UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
HOÀNG VĂN CHƯỜNG
NGƯỜI TÌNH SPUTNIK CỦA HARUKI MURAKAMI
TỪ GÓC NHÌN BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
Phú Thọ, 2018
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
HOÀNG VĂN CHƯỜNG
NGƯỜI TÌNH SPUTNIK CỦA HARUKI MURAKAMI
TỪ GÓC NHÌN BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đào Thị Thu Hằng
Phú Thọ, 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các số
liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, đƣợc các đồng
tác giả cho phép sử dụng và chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ một công
trình nào khác.
Phú Thọ, tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn
Hoàng Văn Chƣờng
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận văn đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn và góp ý của TS. Đào
Thị Thu Hằng. Em xin gửi lời biết ơn chân thành với sự hƣớng dẫn tận tình
của cô giúp em hoàn thành luận văn này.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong Phòng Đào tạo, Khoa
Khoa học xã hội - Nhân văn - Trƣờng Đại học Hùng Vƣơng đã trực tiếp giảng
dạy, hƣớng dẫn các học viên lớp Thạc sĩ Lí luận văn học khóa 1, giúp chúng
em hoàn thành chƣơng trình học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, đồng nghiệp tại
Trƣờng THCS Văn Lang, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ đã tạo điều kiện,
giúp đỡ tôi hoàn thành chƣơng trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận
văn này.
Dù đã rất cố gắng, song luận văn cũng không tránh khỏi khỏi những hạn
chế và thiếu sót. Tác giả mong nhận đƣợc sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Phú Thọ, tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn
Hoàng Văn Chƣờng
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 9
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:.............................................................................. 9
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9
6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 10
CHƢƠNG 1. BIỂU TƢỢNG NGHỆ THUẬT – LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TÁC PHẨM CỦA MURAKAMI ................................................................... 11
1.1. Khái niệm biểu tƣợng ............................................................................... 11
1.2. Biểu tƣợng nghệ thuật .............................................................................. 15
1.3. Về biểu tƣợng trong Người tình Sputnik .................................................. 18
CHƢƠNG 2. HỆ THỐNG BIỂU TƢỢNG TRONG TIỂU THUYẾT NGƯỜI
TÌNH SPUTNIK – SỨC HẤP DẪN KÌ BÍ CỦA TÁC PHẨM ...................... 22
2.1. Vệ tinh Sputnik và sự mất tích – biểu tƣợng mang tính định hƣớng........... 22
2.2. Hệ thống biểu tƣợng về nhân vật ............................................................. 24
2.2.1. Biểu tƣợng Sumire đồng tính ................................................................ 25
2.2.2. Biểu tƣợng nhân vật “tôi” – thầy giáo .................................................. 36
2.2.3. Biểu tƣợng Miu - ngƣời phụ nữ kinh doanh rƣợu - và biểu tƣợng rƣợu ......48
2.2.4. Biểu tƣợng nhà văn ............................................................................... 52
2.3. Biểu tƣợng là sự vật, sự việc, hiện tƣợng ................................................ 53
2.3.1. Biểu tƣợng mối tình đơn phƣơng của Sumire với Miu ......................... 53
2.3.2. Biểu tƣợng tình bạn kì lạ giữa “tôi” và Sumire .................................... 54
iv
2.3.3. Biểu tƣợng sex....................................................................................... 56
2.3.4. Biểu tƣợng nƣớc .................................................................................... 59
2.3.5. Biểu tƣợng giếng cạn ............................................................................ 61
2.3.6. Biểu tƣợng hòn đảo ở Hi Lạp................................................................ 64
2.3.7. Biểu tƣợng hai tài liệu của Sumire để lại trong đĩa mềm ..................... 65
2.3.8. Biểu tƣợng ban nhạc bí ẩn trên hòn đảo ở Hi Lạp ................................ 68
CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƢỢNG TRONG NGƯỜI
TÌNH SPUTNIK – PHƢƠNG THỨC NHƢ LÀ TƢ TƢỞNG ....................... 71
3.1. Thực tại và huyền ảo đan xen .................................................................. 71
3.2. Tạo biểu tƣợng đa nghĩa và con ngƣời đa ngã ......................................... 75
3.3. Điểm nhìn trần thuật từ nhân vật “tôi” ..................................................... 81
3.4. Cốt truyện kép .......................................................................................... 83
3.5. Lối kể chuyện hóm hỉnh, hài hƣớc........................................................... 84
PHẦN III. KẾT LUẬN ................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 90
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một trong những con đƣờng để tiếp cận thế giới nghệ thuật tác phẩm
văn học là khám phá các biểu tƣợng nghệ thuật của tác phẩm. Có thể nói đây
là một trong những con đƣờng quan trọng nhất để đi vào tác phẩm. Mỗi tác
phẩm đều có hệ thống hình tƣợng, biểu tƣợng nghệ thuật tạo thành thế giới
nghệ thuật độc đáo của riêng mình. Việc khám phá thế giới biểu tƣợng nghệ
thuật của tác phẩm luôn là thao tác thú vị nhất để đi vào tìm hiểu những tƣ
tƣởng mà nhà văn muốn thể hiện.
