngày 16-6, Bảo Đại lấy tư
11
cách là Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam, ký sắc lệnh số 38-QT bổ nhiệm Ngô Đình
Diệm làm Thủ tướng [14]. Ba ngày sau, Bảo Đại ký tiếp Dụ số 15 trao cho Ngô
Đình Diệm toàn quyền cả về dân sự lẫn quân sự [14].
Ngô Đình Diệm về Sài Gòn vào ngày 25-6 và lập chính phủ vào ngày 6-7.
Đây là một thắng lợi cơ bản của Hoa Kỳ trên con đường loại bỏ Pháp và tay chân
của Pháp ở miền Nam, nhưng chưa phải thắng lợi hoàn toàn, vì hai lực lượng vũ
trang ở miền Nam Việt Nam là quân đội và cảnh sát- công an đang nằm trong tay
các thế lực thân Pháp.
Pháp tiến hành “Kế hoạch Navarre” để nhận thêm đô-la của Hoa Kỳ nhưng
vẫn phải ngồi vào Hội nghị Giơnevơ từ 8-5-1954 để bàn chuyện kết thúc chiến
tranh. Bất chấp thái độ tiêu cực của Hoa Kỳ, ngày 21-7-1954, trải qua 8 phiên họp
toàn thể và 23 phiên họp kín, Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam
được ký kết. Tuyên bố cuối cùng của Hội Giơnevơ năm 1954 về vấn đề lập lại hòa
bình ở Đông Dương ngày 21-7-1954 ghi: “…mục đích căn bản của Hiệp định về
Việt Nam là giải quyết các vấn đề quân sự để đỉnh chỉ chiến sự và giới tuyến quân
sự có tính chất tạm thời, hoàn toàn không thể coi là một ranh giới về chính trị hay
về lãnh thổ…Trong quan hệ với Cao Miên, Lào và Việt Nam, mỗi nước tham gia
Hội nghị Giơnevơ cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của những nước nói trên và tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội bộ
của những nước đó”[18; 172].
Hiệp định Giơnevơ cũng quy định một cuộc tổng tuyển cử sẽ được tiến hành
hai năm sau đó để thống nhất Việt Nam – cuộc tổng tuyển cử chắc chắn sẽ mang lại
thắng lợi cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tuy nhiên, Hiệp định còn quy định hai bên tham chiến thực hiện ngừng bắn,
lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời. Lực lượng cách mạng thực hiện
chuyển quân, tập kết ra miền Bắc, giao miền Nam Việt Nam cho chính quyền do
Pháp dựng lên. Cùng ngày, trưởng đoàn đại biểu các nước tham dự Hội nghị
Giơnevơ thông qua tuyên bố cuối cùng. Riêng W.B Smith, thi hành chỉ thị của
chính phủ Mỹ, phát biểu: “chính phủ (Mỹ) không sẵn sang tham gia vào bản Tuyên
bố của hội nghị” và đưa ra một bản tuyên bố đơn phương.
Mỹ cho rằng, với Hiệp định Giơnevơ, Pháp không những không thực hiện
được “chính sách ngăn chặn cộng sản” của Hoa Kỳ mà còn giao miền Bắc cho
chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa (1954) và sẽ giao nốt miền Nam hai năm
sau đó (1956). Vì vậy, Hoa Kỳ quyết định loại bỏ Pháp khỏi miền Nam đồng thời
can thiệp trực tiếp hơn để ngăn chặn việc thi hành Hiệp định Giơnevơ (đặc biệt là
không để cho tổng tuyển cử diễn ra), thiết lập ở miền Nam Việt Nam một chế độ
thân Mỹ. Để hợp pháp hóa cho sự hiện diện của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam,
Ngô Đình Diệm yêu cầu Hoa Kỳ giúp đỡ trực tiếp không thông qua Pháp. Bằng thủ
đoạn này, Hoa Kỳ đã “nhảy” vào miền Nam Việt Nam mà vẫn đảm bảo được các
yếu tố “hợp pháp”, với danh nghĩa vào giúp đỡ đồng minh, hòng che đậy âm mưu
xâm lược miền Nam Việt Nam. Trong thời gian hai năm chờ đợi tổng tuyển cử, Hoa
Kỳ gấp rút đầu tư cho Ngô Đình Diệm xây dựng một chính quyền khả dĩ thành công
12
cụ hữu hiệu thực hiện mục tiêu của Mỹ. Việc đầu tiên Hoa Kỳ giúp Ngô Đình Diệm
tiến hành loại dần các phần tử và các thế lực thân Pháp ở miền Nam Việt Nam như
Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham mưu quân đội Quốc gia Việt Nam, cắt chức Tổng
giám đốc Công an – Cảnh sát của Lại Văn Sang, đánh bật Bình Xuyên ra khỏi Sài
Gòn – Chợ Lớn và giải quyết sự đối đầu với hai giáo phái vũ trang thân Pháp là Cao
Đài Tây Ninh và Hòa Hảo liên kết với nhóm Bình Xuyên, Đảng Đại Việt, Việt Nam
Quốc Dân Đảng, Đảng tự do dân chủ dưới tên gọi là Mặt trận thống nhất toàn lực
quốc gia.
