LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp: “ Nhân vật trong truyện Dế Mèn
phiêu lưu kí của Tô Hoài” tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy
cô giáo trong khoa Giáo dục Tiểu học trường Đại học Hùng Vương đã giúp tôi
trong suốt thời gian qua. Đặc biệt tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới cô
giáo Nguyễn Thị Thu Thủy, thầy đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ để tôi hoàn thành
khóa luận này. Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn
bè đã luôn ở bên quan tâm, động viên, giúp đỡ tôi trong khi thực hiện đề tài
khóa luận này. Để hoàn thành khóa luận này tôi đã cố gắng tìm hiểu, phát huy
hết khả năng của bản thân song thời gian và năng lực còn hạn chế nên không
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy
cô giáo và các bạn để đề tài khóa luận này được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân
thành cảm ơn!
Phú Thọ, ngày 10 tháng 05 năm 2018
Sinh viên
Đỗ Thị Minh Hà
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài................................................................................ 1
2. Ý nghĩa khoa học .......................................................................................... 4
2.1. Ý nghĩa lý luận ........................................................................................... 4
2.2. Ý nghĩa thực tiễn ....................................................................................... 4
3. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 5
5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu ................................................................ 5
5.1. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 5
5.2. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................. 5
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 5
6.1. Phương pháp thống kê, so sánh. ............................................................... 5
6.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp. .......................................................... 5
6.3. Phương pháp phân tích văn bản theo đặc trưng thể loại ....................... 6
7. Giả thiết khoa học ........................................................................................ 6
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: TÔ HOÀI VÀ TÁC PHẨM DẾ MÈN PHIÊU LƯU KÍ........... 7
1.1. Nhà văn Tô Hoài ........................................................................................ 7
1.1.1. Vài nét về tác giả ..................................................................................... 7
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác. ................................................................................... 7
1.1.3.Đặc trưng truyện đồng thoại của Tô Hoài ................................................ 10
1.2. Tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí ............................................................... 14
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác và những điều thú vị về tác phẩm ............................ 14
1.2.2. Nội dung tác phẩm ................................................................................. 19
1.2.3. Bài học trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí .......................................... 25
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................ 29
CHƯƠNG 2: SỨC HẤP DẪN CỦA NHÂN VẬT TRONG DẾ MÈN
PHIÊU LƯU KÍ .............................................................................................. 30
2.1. Nhân vật ham thích phiêu lưu, ưa mạo hiểm ......................................... 30
2.2. Nhân vật giàu lý tưởng và khát vọng sống ............................................. 36
2.3. Nhân vật giàu lòng dũng cảm, trọng nghĩa tình, khinh danh ............... 39
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................ 42
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG DẾ MÈN
PHIÊU LƯU KÍ CỦA TÔ HOÀI ................................................................... 43
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình nhân vật.
......................................................................................................................... 44
3.2. Nghệ thuật xây dựng qua tình huống truyện ......................................... 52
3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật thông qua ngôn ngữ sinh động, giàu biểu
cảm .................................................................................................................. 61
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................... 74
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 77
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong mọi thời kì, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận định rõ vai trò đặc biệt
quan trọng của công tác giáo dục để đưa ra những định hướng và chủ trương
phát triển kịp thời gắn liền với thời đại. Ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới,
tại Đại hội Đảng lần thứ VII Đảng ta đã khẳng định phát triển giáo dục và khoa
học công nghệ là quốc sách hàng đầu. Chủ trương đó được tiếp tục nhấn mạnh
trong những nghị quyết của Đảng các nhiệm kì tiếp theo, cho đến nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đưa ra định hướng đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế. Trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát
triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt. Đại hội
cũng một lần nữa nhấn mạnh vai trò to lớn của giáo dục và đào tạo. Giáo dục và
đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, đẩy mạnh tiếp thu khoa học công nghệ và kinh tế tri thức góp phần quan
trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam.
Trong hệ thống giáo dục Việt Nam, giáo dục Tiểu học có một vị trí đặc
biệt quan trọng. Bậc Tiểu học là bậc học đầu tiên, bậc học nền tảng của quá trình
giáo dục quốc dân, bậc học đào tạo những cơ sở ban đầu cơ bản và bền vững
cho trẻ để cho trẻ tiếp tục học lên các bậc học trên, đồng thời cũng giúp trẻ hình
thành nên những nét cơ bản của nhân cách. Do vậy, giáo dục ở bậc Tiểu học có
tính chất đặc biệt mang những nét đặc sắc riêng và tính sư phạm đặc trưng.
Trong hệ thống giáo dục đào tạo bậc Tiểu học môn Tiếng Việt đóng vai
trò quan trọng. Nó góp phần xây dựng phẩm chất và năng lực nền tảng cho học
sinh để thực hiện mục tiêu giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện
trong môn Tiếng Việt, các bộ phận văn học có quan hệ mật thiết với nhau. Các
bộ phận văn học này không những góp phần giúp các em rèn luyện kĩ năng để
sử dụng tốt Tiếng Việt mà còn hình thành năng lực cảm thụ nghệ thuật của một
tác phẩm văn học để học tốt môn Ngữ văn về sau.
2
Ở bộ môn Tiếng Việt bậc Tiểu học, một bộ phận văn học quan trọng được
đưa vào chương trình là mảng văn học thiếu nhi - thể loại gần gũi với đời sống
thường nhật của trẻ. Vì vậy, khả năng nhận xét, quan sát ban đầu của trẻ rất khái
quát, chủ yếu là bên ngoài, cái mà được tác phẩm đề cập tới.Trong chương trình
văn học thiếu nhi, có rất nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng như: Trần Đăng Khoa,
Phạm Hổ, Võ Quảng…và đặc biệt hơn là Tô Hoài. Ông có rất nhiều tác phẩm
viết về loài vật như: Dế Mèn phiêu lưu kí, Đámcưới Chuột, Dê và Lợn… Tác
phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí đã tạo nên một thành công mới cho Tô Hoài trong
sự nghiệp sáng tác văn chương của mình, đồng thời tác phẩm được nhiều các
bạn đọc đón nhận đặc biệt là thiếu nhi.