Haruki Muarakami là một hiện tƣợng văn học thú vị của Nhật Bản, có
thể nói, ông là nhà văn đại diện cho thời đại của nền văn học xứ sở “mặt trời
mọc”. Tên tuổi của ông cũng đã vƣợt qua biên giới của Nhật Bản và trở thành
quen thuộc với bạn đọc trên khắp thế giới. Nhắc đến Haruki Muarakami, bạn
đọc thƣờng nhớ đến một tiểu thuyết gia hiện đại mà tên tuổi đã gắn với những
kiệt tác đã làm “chấn động” văn đàn thế giới trong những năm qua: Rừng
NaUy, Biên niên kí chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển, Phía Nam biên giới,
phía Tây mặt trời; Người tình Sputnik… Nghệ thuật sử dụng biểu tượng là
một trong những điều làm nên sự bí ẩn, sức hấp dẫn trong tiểu thuyết của
Haruki Muarakami. Phƣơng tiện nghệ thuật hiệu quả này đã giúp nhà văn
chuyển tải thông điệp giàu giá trị đến độc giả. Khám phá hệ thống biểu tƣợng
văn hóa trong tiểu thuyết Haruki Muarakami là giải mã thế giới đa nghĩa, siêu
thực, giàu tính ẩn dụ của nhân loại, và góp phần hiểu thêm về nghệ thuật tiểu
thuyết bậc thầy của Haruki Murakami - tác gia đƣơng đại nổi tiếng Nhật Bản
và thế giới.
Con ngƣời tƣ duy bằng biểu tƣợng, truyền đạt thông điệp qua biểu
tƣợng. Biểu tƣợng là một loại siêu ngôn ngữ, có sức khái quát sâu rộng đời
sống xã hội và tinh thần con ngƣời. Ngày nay, biểu tƣợng đã trở thành
2
phƣơng tiện biểu đạt của hầu hết các ngành nghệ thuật, trong đó có văn học.
Biểu tƣợng trong đời sống văn hóa, văn học diễn tả những chân lý, những tƣ
tƣởng sâu xa của con ngƣời. Những biểu tƣợng này đã nhiều lần thay đổi, có
thể do một tiến trình cấu tạo có ý thức, và trở thành những hình ảnh tập thể
đƣợc các xã hội văn minh chấp nhận. Trải qua quá trình phát triển của tri thức
và tƣ duy con ngƣời, nhiều biểu tƣợng đã biểu đạt đƣợc những chân lí vĩnh
hằng mà cả loài ngƣời chấp nhận. Cùng với đó là hệ thống biểu tƣợng phong
phú gắn với từng nề văn hóa của các dân tộc.
Khám phá thế giới biểu tƣợng chính là con đƣờng đi tìm những chân lí
bí ẩn, sâu thẳm, huyền ảo mà rất chân thực trong Người tình Sputnik của
Haruki Muarakami. Hơn nữa, thao tác tiếp nhận này sẽ là sự kế thừa hoàn hảo
thành quả tiếp nhận những kiệt tác khác về cả tiểu thuyết cũng nhƣ truyện
ngắn của ông. Đây là dịp để chúng ta có thêm những sự trau dồi lí thuyết và
đƣa lí thuyết về biểu tƣợng vào quá trình tiếp nhận các tác phẩm văn học Việt
Nam và thế giới đƣơng đại – những tác phẩm rất giàu biểu tƣợng.
Từ những lí do trên, tôi chọn đề tài cho luận văn là: “Người tình
Sputnik” của Haruki Murakami từ góc nhìn biểu tượng nghệ thuật.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu chung về sáng tác của Haruki Murakami
2.1.1. Tình hình nghiên cứu về Haruki Murakami ở nƣớc ngoài
Vấn đề nghiên cứu về Haruki Murakami và các sáng tác của ông ở nƣớc
ngoài khá phong phú, đa dạng và sôi nổi. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều
khẳng định những sáng tác của Haruki Murakami đã thể hiện tài năng kể
chuyện, nghệ thuật tự sự bậc thầy của ông.