1.1.2 Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại
Sau khi thanh toán thế lực thân Pháp chống đối ở miền Nam Việt Nam, vật
cản cuối cùng đại diện cho thế lực của Pháp ở miền Nam Việt Nam là Quốc trưởng
Bảo Đại được Hoa Kỳ đặt ra trong kế hoạch Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt
Nam. Năm 1955, giải quyết xong những “rào cản” là các phe phái đối lập. Ngô
Đình Diệm bắt tay vào việc phế truất Bảo Đại – sách lược đã được Hoa Kỳ tính toán
từ 1954 bằng việc tổ chức một cuộc “trưng cầu dân ý” gian lận.
Ngày 15-2-1955, Ngô Đình Diệm ban hành Dụ số 11 “Thiết lập Quốc hội
lâm thời cho nước Việt Nam”, chính thức xác lập ở miền Nam Việt Nam “một quốc
gia riêng biệt” – hành động vi phạm trắng trợn và ngang nhiên Hiệp định Giơnevơ.
Ngay sau khi thành lập, Quốc hội lâm thời thống nhất phế truất Bảo Đại và suy tôn
“Ngô Chí sĩ”. Ngày 29-4-1955, từ Pháp, Bảo Đại gửi điện văn triệu tập Ngô Đình
Diệm sang Pháp nhằm truất ngôi của Ngô Đình Diệm. Đáp lại, Ngô Đình Diệm
triệu tập Hội đồng nội các để lấy ý kiến bác bỏ điện văn triệu tập của Bảo Đại. Tiếp
đó, triệu tập phiên họp bất thường, dùng danh nghĩa “Đại hội các lực lượng quốc
gia” lập kiến nghị phế truất Bảo Đại. Cho lập ra “Hội đồng Nhân dân Cách mạng”
để đề xướng “Phong trào” nhân dân phế truất Bảo Đại.
Dưới sự chỉ đạo của Ngô Đình Nhu, Trần Chánh Thành – Chủ tịch Phong
trào Cách mạng Quốc gia yêu cầu toàn bộ các cơ quan, đoàn thể từ trung ương đến
địa phương ký đơn theo mẫu sẵn bôi nhọ Bảo Đại và suy tôn Ngô Đình Diệm.
Ngày 10-5-1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố giải tán chính phủ do Bảo Đại lập
ra trước đây và dựng lên chính phủ mới. Ngày 8-8-1955, các đại diện “dân cử” họp
“đồng thanh” quyết định phế truất Bảo Đại. Ngày 23-10-1955, cuộc “trưng cầu dân
ý” được tổ chức rầm rộ, dưới sự kiểm soát tối đa bộ máy cảnh sát, công an, mật vụ
và thông tin. Nhân dân miền Nam bị ép buộc đi bỏ phiếu dưới sự áp đặt của chính
quyền. Kết quả của cuộc “trưng cầu dân ý”, Ngô Đình Diệm giành 5.721.735 phiếu
(đạt 98.2% số phiếu), Bảo Đại 63.018 (đạt1.1%) trong tổng số 5.828.907 người đi
bầu [33].