Hơn nửa thế kỉ đã qua văn xuôi của Tô Hoài một nhà văn lớp trước, một
cây bút tài hoa, vẫn phát triển với tinh thần lao động cần mẫn và sáng tạo. Ở mỗi
chặng đường, thành tựu có thể khác nhau nhưng bao giờ Tô Hoài cũng có một
cách nhìn, một phong cách độc đáo. Ông đã có những đóng góp lớn cho sự
nghiệp văn học nước nhà với một số lượng tác phẩm đồ sộ. Tác phẩm của ông
rất phong phú về đề tài và đa dạng về thể loại. Từ truyện ngắn cho đến truyện
dài, tiểu thuyết, bút kí, truyện người lớn, truyện thiếu nhi gắn với nhiều đề tài:
Hòa bình và chiến tranh, miền núi và miền xuôi, thành thị và nông thôn, lịch sử
và hiện đại,… Ở đề tài nào, thể loại nào ông cũng gặt hái được những thành
công và để lại tiếng nói của mình.
Song những tư tưởng biểu hiện nhất quán qua hàng mấy chục tác phẩm
thiếu nhi của Tô Hoài là lòng yêu thương và trân trọng con người và đối tượng
được ngưỡng mộ trước hết là những mầm nụ còn tươi non đang cần được bồi
đắp để bước vào đời. Đối với các em ngòi bút của Tô Hoài bộc lộ nhiều phẩm
chất mới lạ. Từ trang văn đầu tiên cho đến những trang viết gần đây nhất của
ông vẫn là tâm hồn tươi trẻ, ân cần và cảm thông, ông không chỉ đến với các em
ở một thời điểm nào đó của văn chương, mà ông đến với các em bằng sự nhiệt
huyết, nhiệt tình của cả cuộc đời. Ông là nhà văn của các em. Đặc biệt, Tô Hoài
rất thành công với truyện đồng thoại. Các tác phẩm của ông xuất phát từ những
gì gần gũi thân thuộc nhất.
3
Mỗi câu chuyện đều chứa đựng một bài học lí thú, mà tác giả muốn gửi
gắm tới các em. Ông trông đợi và tin tưởng ở các em những điều dặn dò. Những
câu chuyện đó lí thú dẫn các em vào thế giới của ước mơ, được đi xa để mở
mang tầm nhìn, sống chan hòa thân thiện với mọi người, biết sống và đấu tranh
vì lí tưởng cao đẹp: như anh Dế Mèn, như chú Chuột, như võ sỹ Bọ Ngựa.
Dế Mèn phiêu lưu kí được viết vào năm 1941, là truyện đồng thoại xuất
sắc của Tô Hoài, được nhiều người trong và ngoài nước biết đến. Trong thời kì
đen tối của những năm tháng mà mỗi cuộc đời như bị thu hẹp và ngăn chặn lại
trong tù túng, bế tắc, thì cảm hứng giải thoát qua một hành trình phóng khoáng,
một chuyến phiêu lưu cũng có ý nghĩa tích cực và tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu
kí ra đời trong hoàn cảnh đó.
Tác phẩm đã khẳng định được tiếng nói đặc sắc cũng như vị trí văn học
của Tô Hoài trong nền văn học Việt Nam nói chung, văn học thiếu nhi nói
riêng.Khi đọc tác phẩm thiếu nhi sẽ bị lôi cuốn vào thế giới côn trùng đa dạng
giàu kịch tính, li kì pha trộn cả hiện thực và tưởng tượng: Có anh Dế Mèn khỏe
mạnh, giàu lí tưởng; có chàng Dế Choắt yếu ớt, còm nhom; có anh Dế Trũi thủy
chung, tài năng,…
Bằng ngòi bút tài tình ông đã lột tả hết được những nét đặc sắc của nhân
vật qua những chi tiết chân thực, nét vẽ cụ thể, điệu bộ tự nhiên cả thế giới nội
tâm của chúng thật gần gũi và ngộ nghĩnh đáng yêu biết bao. Ở Dế Mèn phiêu
lưu kí, từ sự quan sát bên ngoài đến nội dung bên trong của nhân vật Dế Mèn
chính là hình ảnh của Tô Hoài và cảnh sốnhoàn cảnh xã hội đương thời Tô Hoài
đã từng tâm sự: “Mọi chuyện loài vật thực ra là vấn đề của nhân vật của con
người.Chủ đề và triết lí của truyện loài vật hoàn toàn là vấn đề của con
người.Có điều đặc biệt là tôi đều dựa trên thực tế chi tiết về từng con vật và sinh
hoạt của con vật chứ không phải tưởng tượng vu vơ” [7, 135].
Phong cách văn xuôi của Tô Hoài mở ra thiên bình diện sáng tạo, ông là
cây bút sắc sảo và tài hoa. Các tác phẩm của ông thuộc nhiều loại hình, gắn với
nhiều đề tài và ở phạm vi nào ông cũng có những thành tựu, bút lực của ông dồi
dào và đang mở ra về phía trước. Với Dế Mèn phiêu lưu kí là một giấc mộng
4
của tuổi thơ biểu thị lòng ham thích sự sống bay bổng nơi cao xa và một chí
hướng muốn vượt khỏi những “khuôn khổ bằng phẳng”.
Dế Mèn phiêu lưu kí là một giấc mộng, một giấc mộng luôn hướng tới
một chân trời mới, một tương lai mới tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn. Tôi yêu thích
tác phẩm này cũng vì tôi yêu thích cách xây dựng nhân vật của tác giả, mỗi nhân
vật có một tính cách khác nhau, cùng chung sống dưới một mái nhà như một xã
hội loài người thu nhỏ lại. Ở đó cũng có ước mơ bay xa, và những khao khát
cháy bỏng. Vì vậy tôi đã chọn nghiên cứu đề khóa luận “Nhân vật trong truyện
Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài”.
Trong chương trình 2000 thì tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí được đưa
vào môn Tập đọc ở Tiểu học với đoạn trích mang tên là Dế Mèn bênh vực kẻ
yếu ở chương trình Tập đọc lớp 4 với chủ điểm Thương người như thể thương
thân. Đoạn trích đã để lại bài học nhân văn sâu sắc đó là giáo dục học sinh có
tấm lòng nghĩa cử, hào hiệp luôn biết giúp đỡ những người hoạn nạn, khó khăn
xung quanh mình. Điều này càng chứng tỏ rất sức hấp dẫn và ảnh hưởng của
một tác phẩm giàu giá trị.