Giáo sƣ Numano, giảng viên Văn học Đại học Tokyo, trong bài thuyết
trình Thế giới thơ và tiểu thuyết từ “Truyện Genji” đến Murakami Haruki đã
nêu lên năm lí do chính khiến tiểu thuyết Murakami đƣợc ƣa chuộng trên
3
khắp thế giới, trong đó, ông đã nhấn mạnh đến hai yếu tố đó là văn phong trau
chuốt, điêu luyện; và cốt truyện cấu tứ khéo léo [51].
Bài viết Haruki Murakami tìm lối đi mới trong “Sau nửa đêm” của tác
giả Rattanavong Sanaphay, giới thiệu cuốn tiểu thuyết Sau nửa đêm cũng đề
cập đến lối viết “khó nắm bắt” của Murakami và cho rằng đó là lối viết
“không thuộc một thể loại nào”. Tác giả khẳng định: “Lối viết của ông đƣợc
đánh giá là trần trụi, táo bạo, sáng tạo, lãng mạn, hấp dẫn, hoài cổ; còn nghệ
thuật kể chuyện của ông đƣợc xếp vào loại bậc thầy” [59].
Will Slocombe trong bài Haruki Murakami và đạo đức của sự thông
dịch lại chú ý đến cách sử dụng ngôi kể thứ nhất trong nghệ thuật kể chuyện
của Haruki Murakami. Ông cho rằng, sự sáng tạo trong cách sử dụng ngôi kể
thứ nhất của Haruki Murakami đã tạo nên nhiều sự khác biệt, sự cách tân so
với các tác giả khác, nó góp phần quan trọng vào việc xóa đi sự khác biệt
trong nghệ thuật tự sự phƣơng Đông và phƣơng Tây.
Trong bài viết Thế giới chuyện kể của Murakami, Welch Patricia lại
cống hiến cho độc giả một bài nghiên cứu sâu sắc và giá trị để có thể hiểu
thêm về “thế giới chuyện kể của Murakami” ở bình diện thế giới nhân vật mà
nhà văn đã kì công xây dựng. Theo Welch Patricia thì các nhân vật trong tiểu
thuyết Murakami thƣờng đƣợc đặt trong một thế giới phi ảo tƣởng, nó rèn nên
những bản nguyên của riêng mình: "Nhân vật của ông là những ngƣời bình
thƣờng, nhƣng họ có thể làm những việc phi thƣờng nếu họ biết sống có ý
nghĩa, biết sử dụng tri thức với ý thức trách nhiệm, và luôn cẩn thận không
mù quáng nghe theo những tự sự đáng ngờ của kẻ khác” [56].
2.1.2. Tình hình nghiên cứu về Haruki Murakami ở Việt Nam
Cùng với sự lan tỏa rộng rãi trên thế giới, các tác phẩm của Haruki
Murakami đatrỏ nên quen thuộc đối với độc giả Việt Nam trong khoảng mƣời
năm trở lại đây. Các tác phẩm của ông cũng có sự hấp dẫn đặc biệt với các
4
nhà nghiên cứu, giảng viên và sinh viên Ngữ văn nói riêng. Hiện nay, ở các
trƣờng đại học, xuất hiện nhiều những bài nghiên cứu, khóa luận tốt nghiệp,
luận văn thạc sĩ,… tìm hiểu về phong cách nghệ thuật của ông. Điều này
chứng tỏ “hiệu ứng” của văn chƣơng Murakami ngày càng sâu rộng. Ở những
công trình này, vấn đề nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Haruki
Murakami đƣợc đề cập đến nhƣ một phƣơng diện không thể thiếu trong thế
giới nghệ thuật của nhà văn.
Đã có nhiều diễn đàn về văn học Nhật Bản đƣợc tổ chức ở Việt Nam,
với sự tham dự của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia văn học Nhật Bản
trong và ngoài nƣớc. Gây đƣợc sự chú ý và đạt hiệu quả nhất có lẽ là Hội thảo
về Murakami và Banana Yoshimoto đƣợc tổ chức tại Hà Nội, do Công ty văn
hóa truyền thông Nhã Nam và Trung tâm giao lƣu văn hóa Việt – Nhật phối
hợp tổ chức, vào năm 2007. Nhiều vấn đề liên quan đến nghệ thuật tự sự tiểu
thuyết Haruki Murakami đƣợc luận bàn sôi nổi. Có thể thấy, những nghiên
cứu sâu về các sáng tác của Haruki Murakami, nhất là tiểu thuyết.
Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu trong bài Thực tại trong ma ảo đã nhận
định khái quát về phong cách tiểu thuyết Haruki Murakami: “Tiểu thuyết của
Murakami Haruki, với tinh thần chơi đùa và tự do tƣởng tƣợng đƣợc kể bằng
một bút pháp sống động và đam mê nhƣ Nghìn lẻ một đêm của thời hiện đại.
Nghệ thuật của ông trở về với ngọn nguồn của tiểu thuyết, thời mà tiểu thuyết
còn đầy tự do, không bó buộc phải sao chép hiện thực” [18, 4]. Nhật Chiêu đã
bƣớc đầu chú ý tới lối kể chuyện hấp dẫn, cuốn hút của Haruki Murakami, so
sánh nó với lối kể của Nghìn lẻ một đêm – kiệt tác của văn chƣơng nhân loại.
Theo Nhật Chiêu (2007), hai yếu tố độc đáo trong nghệ thuật tự sự của Haruki
Murakami đó là “cấu trúc mở” và “ngôn ngữ mới”. Cấu trúc tác phẩm mà
Murakami sử dụng trong hầu hết các sáng tác của ông rất mở. Ông cho rằng
Haruki Murakami luôn nỗ lực sáng tạo một ngôn ngữ mới cho văn chƣơng
5
Nhật. Các nhà văn Nhật thƣờng sử dụng ngô ngữ mờ ảo, tế nhị, đậm chất
phƣơng Đông. Trong khi đó, Murakami đã tạo nên thứ ngôn ngữ văn chƣơng
mới gần gũi với lời ăn tiếng nói chân thật mà ngƣời dân Nhật Bản, sáng tỏ,
sống động, đầy hơi thở thời đại.
Tác giả Cao Việt Dũng, trong bài Bí ẩn như là thủ pháp của cách kể
chuyện phân tích về nghệ thuật tự sự của Haruki Murakami, tìm ra nét độc
đáo trong cách kể chuyện của Murakami. Theo tác giả, sự bí ẩn chính là điều
hấp dẫn và lôi cuốn trong tiểu thuyết Murakami, đó là “cái bí ẩn không đƣợc
giải thích”. Tác giả nhấn mạnh nhiều yếu tố bí ẩn tạo nên sự kì bí trong sáng
tác của Murakami, nhƣng cái chính là "dựa vào năng lực kể chuyện của
Murakami. Murakami, trƣớc hết, và xét đến cùng, là một ngƣời kể chuyện
giỏi” [23, 20]. Nhận định của Cao Việt Dũng đã góp phần khẳng định trong
nghệ thuật kể chuyển của Haruki Murakami cách kể, nghệ thuật kể chuyện
mới thực sự là yếu tố căn cốt tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm. Đây cùng là
quan niệm về nghệ thuật kể chuyện hiện đại, khẳng định vai trò của tài năng
nghệ thuật trong việc sáng tạo không ngừng của các nhà văn viết truyện.
Tác giả Đào Thị Thu Hằng trong Truyền thống và hậu hiện đại trong
truyện ngắn Murakami Haruki (Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 12/2015)
đã có những nhận định gợi mở, rất gần với nghiên cứu của chúng tôi: “Ngoài
ẩn dụ, thì biểu tƣợng siêu hiện thực cũng xuất hiện trong hầu khắp các tác
phẩm của Murakami. Trong những tác phẩm của ông, ngƣời đọc sẽ nhận
thấy cả không gian và thời gian là một sự đan cài của thực tại và ảo giác.
Hình ảnh mang tính biểu tƣợng cao nhất trong tác phẩm của ông chính là cái
giếng cạn” [28].