Bằng cuộc trưng cầu dân ý gian lận, Hoa Kỳ - Ngô Đình Diệm đã gạt được
Bảo Đại phần tử thân cận nhất của Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Như vậy, với lá bài Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ từng bước loại Pháp và các
phần tử thân Pháp ở miền Nam Việt Nam. Hoa Kỳ đưa Ngô Đình Diệm về miền
Nam làm Thủ tướng thay cho Bửu Lộc để nắm chính quyền, cách chức Nguyễn Văn
Hinh để nắm quân đội, loại bỏ Lại Văn Sang để nắm công an, cảnh sát, đánh dẹp
13
lực lượng vũ trang các giáo phái Cao Đài Tây Ninh và Hòa Hảo, cuối cùng đến phế
truất Bảo Đại, Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống. Như vậy, Hoa Kỳ thông qua
chiêu bài Ngô Đình Diệm thay chân Pháp xâm lược Việt Nam, nhằm thực hiện
những ý đồ thâm độc, tiêu diệt bằng được phong trào cách mạng của nhân dân miền
Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, làm căn cứ quân sự của
Mỹ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội tràn xuống Đông Nam Á. Đồng
thời lấy miền Nam Việt Nam làm căn cứ để tiến công miền Bắc, hòng đè bẹp phong
trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ
nghĩa khác.
1.2 Khủng hoảng chính trị và sự sụp đổ của chính quyền Đệ Nhất Việt Nam
Cộng hòa 1955-1963
1.2.1 Nhân dân miền Nam đấu tranh chống Mỹ - Diệm
Trước hành động phá hoại Hiệp định Giơnevơ của Mỹ - Diệm, nhân dân
miền Nam quyết giữ vững thành quả cách mạng, khắp nơi đã đứng lên đấu tranh
bảo vệ hòa bình, đòi chính quyền Ngô Đình Diệm nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định
Giơnevơ, thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Ngay tại Sài Gòn – Chợ
Lớn, 10 ngày sau Hiệp định Giơnevơ được ký kết, 50000 người xuống đường mittin, mở đầu cho phong trào đấu tranh chính trị khắp đô thị miền Nam. Tiếp đến
25000 người dân Đà Nẵng và 15000 người dân ở Huế biểu tình đòi Ngô Đình Diệm
đòi thi hành hiệp định Giơnevơ, chống bắt lính, đòi thả tù chính trị. Hưởng ứng
phong trào đấu tranh của nhân dân các đô thị, ở nông thôn khắp các làng mạc, khẩu
hiệu biểu tình mừng hòa bình, đòi thực thi các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ.
Trong các đồn điền, công nhân tổ chức bãi công, đình công phản đối chính quyền
Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ.
Từ tháng 7-1955, phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam phát
triển rầm rộ. Phong trào càng trở nên mạnh mẽ khi chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa liên tục gửi công hàm yêu cầu nhà đương cục miền Nam thực hiện
nghiêm túc Hiệp định Giơnevơ và tuyên bố sẵn sang hiệp thương đi đến thống nhất
đất nước.
Ở miền Trung, nhân dân các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hòa,…tổ chức các cuộc biểu tình, đưa các kiến nghị lên Ủy ban quốc
tế kiểm soát đình chiến, yêu cầu chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành Hiệp định
Giơnevơ.
Chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn ngoan cố không chịu thực hiện, ngay giữa
năm 1955, khi cơ bản loại lực lượng thân Pháp, được sự hậu thuẫn của Mỹ, chính
quyền Ngô Đình Diệm tập trung đàn áp lực lượng cách mạng và quần chúng yêu
nước, thực hiện “Tố Cộng”, và coi đây là “Quốc sách”, giết hại, bắt bớ, cầm tù hàng
vạn người, song không ngăn được phong trào đấu tranh khắp nơi. Chiến dịch tố
cộng đã vấp phải sự chống đối mạnh mẽ trong các tầng lớp nhân dân, ngay cả trong
giới công chức cũng chống đối quyết liệt, tại các cuộc họp tay chân của chính quyền
bị chất vấn gay gắt. Tình hình đó làm cho chính quyền Ngô Đình Diệm hết sức lúng
túng và thốt lên rằng “Giới công chức ăn cơm quốc gia nhưng thờ ma Cộng sản”.