2. Ý nghĩa khoa học
2.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu đề tài này giúp chúng ta thấy được đặc sắc của nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong Dế Mèn phiêu lưu kícủa Tô Hoài, thấy được sức hấp dẫn
của nhân vật trong tác phẩm và có cái nhìn nhận sâu sắc về ý nghĩa và giá trị của
tác phẩm.
2.1. Ý nghĩa thực tiễn
Khóa luận là tài liệu tham khảo ích dụng cho giáo viên, sinh viên khi
nghiên cứu, học tập về văn học thiếu nhi, nhân vật văn học của tác giả Tô Hoài.
Khóa luận cũng là tài liệu bổ ích cho giáo viên, học sinh các trường Tiểu
học khi học về tác giả Tô Hoài và tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí.
3. Mục tiêu nghiên cứu
5
- Nghiên cứu về thể loại truyện đồng thoại, truyện về loài vật - truyện
viết cho thiếu nhi. Đây là thể loại đặc sắc nhất mà tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu
kí là một đại diện tiêu biểu.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu về Tô Hoài và tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kívà đặc biệt là
nghiên cứu về đặc sắc của nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác
phẩm này.
5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
5.1. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận khảo sát tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài với mười
chương với nội dung là nói về cuộc đời và những chuyến phiêu lưu của Dế Mèn
để lại những bài học nhân văn sâu sắc.
5.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài “Nhân vật trong truyện Dế Mèn phiêu
lưu kí của Tô Hoài” thực chất là ta đi nghiên cứu sức hấp dẫn của nhân vật và
nghê thuật xây dựng nhân vật trong Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài để hiểu
sâu sắc về hơn về Tô Hoài cây bút tài hoa, miêu tả tinh tế, sống động.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp thống kê, so sánh.
Phương pháp này giúp chúng tôi khảo sát và thống kê các đặc điểm nhân
vậtTừ đó xác định được đặc sắc của nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện
Dế Mèn phiêu lưu kí.
Phương pháp so sánh giúp ta thấy được nghệ thuật xây dựng nhân vật
trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí mang một đực sắc riêng rất “Tô Hoài”.
6.2. Phương pháp phân tích tổng hợp.
Phương pháp phân tích lý thuyết: Là phương pháp phân tích lý thuyết
thành những mặt, những bộ phận, những mối quan hệ theo lịch sử thời gian để
nhận thức, phát hiện và khai thác các khía cạnh khác nhau của lý thuyết từ đó
chọn lọc những thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
6
Phương pháp tổng hợp lý thuyết: là phương pháp liên quan kết những
mặt, những bộ phận, những mối quan hệ thông tin từ các lý thuyết đã thu thập
được thành một chỉnh thể để tạo ra một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc
về chủ đề.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp có quan hệ mật thiết với nhau
tạo thành sự thống nhất không thể tách rời: phân tích được tiến hành theo
phương hướng tổng hợp, còn tổng hợp được thực hiện dựa trên kết quả của phân
tích. Trong nghiên cứu lý thuyết, người nghiên cứu vừa phải phân tích tài liệu,
vừa phải tổng hợp tài liệu để nghiên cứu
Phân tích yếu tố ngôn ngữ nhân vật để làm rõ góp phần làm rõ nghệ thuật
xây dựng nhân vật. Phương pháp tổng hợp giúp cho người viết có cái nhìn khái
quát, toàn diện hơn về khả năng xây dựng nhân vật của Tô Hoài trong tác phẩm
Dế Mèn phiêu lưu kí.
6.3. Phương pháp phân tích văn bản theo đặc trưng thể loại
Phân tích tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí với đặc trưng là truyện đồng
thoại chúng tôi tìm hiểu và phân tích hệ thống nhân vật trong truyện, phân tích
nghệ thuật truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả.
7. Giả thiết khoa học
Phát hiện ra nét đặc sắc của nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Dế Mèn
phiêu lưu kí của Tô Hoài sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nhà văn, tài năng nghệ
thuật của nhà văn trong việc xây dựng hệ thống nhân vật với những đặc sắc
riêng và nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình.
7
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÔ HOÀI VÀ TÁC PHẨM DẾ MÈN PHIÊU LƯU KÍ
1.1. Nhà văn Tô Hoài
1.1.1. Vài nét về tác giả
Tô Hoài sinh ngày 27/9/1920 trong một gia đình làm nghề thủ công, tên
khai sinh là Nguyễn Sen. Quê nội ở thị trấn Kim Bài (tỉnh Hà Đông) nhưng sinh
ra và lớn lên ở làng Nghĩa Đô (nay thuộc Hà Nội).
Ông học hết học Tiểu học, chủ yếu lăn lội kiếm sống và học trong trường
đời. Bước vào tuổi thanh nhiên, ông đã phải bươn trải rất nhiều nghề như: dạy
trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn … nhiều khi thất nghiệp cuộc sống vô cùng vất
vả. Ông tham gia hoạt động cách mạng từ thời kì Mặt trận bình dân, làm thư kí
ban trị sự Hội Ái Hữu Tho Dệt Hà Đông, tham gia Thanh niên Phản Đế, Hội
Truyền bá Quốc ngữ, từ đó luôn tham gia vào viết Báo trí Mật, tuyên truyền
cách mạng cho tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Có lần, ông bị thực
dân Pháp bắt giam, cũng trong thời gian này, ông thực hiên chuyến đi này từ
Bắc vào Nam.
Sau cách mạng tháng Tám, Tô Hoài lần lượt công tác ở cơ quan báo chí
văn nghệ. Những năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954), ông làm phóng
viên rồi chủ nhiệm báo Cứu quốc, tham gia chiến dịch Việt Bắc, Tây Nam. Năm
1945, ông công tác ở Hội văn nghệ Việt Nam. Từ 1975, là Tổng thư kí, rồi phó
tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam …
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác.
Ông tham gia hoạt động văn hóa khá sớm. Ông đến với làng văn bằng
những bài thơ lãng mạn nhưng không thành công, sau được chú ý khi chuyển
sang mảng văn xuôi hiện thực khoảng những năm 40. Cho đến nay, Tô Hoài đã
viết trên một trăm năm mươi tác phẩm văn xuôi với nhiều thể loại, đề cập đến
nhiều đề tài khác nhau, trong đó có khoảng sáu mươi sáng tác của trẻ em.