Trong bài nghiên cứu Cấu trúc tự sự trong Kafka bên bờ biển theo cách
nhìn phân tâm học (Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 9 năm 2010), tác giả Lê
Nguyên Cẩn đã vận dụng nhiều lí thuyết hiện đại để nghiên cứu cấu trúc tự sự
6
và kết cấu nhân vật trong tiểu thuyết Kafka bên bờ biển của Haruki
Murakami. Tác giả đã nhận định: “Kỹ thuật kể chuyện nổi bật lên hàng đầu
trong tác phẩm này chắc chắn chịu ảnh hƣởng nghệ thuật kể chuyện của điện
ảnh" [14]. Dƣờng nhƣ tác giả đã tạo nên đƣợc những cảnh quay sinh động
theo từng sự kiện của cốt truyện. Bên cạnh đó, bài viết cũng đề cập đến một
số phƣơng diện tự sự khác nhƣ: điểm nhìn trần thuật, ngôi kể trong tiểu thuyết
Murakami: “Cách thức kể chuyện trong tác phẩm này, do đó, cũng là sự kết
hợp giữa hai cách kể: cách kể từ bên trong, từ xuất phát điểm là thế giới nội
tâm, là dòng tâm tƣ của bản thân nhân vật; và kể từ bên ngoài, dựa trên bối
cảnh lịch sử, những sự kiện có thật đã xảy ra kết nối lại để tôn tạo cho chân
dung nhân vật đƣợc kể" [14]. Tóm lại, trong cách kể chuyện, Murakami luôn
đan xen hai điểm nhìn trần thuật, hai ngôi kể thứ nhất số ít và ngôi thứ ba số
ít. Nó tạo nên sự đan cài các tuyến truyện phức tạp và hấp dẫn bạn đọc, giúp
bạn đọc có thể nhìn và khám phá nhân vật đa diện hơn.
Thời gian gần đây, trong xu thế mở cửa và hòa nhập vào nền văn hóa
chung của nhân loại thì văn học Nhật Bản mới đƣợc giới thiệu một cách rộng
rãi đến bạn đọc Việt Nam. Ngoài các công trình nghiên cứu có tính chất khái
quát về lịch sử văn học Nhật Bản qua bản dịch các tác phẩm từ cổ điển đến
hiện đại, sáng tác của các tác giả thuộc về vẻ đẹp truyền thống Nhật Bản nhƣ
Yasunari Kawabata, Ryunosuke Akutakawa, Yukio Mishima… thì mảng
nghiên cứu văn chƣơng đƣơng đại nhƣ Yoshimoto Banana, Murakami
Haruki, Ryu Murakami… vẫn còn khiêm tốn và chƣa tƣơng xứng với sự mến
mộ của độc giả đối với tác giả này. Tuy nhiên sáng tác của Murakami Haruki
ở các thể loại truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết đều đƣợc giới nghiên cứu,
phê bình thế giới và Việt Nam đánh giá rất cao mặc dù văn chƣơng Murakami
hầu nhƣ không đƣợc giới hàn lâm của văn học Nhật Bản đánh giá cao. Ông là
hiện tƣợng khá đặc biệt khi không đƣợc khẳng định tại Nhật Bản nhƣng lại
7
đƣợc công nhận rộng rãi trên thế giới. Việc ông không đoạt đƣợc giải Nobel
văn học năm 2017 cũng để lại sự tiếc nuối lớn với độc giả thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng.
Tác phẩm của Haruki Murakami xuất bản đã nhận đƣợc sự đón nhận nồng
nhiệt của độc giả Việt Nam. Ông trở thành hiện tƣợng đƣợc bàn luận nhiều.
Một số bài viết khác nhƣ Murakami - hiện tượng cùng thời đại (OOI
Kouichi Ký giả, Ban văn nghệ báo Mainichi, nguồn Ochikochi, số 12 tháng 89/2006, đƣợc dịch và sử dụng trong hội thảo về Murakami do công ty Văn
hóa và Truyền thông Nhã Nam và Đại sứ quán Nhật Bản tổ chức ngày
17/3/2007 tại Hà Nội), Murakami - một hiện tượng văn học tại Việt Nam
(Đào Thị Thu Hằng, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5/2009), Nhà văn
Murakami Haruki - Cuộc đời và sự nghiệp (Lƣu Thị Thu Thủy, Tạp chí
Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 6/ 2008), Cuộc tìm kiếm bản thể con người hiện
đại (Nguyễn Hoài Nam), Murakami Haruki và sự xóa nhòa ranh giới giữa
văn học thuần túy và văn học đại chúng Nhật Bản (Nguyễn Thị Bích Thủy Nguyễn Bích Nhã Trúc, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 1/2013)… cũng góp
thêm những tiếng nói ý nghĩa giúp độc giả nhìn nhận thêm nhiều điều về cuộc
đời sự nghiệp, phong cách sáng tác của cây bút độc đáo này. TS. Đào Thị Thu
Hằng là ngƣời có nhiều nghiên cứu và các bài viết về sáng tác của Murakami
nói chung và tiểu thuyết của ông nói riêng. Ngoài bài viết kể trên thì Cách kể
hỗn độn trong truyện ngắn Murakami Haruki (Tạp chí Khoa học Trƣờng Đại
học Sƣ phạm Hà Nội, số 10/2016) cũng là những gợi mở quan trọng với
chúng tôi.