14
Ngay cả lực lượng Cao Đài mặc dù Phạm Công Tắc đã phải chạy trốn sang
Campuchia, nhiều chức sắc Cao Đài và Hòa Hảo bị bắt nhưng chính quyền Ngô
Đình Diệm cũng không dập tắt được sự chống đối của giáo phái này.
Trong giới Công giáo, sự chống đối chính quyền cũng đã trở nên gay gắt, đến
mức cha sứ Sài Gòn là linh mục Hồ Văn Vui, ngày 10-2-1957 đã nói: “Người Công
giáo Việt Nam đang bị đàn áp như ở những thời kỳ đầu của kỷ nguyên Thiên Chúa
giáo, dù họ có tội hay không có tội. Các trường Tư thục Công giáo đều bị áp đặt và
kiểm soát. Cầu xin Đức Chúa trời hãy nhổ sạch những giống cỏ dại đang tràn ngập
chúng ra này”[32; 202]. Nghiêm trọng hơn vì bất bình với chính quyền, nhiều cuộc
biểu tình của người di cư, những nông dân nghèo trong các Dinh điền, Khu trù mật
nổ ra với quy mô ngày càng lớn. Họ tố cáo chính quyền bỏ mặc trong cảnh khốn
cùng, những lời hứa hẹn về một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc mà chính quyền đem
đến cho họ chỉ là lời “hứa hão”.
Chính quyền Ngô Đình Diệm cũng vấp phải sự chống đối của Hoa kiều,
nhằm mục đích chính trị và kinh tế, chính quyền Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh
bắt Hoa kiều phải từ bỏ quốc tịch của mình để nhập quốc tịch Việt Nam Cộng hòa
và Sắc lệnh cấm người nước ngoài (trực tiếp là Hoa kiều) không được làm nhiều
nghề liên quan đến kinh tế. Trước quyết định bất công đó, Hoa kiều lên tiếng phản
đối, không thể đấu tranh trực tiếp, họ nhờ chính quyền Đài Loan can thiệp, cảnh báo
chính quyền Sài Gòn về: “Những hậu quả không đáng mong muốn có thể xảy ra từ
sự thi hành sắc lệnh này mà chính phủ Việt Nam Cộng hòa sẽ phải chịu trách
nhiệm” [32;205]. Đồng thời họ rút tài khoản ở các ngân hàng, tẩy chay hàng hóa
của Việt Nam Cộng hòa ở Hương Cảng, Singapore…
Từ cuối năm 1956, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam
có bước phát triển mới. Không chỉ dừng lại ở những cuộc đấu tranh chính trị đơn
thuần, mà còn xuất hiện hình thức đấu tranh vũ trang tuyên truyền, vũ trang tự vệ
với sự ra đời của các đơn vị vũ trang quy mô từ tiểu đội đến đại đội.
Các phong trào đấu tranh chống đàn áp, khủng bố, đòi tự do dân chủ, đòi hòa
bình thống nhất đất nước nổ ra quyết liệt và rộng khắp từ nông thôn đến thành thị
với sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân như công nhân, nông dân, tiểu
tư sản, trí thức và các thành phần tôn giáo,….
Từ cuối năm 1957, sự câm phẫn của nhân dân miền Nam không dừng lại ở
những cuộc đấu tranh chính trị đơn thuần. Các báo cáo, phúc trình của chính quyền
Việt Nam Cộng hòa ghi nhận trong năm 1957 có sự hình thành của các vùng căn cứ,
các làng chiến đấu và các đơn vị vũ trang tập trung. “Đầu năm 1957, trên toàn miền
Nam, lực lượng cách mạng đã xây dựng được trên 30 đại đội vũ trang”[40; 200].
Các căn cứ địa, chiến khu D, U Minh, Đồng Tháp Mười, Tây Nguyên và Khu V
được xây dựng trở lại. Từ đây các hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác, trừ gian
của lực lượng cách mạng diễn ra sôi nổi trên khắp miền Nam. Sự gia tăng các hoạt
động vũ trang của lực lượng cách mạng trong thời gian 1956-1958 thời kỳ được coi
là ổn định nhất của chế độ Ngô Đình Diệm, giáng một đòn mạnh mẽ vào chính
quyền tay sai thực dân mới Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam.