Trước năm 1945 đến nay, ông tập chung vào 2 thể loại: truyện đồng thoại
về loài vật như: Dế Mèn phiêu lưu kí, Đám Cưới Chuột, Dê và Lợn… và truyện
vùng ven đô với cuộc sống lầm than như: Quê người nhà nghèo …
8
Những năm kháng chiến, Tô Hoài đã cho ra đời hàng loạt những tác phẩm
đề tài miền núi: Núi cứu quốc (tập truyện ngắn 1949), Xuống làng (tập truyện
ngắn 1950), Truyện Tây Bắc (tập truyện ngắn 1954)…
Từ năm 1945 đến nay, sáng tác của ông ngày càng phong phú về tài và
thể loại như: truyện ngắn (Khác trước, Vỡ tỉnh…), bút kí (Thành phố Lênin,
Lăng Bác Hồ…), tiểu thuyết (Mười năm, Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ,
Quê nhà…), hồi kí (Cát bụi chân ai …),
Tô Hoài cũng dành nhiều thời gian và tâm sức để sáng tác cho các em:
Ông có nhiều tuyển tập: Tuyển tập Tô Hoài (ba tập, 1993), Tuyển tập truyện
ngắn Tô Hoài (trước và sau năm 1945, ba tập 1994), Tuyển tập truyện viết cho
thiếu nhi (hai tập 1994)… Khối lượng tác phẩm đồ sộ của Tô Hoài đã phản ánh
cả một thời đại sinh động. Cho dù viết về đề tài gì, tác phẩm của ông cũng mang
tính hiện đại và tính thời sự sâu sắc.
Nét nổi bật của Tô Hoài là năng lực quan sát và miêu tả kinh tế, vốn hiểu
biết đời sống và phong tục các dân tộc khá phong phú, lối văn giàu hình ảnh và
luôn biến đổi nhịp điệu, ngôn ngữ sáng tạo, linh hoạt. Tô Hoài đã được nhận
nhiều giải thưởng về văn học như: Giải giải thưởng văn nghệ năm 1954-1955
(Truyện Tây Bắc), Giải thưởng của Hội nhà văn Á- Phi năm 1970 (Tiểu thuyết
miền Tây), giải thưởng Hồ Chí Minh về văn hóa – nghệ thuật (1966). Cụ thể:
Trước cách mạng, qua các sáng tác cho thiếu nhi trước cách mạng tháng Tám,
nhà văn Tô Hoài đã kín đáo gửi gắm những ý nghĩa lớn về vấn đề tự do, đoàn
kết, thái độ đối với cường quyền và nêu lên lý tưởng sống tiến bộ của người trí
thức. Bằng cách đó tác giả đã vượt qua lưới kiểm duyệt gắt gay của thực dân
Pháp cũng như phát xít Nhật, đồng thời góp một tiếng nói giàu sức sống vào giai
đoạn chuyển mình của cả dân tộc. Truyện của Tô Hoài được viết trên hai mảng:
đề tài cổ và đề tài sinh hoạt.
Về mảng đề tài cổ, tiêu biểu nhất cho đề tài này là Ôngtrạng Chuối vừa
có dáng dấp một truyện thần thoại, vừa có những mô típ quen thuộc của một
truyện cổ tích thần kỳ. Chỉ riêng việc lý giải nguồn gốc của Ông trạng Chuối đã
thâu tóm toàn bộ bộ truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh. Phần tiếp nối miêu tả
9
những biến cố trong cuộc đời của ông Trạng, hình hài con cá chuối đã giúp ông
Trạng thử thách được lòng tốt của con người, gặp gỡ được người yêu thích đích
thực. Qua đó, câu chuyện đã đề cao tình yêu thương và lòng tốt của con người,
phê phán cái xấu, ác đồng thời khẳng định chỉ có tình yêu thương mới giúp con
người sống thật với chính mình, giúp người ta sống có ích hơn, còn những kẻ ác
không bao giờ hại được người ngay thẳng.
Về mảng đề tài sinh hoạt: được miêu tả bằng những mẩu chuyện đồng
thoại, vừa lồng ghép những mẩu chuyện đạo đức dưới những hình thức nghệ
thuật nghộ nghĩnh, hấp dẫn, vừa bộc lộ tình cảm yêu thương, đoàn kết chống
cường quyền. Bài học phê phán thói kiêu căng, tự phụ, không tự nhận thức được
sức mạnh của bản thân của các cậu bé mới lớn được thể hiện qua Võ sĩ Bọ Ngựa,
mô phỏng phần đầu của Dế Mèn phiêu lưu kí. Anh chàng Bọ Cạp sau khi bắt
nạt được Châu Chấu Ma và Gián ông đã tưởng mình là kẻ mạnh đi gây gổ với
những người hàng xóm và rồi cũng đi du lịch như Dế Mèn. Nhưng sự khó nhọc
bao ngày của anh ta không bằng một cái vỗ của bác Cồ Cộ có thể cắp anh ta lên
tít ngọn dừa. Ở đây, anh chàng Bọ Ngựa nhận được lời dạy bảo thích đáng, từ đó
chừa hẳn thói ngông cuồng, trở thành đứa con ngoan ngoãn và khiêm tốn.
Những bài học về thói đạo đức giả, xu thời, trọng hình thức… thường có ở đời
thường cũng được nhắc đến trong Đám cưới Chuột qua sự khác biệt trong cách
đánh giá của bà con làng xóm đối với Chuột Nhắt trước và sau khi đỗ đạt. Đồng
thời, thói học đòi làm sang của ông bà Thử trong Bố mẹ Chuột Nhắt cũng gây ra
những bi hài chua xót. Nhưng bao trùm tất cả những cái đó là ánh sáng lấp lánh
của một lẽ sống mới, cao quý hơn rộng lớn hơn qua những lời tâm tình của ông
Chuột Cống. Tiếp đó là bài học về tình đoàn kết trở đi trở lại trong Dê và Lợn và
Ba anh em. Nếu như truyện Dê và Lợn khẳng định rằng sự chia rẽ nội bộ bao giờ
cũng dẫn đến thất bại cho dù mục đích có cao đẹp đến đâu chăng nữa thì truyện
Ba anh em lại càng đề cao sức mạnh đoàn kết, khẳng định sự đoàn kết khiến cho
những người khác nhau về tính cách, ngoại hình, nguồn gốc… cũng đều là anh
em một nhà.