Thể loại sở trƣờng là tiểu thuyết của Murakami đƣợc giới nghiên cứu,
phê bình tập trung tranh luận. Xung quanh kiệt tác Rừng Nauy đã có nhiều ý
kiến nhƣ Rừng Nauy - sex thuần túy hay nghệ thuật đích thực (Phan Quý
Bích, đăng trên báo Văn nghệ, 2006), Tản mạn Rừng Nauy và Haruki
8
Murakami (Phạm Xuân Nguyên, 2007). Sau đó là các bài viết về các tiểu
thuyết nổi tiếng xuất bản tiếp theo nhƣ Biên niên kí chim vặn dây cót, Kafka
bên bờ biển, Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời…
Sau các thiên tiểu thuyết tuyệt tác trên, năm 1999, tiểu thuyết Người
tình Sputnik của ông ra đời. Ngay lập tức nó đã tạo nên một làn sóng đón
nhận nồng nhiệt, đƣợc bạn đọc trên thế giới yêu mến. Tác phẩm đƣợc dịch và
ấn hành tại Việt Nam năm 2008 và cũng đƣợc đông đảo ngƣời yêu văn tìm
đọc. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về tác phẩm chƣa có công trình nào công
phu, quy mô. Hầu hết mới chỉ có một số bài viết về những góc cạnh nhỏ của
tác phẩm đƣợc đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành.
Tác giả Trần Tố Loan có bài Kiểu con người đa ngã trong tác phẩm
“Người tình Sputnik” của Murakami, đăng trên Tạp chí Văn học nước ngoài,
số tháng 3 năm 2010. Trong bài viết, tác giả đã đánh giá cao tài năng nghệ
thuật của Haruki Murakami thông qua tiểu thuyết Người tình Sputnik. Đặc
biệt, tác giả đã chỉ ra một số nhân vật đƣợc xây dựng theo kiểu con ngƣời đa
ngã. Tác giả cho rằng thông qua những hình tƣợng nhân vật theo kiểu con
ngƣời này, Haruki Murakami đã chạm đến những vấn đề căn cốt nhất của con
ngƣời nhƣ vấn đề đi tìm bản ngã thực sự của mỗi ngƣời. Trần Tố Loan nhấn
mạnh tác dụng của việc xây dựng những hình tƣợng nhân vật đa ngã trong
Người tình Sputnik. Theo tác giả, thế giới vốn mang bản chất hỗn mang, bản
thân con ngƣời cũng mang trong mình nhiều bản thể đa ngã mà chúng ta chƣa
thể hiểu hết: Có thể nói "Ngƣời tình Sputnik đã diễn tả đƣợc tinh tế cảm thức
của thời đại con ngƣời không tin vào đại tự sự nữa và họ đi tìm những mảnh
vỡ của chính mình. Mỗi mảnh vỡ ấy chính là một phần trong cái tôi đa ngã
của họ” [34].
Với tình hình nghiên cứu về tác phẩm này còn khá ít ỏi, ngƣời viết gặp
nhiều khó khăn trong quá trình nghiên cứu sâu tác phẩm. Điều đó càng thôi
9
thúc bản thân tìm hiểu, khám phá để mong đóng góp đƣợc những cách tiếp
cận một tác phẩm có giá trị của Haruki Murakami.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Các biểu tƣợng nghệ thuật trong tác phẩm Người tình Sputnik của nhà
văn Murakami.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác phẩm tiểu thuyết Người tình Sputnik của nhà văn Murakami, bản
dịch của Ngân Xuyên, Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành năm 2008, tái bản
năm 2016.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm ra những hình tƣợng mang tính biểu tƣợng trong tác phẩm Người
tình Sputnik. Đi sâu khám phá giá trị thẩm mĩ, ý nghĩa của các biểu tƣợng
nghệ thuật trong tác phẩm này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phƣơng pháp phân tích văn bản văn học.
- Vận dụng phƣơng pháp cấu trúc – hệ thống, phƣơng pháp thi pháp
học kết hợp với phƣơng pháp so sánh văn học – đối chiếu với cảm quan hậu
hiện đại trong thể loại tiểu thuyết, với các nhà truyện ngắn hậu hiện đại nổi
tiếng khác trên thế giới để làm nổi bật những đặc trƣng trong các biểu tƣợng
của tác phẩm.