15
Đặc biệt, từ năm 1959, phong trào cách mạng xuất hiện hình thức nổi dậy
công khai chống chính quyền Ngô Đình Diệm của nhân dân một số tỉnh miền
Trung. Ngày 6-2-1959, dân chúng 11 làng đồng bào Bana ở huyện Vĩnh hạnh (Bình
Định) nổi dậy, dời làng vào rừng lập làng chiến đấu, công khai chống lại chính
quyền Ngô Đình Diệm. Ngày 7-2-1959, nhân dân huyện Bắc Ái (Ninh Thuận), nổi
dậy phá khu trù mật, trở về làng cũ, tổ chức vũ trang, xây dựng làng chiến đấu
chống lại các cuộc càn quét của Ngụy quân.
Đối phó với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh của nhân dân
miền Nam, ngày 5-6-1959, Ngô Đình Diệm ban hành Luật 10/59, thực hiện khẩu
hiệu “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót” – áp dụng chính sách phát xít nhất để tiêu diệt
cách mạng miền Nam Việt Nam.
Về phía cách mạng, trên cơ sở thực tiễn đấu tranh của nhân dân miền Nam
Việt Nam, ngày 3-1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
họp Hội nghị lần thứ 15 dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh đề ra nghị quyết về cách
mạng miền Nam, nêu rõ nhiệm vụ của cách mạng miền Nam: “Giải phóng miền
Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và
người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ và nhân dân ở miền
Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh” [7;81]. Xác định: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở
miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Dựa vào lực lượng
chính trị quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính
quyền đế quốc và phong kiến dựng lên chính quyền cách mạng của nhân
dân”[9;82].
Nghị quyết 15 ra đời đáp ứng nhu cầu bức thiết của cách mạng và nguyện
vọng của cán bộ và đồng bào miền Nam. Với đường lối và mục tiêu đúng đắn đã tạo
bước chuyển mạnh mẽ đối với phong trào cách mạng miền Nam, từ thế giữ gìn lực
lượng, phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam phát triển thành thế tiến công,
tiến lên “khởi nghĩa” từng phần giành chính quyền.
Mở đầu là các cuộc tiến công tiêu diệt các cơ sở của chính quyền Sài Gòn ở
nhiều nơi như Trà Bồng (Quảng Ngãi) ngày 28-8-1959, cùng với Trà Bông các
huyện Ba Tơ, Sơn Hà cũng đứng lên khởi nghĩa. Trong khi chính quyền Ngô Đình
Diệm đang phải đối phó với tình hình miền Trung thì tháng 1-1960 đồng khởi nổ ra
ở Bến Tre nhanh chóng lan ra cả Đông Nam bộ tạo thành một phong trào rộng khắp
ở miền Nam. Qua phong trào Đồng Khởi lực lượng cách mạng ngày càng lớn mạnh
cả về thế và lực. Ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam ra đời lãnh dạo nhân dân miền Nam chống Mỹ - Diệm. Sau sự ra đời của Mặt
trận, ngày 15-2-1961 Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được tái thành lập.
Đối với Hoa kỳ sau 5 năm, vào chính thời điểm chính quyền Việt Nam Cộng
hòa có sự ổn định nhất, cuộc Đồng Khởi của nhân dân miền Nam đã làm đảo lộn
toàn bộ thế chiến lược. Chính sách thực dân mới của Mỹ có nguy cơ thất bại. Trong
khi đó, thực hiện chủ trương của Trung ương Cục miền Nam, quân dân miền Nam
tiến công trên cả ba mũi giáp công trên cả ba mặt trận.
16
Lúng túng trước diễn biến của miền Nam Việt Nam, tháng 2-1962, Tổng
thống Kennedy cử em trai đang làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hoa kỳ sang Sài Gòn thị
sát tình hình. Sau chuyến đi của Robert Kennedy chính quyền Hoa Kỳ quyết tâm
“tăng tốc” cho kế hoạch Stayley – Taylor bằng việc tăng nhịp độ hoạt động quân sự
để năm 1962 xứng đáng là năm bản lề của kế hoạch Stayley – Taylor, năm đại phản
công giành lại quyền chủ động chiến lược trên chiến trường, năm hoàn thành kế
hoạch bình định. Trong nửa đầu 1962, sự gia tăng về hoạt động của Hoa Kỳ - Ngô
Đình Diệm đã gây những khó khăn nhất định cho cách mạng.