10
Sau cách mạng, Tô Hoài đã tiếp nối những thành tựu trước, đồng thời bổ
sung thêm những sắc thái mới, đó là hình ảnh sống động của cuộc sống chiến
đấu gian khổ chống thực dân Pháp với những gương thiếu nhi anh hùng, dũng
cảm, đó cũng là hình ảnh cuộc sống thay đổi từng ngày từng giờ trên miền Bắc
những năm hòa bình.
Về mảng đề tài cổ thì hòa nhịp với không khí chiến đấu và lao động của
toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ một nền cộng hòa non trẻ, Tô
Hòa đã viết lại một số truyền thuyết và cổ tích dưới ánh sáng thời đại mới, đó là
Chuyện ông Gióng, Chuyện nỏ thần…
Với mảng đề tài sinh hoạt, những câu chuyện đồng thoại như: Chim lạc
rừng… đã bộc lộ một cái nhìn ngỡ ngàng trước những đổi thay trên miền Bắc
đang xây dựng cuộc sống mới,qua đó bộc lộ lòng biết ơn đối với dân tộc và chế
đó.
1.1.3. Đặc trưng truyện đồng thoại của Tô Hoài
Truyện đồng thoại là một thể loại văn học rất phù hợp với trẻ bởi các em
có thể tìm thấy trong truyện truyện đồng thoại những đặc điểm tâm lí lứa tuổi
mình, ví dụ như: khả năng tưởng tượng mạnh mẽ, sự vui tươi mới lạ, đặc biệt là
cái nhìn đồng nhất với vạn vật xung quanh. Truyện viết cho thiếu nhi của Tô
Hoài chủ yếu được viết dưới dạng đồng thoại và ông đã thể hiện những câu
chuyện này bằng những thủ pháp nghệ thuật độc đáo.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật, trước hết là việc miêu tả nhân vật. Tác giả
dùng những chi tiết qua sự quan sát tinh tế để miêu ngoại hình và dùng ngoại
hình để gợi tả nội tâm, miêu tả hành động để thể hiện tính cách nhân vật, ví dụ
như: nói về chim Bói Cá kệch cỡm, phô trương, Tô Hoài miêu tả: “Tôi trông lão
này có vẻ nhiều tuổi rồi, người đã hom hem quắt lại rồi. Xong lão Bói cá xưa
nay nổi tiếng là già mà hay là đỏm trái mùa. Đã hóp má rồi lại hay tỏ vẻ hơ hớ
trai tân. Lão sắm đâu được bộ cách sặc sỡ không hợp tí nào với bộ mặt âm thầm
của lão. Bụng trắng, lưng xanh thắt đáy, đôi cánh mượt mà biếc tím. Chân lão
đi đôi hài đỏ hắt. Lão sẽ đôi chút đẹp trai đấy, nếu lão có cái mỏ vừa phải,
11
nhưng cơ khổ, lão phải vác giữa cái mặt một cái mỏ kếch xù, mà đen quá, xấu
quá, dài quá….”
Còn để toát lên tính kiêu căng, ngổ ngáo của Dế Mèn tác giả miêu tả:
“Tôi tợn lắm, dám cà kịa với tất cả bà con trong xó to tiếng thì ai cũng nhịn…”
Tôi quát mấy chị Cào cào ngụ ngoài đầu bờ… thỉnh thoảng, tôi ngứa chân đá
một cái, ghẹo anh Vọng Vó lấp ló vừa ngơ ngác dưới đầm lên… ’’
Tiếp đó là phép nhân hóa và tính chất biểu tượng con người qua thế giới
loài vật. Mượn thế giới loài vật để miêu tả con người là một đặc điểm không thể
thiếu của truyện đồng thoại. Những nhân vật đó không chỉ mang tính chất xã hội
lịch sử, mang đời sống gắn liền với con người mà còn là quan niệm về tính cách
và các tư tưởng mà tác giả muốn thể hiện. Tùy theo ý định của tác giả mà mức
độ và tích chất biểu hiện khác nhau. Tính chất biểu tượng trong truyện loài vật
của Tô Hoài mang nhiều nét riêng biệt độc đáo và đạt những giá trị khác nhau.
Khi miêu tả loài vật, Tô Hoài đã là cho các loài vật hiện ra như chính nó trong
thực tế, nhưng bản thân các con vật là con vật này lại không hề khô khan bởi
nhân vật đã được mô tả trong sự vận động và phát triển. Tác giả đã khoát lên
mình mỗi con vật một tính cách đó đại diện cho mỗi kiểu người trong xã hội.
Như con Dế Mèn được hiện ra rất ấn tượng với đôi càng mẫm bóng, những cái
vuốt ở chân, ở kheo nhọn hoắt, cái đầu to nổi từng tảng dáng đi hùng dũng… là
hình bóng của một chàng thanh niên khỏe mạnh, có bản lĩnh và hiếu động. Con
Dế Choắt với dáng gầy gò, dài lêu nghêu, cánh ngắn củn, râu ria cụt lủn, mặt
mũi ngẩn ngơ… hiện ra là một chàng trai yếu đuối, bệnh tật. Con Mèo (Con
Mèo Lười) là hiện thân của kẻ lười nhác, lại hay biện hộ cho tính lười của mình,
nhưng khi được bạn bè và người thân giúp đỡ thì Mèo đã sửa chữa được lỗi lầm
của mình. Lão Trê ( Cái kiện của Lão Trê) đại diện cho lớp người xấu xí, tham
lam, sống chỉ biết mình, không quan tâm tới mọi người xung quanh… Nhìn
chung khi đưa tính biểu tượng vào truyện loài vật, Tô Hoài đã có sự đổi mới
trong việc sử dụng nhân vật. Người đọc đã rất quen thuộc với hình ảnh Hổ, Sư
Tử gắn với sự hung bạo, uy quyền; Cáo ranh mãnh, xảo quyệt, Thỏ hiền lành,
nhút nhát… Đến Tô Hoài, người đọc tìm thấy ở các con vật đặc điểm mới,
12
những biểu tượng mới. Nét sáng tạo độc đáo về loài vật thể hiện mới mẻ trong
cái nhìn hiện thực của Tô Hoài. Từ việc đi vào những nét đời thường trong sinh
hoạt, trong đời sống hàng ngày và việc lựa chọn nhân vật để phản ánh hiện thực
thì Tô Hoài đã làm cho bạn đọc nhỏ tuổi tiếp cận cuộc sống một cách rõ ràng
hơn.