5. Đóng góp của luận văn
Quá trình phát hiện, hệ thống, phân tích, đánh giá các biểu tƣợng nghệ
thuật trong tác phẩm Người tình Sputnik của nhà văn Murakami sẽ đem đến
những kết luận quan trọng về khám phá tác phẩm qua thế giới biểu tƣợng
nghệ thuật, đặc biệt là tiểu thuyết và truyện ngắn. Với cái nhìn mang tính
10
phân tích, so sánh cùng sự cố gắng đi sâu vào phân tích những biểu hiện đặc
trƣng của chủ nghĩa hậu hiện đại trong tác phẩm Murakami Haruki, luận văn
sẽ mang đến một cái nhìn tổng hợp, toàn diện và đa chiều hơn về thế giới
nghệ thuật mang đậm dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Murakami.
Luận văn sẽ đóng góp phần nào vào quá trình vận dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu tác phẩm theo hƣớng biểu tƣợng. Bên cạnh đó, giúp ích cho quá
trình giảng dạy tại trƣờng phổ thông khi khai thác các tác phẩm có tính biểu
tƣợng sâu sắc, rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học ở cấp độ cao cho
học sinh.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo, phần nội dung chính của luận văn gồm có 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Biểu tƣợng nghệ thuật – lí luận và thực tiễn tác phẩm của
Murakami.
Chƣơng 2: Hệ thống biểu tƣợng trong tiểu thuyết Người tình Sputnik –
sức hấp dẫn kì bí của tác phẩm
Chƣơng 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tƣợng trong Người tình Sputnik –
phƣơng thức nhƣ là tƣ tƣởng
11
CHƢƠNG 1. BIỂU TƢỢNG NGHỆ THUẬT – LÍ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN TÁC PHẨM CỦA MURAKAMI
1.1. Khái niệm biểu tƣợng
Từ thuở con ngƣời sống cuộc sống hồng hoang cho đến xã hội văn
minh, biểu tƣợng đã trở thành một phƣơng tiện lƣu giữ những thành tựu tƣ
duy và biểu đạt suy nghĩ cua con ngƣời. Đã từ rất lâu con ngƣời tƣ duy bằng
biểu tƣợng và sử dụng biểu tƣợng để lƣu giữ và truyền đạt những suy nghĩ
của mình. Biểu tƣợng là một chiếc cầu nối kết giữa văn hóa dân tộc với văn
minh nhân loại, giữa nhà văn và ngƣời đọc, nói là chúng ta sống trong một thế
giới biểu tƣợng thì vẫn chƣa đủ, mà dƣờng nhƣ có một thế giới biểu tƣợng
đang sống trong chúng ta, mang theo tƣ tƣởng của chúng ta. Thế giới biểu
tƣợng của con ngƣời đã xóa đi khoảng cách về địa lí, ngôn ngữ, văn hóa giữa
các dân tộc với nhau để tƣ tƣởng con ngƣời gặp gỡ nhau.
Biểu tƣợng hiểu đơn giản là những hình ảnh sự vật chứa đựng nhiều
tầng lớp ý nghĩa, giàu sức nặng biểu trƣng trong đời sống văn hóa con ngƣời.
Ví dụ đơn giản, chúng ta có thể nói sƣ tử cá là biểu tƣợng của Singapo, lá
phong là biểu tƣợng của Canada, núi Phú Sĩ là biểu tƣợng của ngƣời Nhật
Bản,... Từ lâu, biểu tƣợng từ lâu đã tồn tại và trở thành một phần không thể
thiếu trong đời sống của con ngƣời, nhỏ bé và đơn giản từ những hiện tƣợng
thiên nhiên, cho đến màu sắc, các con số, hay lớn lao kì vĩ nhƣ những biểu
tƣợng đại điện cho một sức mạnh, một dân tộc. Và điều đặc biệt là cũng
những hình ảnh ấy, có thể với không gian thời gian này nó biểu tƣợng cho lớp
nghĩa này nhƣng với không gian thời gian khác nó biểu tƣợng cho lớp nghĩa
khác, thậm chí nhiều lớp nghĩa khác nhau. Chính điều này làm nên sự đa tầng,
đa nghĩa và cuốn hút của biểu tƣợng, khiến biểu tƣợng trở thành đối tƣợng
nghiên cứu của nhiều chuyên ngành trong lĩnh vực khoa học nghệ thuật. Biểu
tƣợng hiển hiện khắp nơi quanh ta, có biểu tƣợng trở nên thân thuộc, có biểu
12
tƣợng kì vĩ xa xôi cần phải khám phá, và sự khám phá ấy nhiều khi cần đến
hành trình của cả cuộc đời. Vậy nên, “Nói là chúng ta sống trong một thế giới
biểu tƣợng thì vẫn còn chƣa đủ, phải nói một thế giới biểu tƣợng sống trong
chúng ta” [15;8].