Trên cơ sở thực tiễn cách mạng, ngày 27-2-1962, Bộ Chính trị Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam ra nghị quyết về nhiệm vụ của cách mạng miền Nam ,
khẳng định: “Sự can thiệp ngày càng sâu của Hoa Kỳ vào miền Nam Việt Nam sẽ
gây nhiều khó khăn cho cách mạng miền Nam, sẽ làm cho cuộc đấu tranh ngày càng
ác liệt, nhưng thực tế, với đà can thiệp hiện nay của Mỹ, căn bản tương quan lực
lượng giữa ta và địch và đối tượng của cách mạng vẫn chưa có gì thay đổi”[37;
304]. Từ đó đi đến kết luận về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam Việt
Nam là: “Kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh chính trị, quân sự, giành và giữ vững thế
chủ động, đẩy địch vào thế bị động hơn nữa, tích cực xây dựng lực lượng về mọi
mặt, ra sức ngăn chặn kế hoạch Stayley – Taylor”[40; 307]. Tháng 4-1962, Nghị
quyết của Đảng Lao động Việt Nam được Trung ương Cục cụ thể hóa với ba nhiệm
vụ: “tích cực phá ấp chiến lược, ra sức xây dựng và mở rộng căn cứ địa, khẩn
trương xây dựng lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân; đẩy mạnh tác chiến tiêu hao,
tiêu diệt sinh lực địch”[40; 308]. Cách mạng miền Nam với hình thức tiến công
sáng tạo: “hai chân, ba mũi, ba vùng”; kết đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang,
bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận trên cả ba vùng chiến lược
“rừng núi, đồng bằng, thành thị”. Nhưng trong thời gian đầu cách mạng miền Nam
gặp không ít khó khăn trang bị, quân số…Hơn 36 200 chiến sĩ cách mạng bị bắt, bị
thương hoặc hy sinh. Cơ sở cách mạng trong các ấp chiến lược bị bóc gỡ, vùng giải
phóng bị thu hẹp. Song từ nửa cuối năm 1962, với phương châm nâng cao khả năng
du kích, đánh trả chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xạ vận” của Hoa Kỳ - Ngô
Đình Diệm, Trung ương Cục miền Nam phân công cán bộ về tận cơ sở hướng dẫn
kinh nghiệm chống càn, phá ấp chiến lược. Đặc biệt, những kinh nghiệm đúc kết
trong Hội nghị dân quân, du kích toàn miền tháng 11-1962 do Trung ương Cục
miền Nam tổ chức được phổ biến với các cấp cơ sở. Hội nghị này có ý nghĩa quan
trọng, làm chuyển biến phong trào chiến tranh du kích, chống càn, phá ấp chiến
lược của nhân dân miền Nam. “Kết quả tính chung trong năm 1962, trên toàn miền
Nam, lực lượng cách mạng đã phá 2665 ấp chiến lược, giải phóng hoàn toàn 4441
thôn với 6,5 triệu dân trên tổng số 17 162 thôn” [40;312].
Đối với Mỹ, kế hoạch Stayley – Taylor trong năm 1962 diễn ra không như
dự tính, khiến chính giới Hoa Kỳ không khỏi lo âu. Dù đưa vào miền Nam Việt
Nam lực lượng đông gấp 10 lần năm trước, thực hiện được 90% kế hoạch quân đội
Việt Nam Cộng hòa, về quân số tăng lên gấp 20 lần quân giải phóng. Với ưu thế
tuyệt đối về trang bị kĩ thuật, thực hiện được 600 trận oanh kích, pháo kích, lập
17
được 3700 ấp chiến lược nhưng vẫn không thay đổi được cục diện. Trong khi quân
giải phóng ngày càng trưởng thành về mọi mặt.