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đó là một sở trường của nhà văn Tô Hoài.
Trong các truyện đồng thoại của mình, ông đã cho bạn đọc tiếp xúc với những
trang miêu tả thiên nhiên thật gợi cảm. Tác giả đã bộc lộ một khả năng nhạy
cảm và nắm bắt cái hồn của cảnh vật. Thiên nhiên qua cái nhìn của ông được thể
hiện qua nhiều góc độ. Khi là một khung cảnh đẹp đẽ và thơ mộng với nhiều
màu sắc, âm thanh. Đó là cảnh mùa xuân với: “Mùi hoa hồng, hoa huệ sực nức
bốc lên. Trong không khí vắng bóng, hơi nước lạnh lẽo. Không khí bây giờ sáng
và đầy hương thơm. Cây hồng bì đã rũ bỏ những áo lá già đen thui. Những cành
xoan khẳng khiu đang trổ lá. Những cành xoan gầy lại buông ra những tàn hoa
sang sáng, tim tím” (Chim lạc rừng). Hay một mùa xuân tươi vui với nhiều âm
thanh, mùi vị: “Những ngày xuân mới lại bắt đầu, chim hót ơi ới đầu cành, ánh
nắng lụa phủ trên chòm cây. Những vật cỏ trở lại non tươi, xanh mơn mởm khắp
mặt đất, cỏ xuân nhấp ngọt như đường phèn” (Dế Mèn phiêu lưu kí). Cũng có
khi thiên nhiên được thể hiện hết sức dữ dội, khắc nghiệt và buồn bã: “Thế là
mùa rét đã tới. Cánh đồng vắng ngắt, màu xám trên trời và dưới đất liền vòa
nhau và ở giữa có gió suốt ngày đêm… Ngoài đồng, mây đêm cuồn cuộn, gió
thổi tan tác, mặt đất và gió lùa có giá buốt lùa vào tận gan ruột, không ai muốn
cất một bước… Trên bãi đồng và bờ ruộng chỉ có màu xám màu những đám gốc
rạ và gốc cỏ của trẻ chăn trâu đã nhổ lên chất đống để đốt sưởi. Đám khói cỏ
xanh ngắt trong vòm trời gió buốt, càng đượm vẻ thê lương” (Dế Mèn phiêu lưu
kí). Thiên nhiên chứa đựng cả tâm hồn nhân vật và tâm hồn nhà văn trong đó.
Qua những trang văn này, người đọc dễ dàng nhận thấy vẻ đẹp của cảnh vật và
sự hòa hợp, giao cảm của con người với thế giới thiên nhiên. Tô Hoài thường
miêu tả thiên nhiên trong những thời gian cụ thể: mùa xuân, mùa hạ, mùa thu
hay mùa đông. Cũng có khi là sự thay đổi thời gian cụ thể trong ngày như: buổi
13
sáng ở một làng quê miền núi, nhìn từ xa cả làng như bừng sáng trong ánh ban
mai: “Nắng sớm đương tỏa nắng rực rỡ cả đến những chân cột nhà. Bóng xanh
lá, bóng vàng nắng lẫn lộn, lao xao như reo. Các xóm nhỏ của mùa đông vừa
thức dậy, mở chăn choàng ra trong nắng”. Vào buổi chiều không gian như co
dần lại, mọi cảnh sắc chuyển dần về tĩnh mịch, im ắng: “Bóng nắng nhạt đằng
cuối núi. Chân trời như các vườn cam chín đằng xa và chốc đổi màu giống vạt
áo chàm rồi mờ hẳn”. Và đây là một đêm trăng sáng, mọi cảnh hòa quyện vào
nhau, sống động: “Trên cao, mặt trăng sáng vằng vặc. Làn gió đưa đẩy những
chiếc lá tre dài và nhọn đẫm sương óng ánh thành một nét sắc trong bóng
trăng’’ ( Dế Mèn phiêu lưu kí). Đồng thời, Tô Hoài còn miêu tả thiên nhiên gắn
liền với tâm trạng nhân vật tạo nên sự liên tưởng, gần gũi, gắn bó giữa thiên
nhiên với con người như: khi hoàng hôn buông xuống, mặt nước phương trời
bỗng sáng lên trong giây lát, đượm vẻ bao la, khêu gợi vô hạn lòng giang hồ.
Hay hôm đấy nước đầm trong xanh. Những đám cỏ mượt rời rợi. Trời đầy mây
trắng. Gió hiu hiu thổi như dục lòng kẻ ra đi. Hay “Chuồn chuồn Tương đã
thong thả bay đi trong hàng làn ánh trăng chảy lênh láng trên mặt lá sáng đẹp
như ban ngày. Trăng sáng gây cho lòng ta một cảm giác dịu dàng và yêu đời dù
trong hoàn cảnh đau khổ”. Với lối miêu tả thiên nhiên kì thú, đầy màu sắc, thiên
nhiên vận động trong thời gian, không gian. Tô Hoài đã mang đến cho các em
một cách cảm nhận với một niềm xúc động thiết tha mới. Cũng như khi Tô Hoài
miêu tả loài vật, thiên nhiên qua cái nhìn của ông luôn có sức sống riêng.
Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Tô Hoài cũng tạo nên một ấn tượng sâu
sắc cho độc giả. Sáng tác của Tô Hoài nói chung và truyện đồng thoại của ông
nói riêng đã thể hiện một quá trình lao động sáng tạo công phu mà trong đó yếu
tố ngôn ngữ được ông đặc biệt quan tâm. Tô Hoài quan niệm rằng: mỗi chữ đều
soi bóng hoàn cảnh mỗi lúc chữ ấy ra đời… Người viết không thể ngồi bóp óc
suy nghĩ trau dồi câu chữ mà phải đi vào thực tế đời sống thực tế mới bồi bổ
được chữ nghĩa cho ngòi bút của mình. Không một tài năng to lớn nào có thể
nghĩ ra được chữ, chỉ có tích lũy nhiều chữ đã chắt chiu được hàng ngày mới có
14
cơ hội sáng tạo ra chữ của ngòi bút. Nằm trong sự sáng tạo chung của tác phẩm
đồng thoại, ngôn ngữ của Tô Hoài cũng có sự sáng tạo và đổi mới không ngừng.
Ông đã sử dụng một hệ thống ngôn ngữ sinh động, cụ thể và luôn luôn
mới lạ, phù hợp với cách nói, cách nghĩ của trẻ nhất là trẻ em Việt Nam. Nói đến
nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đồng thoại của Tô Hoài phải kể đến ngôn ngữ
miêu tả. Không chỉ quan sát tỉ mỉ, công phu ông còn chịu khó sưu tầm, ghi chép,
lựa chọn những từ ngữ thật điển hình. Trước hết là hệ thống ngôn ngữ so sánh
đầy ấn tượng, thứ hai là ngôn ngữ miêu tả dí dỏm làm cho nhân vật thêm sinh
động, như: già mà hay làm đỏm trái mùa, đã hóp mà lại còn hay tỏ ra hơ hớ trai
tơ…, thứ ba là ngôn ngữ vui tươi sinh động, như: những bác Rô già, Rô cụ lực
lượng, đầu đuôi đen xì lẫn màu bùn. Nhìn chung với ngôn ngữ miêu tả sinh
động, lời văn dí dỏm, lối nói ví von mọi vật trở nên sinh động, hấp dẫn trong
mắt trẻ thơ.
Với ngôn ngữ đối thoại, sử dụng ngôn ngữ đối thoại trong truyện đồng
thoại, Tô Hoài đã mang đến cho các em hệ thống ngôn ngữ giao tiếp trong đời
sống hàng ngày. Đó là những ngôn ngữ rất cụ thể, súc tích và mọi linh hoạt
trong mọi tình huống. Đọc những lời đối thoại, các em thấy cuộc sống như đang
hiện ra trước mắt, quen thuộc và gần gũi đồng thời các em cũng dễ nhập tâm vào
mỗi nhân vật trong giao tiếp, góp phần nâng cao khả năng giao tiếp của mình
trong cuộc sống.
1.2. Tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác và những điều thú vị về tác phẩm
Dế Mèn phiêu lưu kí ra đời năm 1941, đây có thể nói là thời kì đen tối
nhất trong lịch sử Việt Nam. Dân ta sống trong hoàn cảnh “thân một cổ hai tròng
áp bức”. Tô Hoài nằm trong số thanh niên lúc bấy giờ sớm giác ngộ cách mạng,
yêu hòa bình, ghét chiến tranh, mơ ước một cuộc sống tự do, bình đẳng, bác ái.
Khao khát được thể hiện lí tưởng, nhưng trong sự kiểm duyệt gắt gao của thực
dân Pháp, Tô Hoài đành phải gửi gắm giấc mơ của mình vào những truyện đồng
thoại. Dế Mèn phiêu lưu kí là một tác phẩm xuất sắc trong các tác phẩm thời
đó. Tác phẩm không chỉ thể hiện ước mong thay đổi hoàn cảnh, khát vọng về
15
một thế giới đại đồng mà còn bộc lộ thiên hướng văn chương của Tô Hoài qua
khả năng quan sát tinh tế, hóm hỉnh, trí tưởng tượng bay bổng, vốn từ ngữ giàu
có, chính xác và một bút pháp miêu tả độc đáo, tài tình.
Là tác phẩm thiếu nhi được Tô Hoài viết từ năm 17 tuổi
Theo những gì Tô Hoài kể lại, nhà văn nhận được đơn “đặt hàng” của chủ
nhà xuất bản Tân Dân viết về đề tài thiếu nhi, nhưng ban đầu nhà văn vẫn băn
khoăn không biết viết gì. Nhà văn Tô Hoài kể: “Tôi ngồi tha thẩn đầu làng bên
cửa sông Tô Lịch, trông ra dòng nước quanh co. Trên bãi cỏ cạnh gò cỏ, có mấy
đám trẻ đang múc nước đúc dế. Chúng tôi hàng ngày những lúc thong thả vẫn
ra bãi sông để chơi đúc dế. Những con dế mèn được đúc bỏ vào rọ, đêm đi chơi
cho dế vật nhau. Tôi đã đúc dế, chơi dế từ năm lên mười, bên cây gạo có hoa đỏ
ối từ bao năm nay. Tôi chợt nghĩ: hay là ta viết chuyện con dế mèn, con dế mèn
ta đúc, ta chơi chọi dế từ bao năm nay”.
Thế là truyện Con dế mèn ra đời. Bản thảo gửi đi, hơn một tháng sau thì
nhà văn được ông chủ nhà xuất bản Tân Dân cho người kéo xe tay tới tận nhà (ở
làng Nghĩa Đô) mời lên nhà in nhận sách và nhuận bút. Truyện Con dế mèn, tiền
thân của Dế Mèn phiêu lưu kí đã “trình làng” như thế. Sách in lần đầu tại nhà
xuất bản Tân Dân năm 1941, với vẻn vẹn chỉ ba mươi trang in, là ba chương đầu
của cuốn Dế Mèn phiêu lưu kí hiện nay. Truyện Con dế mèn bán rất chạy. Ông
chủ nhà xuất bản Tân Dân hào phóng trả cho nhà văn mười đồng nhuận bút và
mời viết tiếp truyện Con dế mèn.
Cũng như lần trước, phần tiếp theo của Con dế mèn bán rất chạy. Tuy
nhiên, để có một Dế Mèn phiêu lưu kí hoàn chỉnh như chúng ta thấy hiện nay
thì phải đến năm 1954, khi tác giả cho nhập hai cuốn Con dế mèn và Dế Mèn
phiêu lưu kí làm một trong một bản in ở Nhà Xuất Bản Thanh niên.