1.2.2 Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối phó với mâu thuẫn nội bộ
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam do Ngô Đình Diệm
cầm đầu được sự giúp đỡ của Mỹ, cơ bản được xây dựng hoàn bị. Cộng thêm các
thành tích do chương trình Cải cách Điền địa và các cuộc càn quét, triệt phá các cơ
sở cách mạng, tiêu diệt lực lượng yêu nước…khiến Hoa Kỳ và Ngô Đình Diệm tin
rằng, năm 1957 là thời cơ vàng son của nền Đệ nhất Cộng hòa. Chính trường miền
Nam Việt Nam hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của anh em Ngô Đình Diệm.
Tính chất dân chủ giả hiệu của chế độ Việt Nam Cộng hòa được củng cố với sự xuất
hiện một số phe đối lập của Phan Quang Đán, Trần Văn Hữu…
Về quân sự, tiền viện trợ và sự huấn luyện của cố vấn Hoa Kỳ đã biến quân
đội Việt Nam Cộng hòa từ quân đội “ô hợp” thời Pháp thành quân đội chính quy
được trang bị hiện đại và được bảo trợ bởi cái ô SEATO. Trong khi đó Tổng thống
Hoa Kỳ Eisenhower tiếp tục cổ vũ cho Ngô Đình Diệm khi tuyên bố: miền Nam
Việt Nam là dinh lũy của thế giới tự do, là tiền đồn quan trọng của Hoa Kỳ ở Viễn
Đông.
Nhưng sự thật đằng sau những lời tuyên bố lạc quan của chính giới Mỹ,
những mâu thuẫn trong lòng chế độ Ngô Đình Diệm nhanh chóng phơi bày. Từ nửa
cuối năm 1957, tình hình miền Nam Việt Nam bắt đầu chuyển động và càng trở nên
ảm đạm đối với Ngô Đình Diệm. Sau những năm thực hiện chính sách mị dân, kết
hợp sử dụng công cụ bạo lực để tiêu diệt cách mạng, kìm kẹp quần chúng, thanh
trừng đối lập. Cái chính mà chế độ Ngô Đình Diệm có được là sự căm phẫn, sự đấu
tranh phản kháng của quần chúng yêu nước và cách mạng miền Nam đã làm cho nội
bộ Việt Nam Cộng hòa lục đục. Đến năm 1959, tình hình tài chính mỗi năm càng
thâm hụt, tình trạng an ninh trở nên phức tạp, có phần nguy hiểm. Phong trào cách
mạng miền Nam thực sự chuyển mình, đấu tranh chính trị kết hợp vói đấu tranh vũ
trang tuyên truyền phát triển thành khởi nghĩa giành chính quyền, đẩy chế độ Ngô
Đình Diệm tới bờ vực suy thoái.
Sự phục hồi và phát triển của lực lượng cách mạng làm cho mâu thuẫn nội bộ
chế độ Ngô Đình Diệm tăng cao. Nhằm củng cố quyền lực, Ngô Đình Diệm ra tay
thanh trừng nội bộ, ngày càng nhiều phần từ vốn trung thành với Ngô Đình Diệm
trước đây bị tước đoạt quyền lợi quay lưng với chế độ và ra mặt chống đối, lên tiếng
tố cáo chính sách độc tài, gia đình trị của anh em Ngô Đình Diệm. Phong đấu tranh
của nhân Việt Nam chống Mỹ - Diệm đã làm bùng nổ mâu thuẫn giữa các phe phái
trong chế độ Việt Nam Cộng hòa. Người Hoa Kỳ bắt đầu nghĩ tới việc thay thế
những người trong gia đình Ngô Đình Diệm. Ngược lại, để củng cố vị trí và quyền
lực, ngăn ngừa đảo chính, Ngô Đình Diệm thanh trừng bộ máy chính quyền và quân
đội. Tháng 10-1958, chỉ huy trung tâm huấn luyện Quang Trung bị cắt chức, tiếp đó
Nguyễn Hữu Châu – Bộ trưởng, Thiếu tướng Dương Văn Đức phải chạy trốn sang
Pháp; Đại tá Woòng A Sáng bị cắt chức, tịch thu tài sản; tướng Lê Văn Tỵ phải
“ngồi chơi xơi nước”, nhiều tỉnh trưởng bị thải hồi tiêu biểu là Nguyễn Trân – một