Hiện đã được dịch ra gần bốn mươi thứ tiếng
Tính đến nay, Dế Mèn phiêu lưu kí đã được dịch ra nhiều thứ tiếng: Pháp, Nga,
Đức, Trung Quốc, Nhật Bản, Ba Lan, Nam Tư, Rumani, Cuba, Hàn Quốc, Lào,
Campuchia, Thái Lan… trở thành tác phẩm văn học Việt Nam được dịch ra
16
nhiều thứ tiếng nhất (do Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam xác nhận vào năm
2006).
Có lượng xuất bản hàng đầu trong nước từ trước đến nay
Khoảng năm mưới lần tái bản là con số đầu tiên. Tác phẩm được in lần
đầu tiên năm 1941. NXB Kim Đồng in lại vào cuối năm 1957, đầu năm 1958.
Từ đó đến thời kỳ đổi mới, tác phẩm được tái bản vài lần nhưng không liên tục.
Đặc biệt, từ năm 1993 đến nay, tức hai mốt năm, Dế Mèn phiêu lưu kí được tái
bản liên tục.
Số bản sách được bán ra, đến tay độc giả thiếu nhi Việt Nam nhiều thế hệ,
ước tính lên đến hàng triệu bản.
Có lượng bạn đọc yêu mến hàng đầu trong các tác phẩm văn học.
Tác phẩm của Tô Hoài về tuổi thơ có rất nhiều. Nhưng có lẽ, Dế mèn
phiêu lưu kí là cuốn tiểu thuyết sống theo năm tháng nhất cho dù thế hệ nào đi
nữa, thì tinh thần dũng cảm, phiêu lưu, sự độc lập của chú dế mèn trong tác
phẩm rất đáng được học tập, ngưỡng mộ.
Là một trong mười tác phẩm văn học thiếu nhi kinh điển
Cùng với Đất rừng phương Nam hay Tuổi thơ dữ dội… Dế Mèn phiêu
lưu kí là một trong những cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ thiếu nhi
Việt Nam.
Dế Mèn phiêu lưu kí đã trở thành một tác phẩm văn học kinh điển dành
cho thiếu nhi Việt Nam và được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Bằng sự
quan sát tỉ mỉ, tinh tế, Tô Hoài đã vẽ nên một thế giới côn trùng sinh động và
phức tạp chẳng kém gì thế giới loài người. Những đặc điểm thú vị và thói quen
sinh hoạt đặc trưng của các loài Dế, Xén Tóc, Cóc, Châu Chấu, Kiến… sẽ rất
hấp dẫn đối với các độc giả nhỏ tuổi, lứa tuổi thích khám phá tìm hiểu về thế
giới xung quanh.
Dế Mèn phiêu lưu kí được viết bằng một giọng văn hài hước và ý nhị.
Câu chuyện có nhiều biến cố, tình huống bất ngờ kích thích trí tưởng tượng của
các em nhỏ. Nhân vật chính của tác phẩm, chàng Dế mèn vừa can đảm, tốt bụng,
trượng nghĩa nhưng cũng có những lúc kiêu căng, ngạo mạn, gây ra bao hậu
17
quả… sẽ đem lại cho các em những bài học đầu tiên về tình bạn và cách ứng xử
trong cuộc sống. Đây cũng là tác phẩm giàu lý tưởng, ấp ủ mơ ước về một thế
giới đại đồng, nơi tất cả đều là anh em, bạn bè.
Tô Hoài được coi là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ. Dế Mèn phiêu
lưu kí là một bằng chứng thuyết phục về điều đó. Qua việc quan sát, miêu tả các
thuộc tính cơ bản của nhóm côn trùng, tác giả bộc lộ tâm hồn tinh tế, nhạy cảm
với thiên nhiên. Đồng thời, qua việc gán ghép cho chúng những tính cách người
thật phù hợp, người ta có thể nhìn thấy nét tài hoa của tác phẩm. Hiển hiện trước
mắt chúng ta một hình ảnh Dế Mèn cường tráng, một Dế Choắt ốm yếu, những
cô Cào Cào đỏm dáng ưa làm duyên, một gã Bọ Ngựa huyênh hoang và lố bịch,
một gã Chim Trả trai tơ làm đỏm trái mùa… qua những miếu tả sinh động với
một loạt tính từ và từ láy. Rồi tâm tính của các nhân vật cũng bộc lộ rõ qua các
ngôn ngữ và cử chỉ, đây là đồ Cốc dốt hay nói chữ “đi xa” đã ngất xỉu, đây là
bác Xiến Tóc chán đời vứt bỏ cả hoài bão cũ đi ở ẩn lánh đời…
Tất cả các hình ảnh và chi tiết đó tạo cho tác phẩm một tầm nhìn đáng kể
khiến cho “câu chuyện với bầu bạn, với đồng bào, với quê hương như thế nào
của Mèn vẫn là câu chuyện của chúng ta hôm nay và ngày mai” (Tô Hoài). Bên
cạnh đó, những đoạn văn miêu tả tâm trạng (suy nghĩ của Mèo trước cái chết
của Choắt, suy nghĩ của Mèn trước mộ Mẹ), những đoạn văn bình luận ngoài đề
(cảm hứng về những chuyến đi) đã gây nên xúc động và sâu xa trong lòng người
đọc, tạo cho tác phẩm nét lãng mạn hấp dẫn bởi vì tưởng, bởi tình người.
Dế Mèn phiêu lưu kí miêu tả những cuộc phiêu lưu của một chú Dế Mèn
qua thế giới loài vật và con người. Mượn câu chuyện đồng thoại về chú Dế Mèn,
tác giả bày tỏ lòng tin và sự khẳng định điều thiện cũng như cuộc sống hòa bình,
thân ái, nêu cao lí tưởng “muôn loài cùng nhau kết anh em”. Chính từ những
kinh nghiệm sống của mình, Mèn và các bạn đã đi cùng nhau đi tới lí tưởng trên
và họ bắt tay vào việc tuyên truyền nó. Tuy lí tưởng của Mèn và các bạn còn
mơ hồ, ít nhiều có tính chất không tưởng, nhưng xét đến cùng phải thấy đấy là
niềm kháo khát và ước mơ của nhân dân. Mặt khác đặt vào vào hoàn cảnh sáng
tác trước cách mạng, đó là dự cảm của tác giả về xã hội mới, một giai đoạn mới
- Xem thêm -