Trong văn hóa nói chung và văn học nói riêng, các biểu tƣợng ít nhiều
ảnh hƣởng bởi hệ quy chiếu dân tộc vùng miền và quan điểm cá nhân của mỗi
nhà văn. Quá trình tạo dựng tác phẩm của nhà văn cũng là quá trình họ xây
dựng các biểu tƣợng và cũng nhƣ vậy, đồng hành cùng với họ, độc giả cũng
tham chiếu vào quá trình khám phá và giải mã các biểu tƣợng khi tiếp nhận
tác phẩm văn học. Với vấn đề biểu tƣợng này quá trình giải mã đồng sáng tạo
của độc giả hứa hẹn nhiều bất ngờ thú vị.
Bản thân các nhà nghiên cứu cũng có rất nhiều nhận định, góc nhìn,
hƣớng tiếp cận khác nhau về vấn đề biểu tƣợng. Các tác giả của Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới (1997) đã so sánh và phân biệt biểu tƣợng với những
khái niệm gần với nó nhƣ: biểu hiện, vật hiệu, phúng dụ, ẩn dụ, loại suy, triệu
chứng, dụ ngôn, ngụ ngôn luân lý. Nếu nhƣ những lối diễn đạt bằng hình ảnh
đó đều có điểm chung là những “dấu hiệu và không vƣợt quá mức độ của sự
biểu nghĩa” [15;19], “là một quy ƣớc tùy tiện trong đó cái biểu đạt và cái
đƣợc biểu đạt vẫn xa lạ với nhau” [15;19], thì biểu tƣợng “có sự đồng chất
giữa cái biểu đạt và các đƣợc biểu đạt theo nghĩa một lực năng động tổ chức”
[15;19]. Đồng thời các nhà nghiên cứu cũng phân biệt giữa biểu tƣợng với
biểu tƣợng toán học và biểu tƣợng của đức tin. Biểu tƣợng toán học “chỉ là
những kí hiệu mà dung tải các quy ƣớc đã đƣợc Viện Tiêu chuẩn hóa xác định
chặt chẽ” [15;19]. Biểu tƣợng phong phú hơn một dấu hiệu, ký hiệu đơn
thuần: “Nó đầy gợi cảm và năng động. Nó không chỉ vừa biểu hiện, theo một
cách nào đó, vừa che đậy; nó còn vừa thiết lập, cũng theo một cách nào đó,
vừa tháo dỡ. Nó tác động lên cấu trúc tinh thần. Vì vậy, nó đƣợc so sánh với
13
những dạng thức gây xúc cảm, có tính chức năng, có tính động lực, để chỉ rõ
rằng, nó huy động, có thể nói, toàn bộ tâm trí con ngƣời… Biểu tƣợng giả
định một sự đứt gãy bình diện, một sự gián đoạn, một sự chuyển đổi sang một
loại hình khác; nó đƣa ta vào một loại hình mới đa chiều. Phức hợp, không
xác định, nhƣng đƣợc dẫn dắt theo một hƣớng nào đó, các biểu tƣợng còn
đƣợc gọi là các tổng chủ đề hay các hình ảnh có tính hệ tiên đề” [15;19].
Trong công trình này, Jean Chevalier và Alam Ghoerbrant cũng cũng
chỉ ra bản chất của các biểu tƣợng là khó xác định và rất sống động. Khởi
nguyên biểu tƣợng (symbol) là một vật đƣợc cắt làm đôi, mảnh sứ, gỗ hay
kim loại. Đó là dấu hiệu để nhận nhau của những ngƣời thân, những ngƣời
bạn, cha mẹ nhận ra con cái… “Mọi biểu tƣợng đều chứa đựng những dấu
hiệu bị đập vỡ; ý nghĩa của biểu tƣợng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ vừa là
nối kết những phần của nó đã bị vỡ ra” [15;23]. “Biểu tƣợng định hình thành
một vế rõ ràng có thể nắm bắt đƣợc, gắn liền với vế khác, không nắm bắt
đƣợc” [15;24]. Biểu tƣợng luôn bao hàm hai mặt tƣởng nhƣ đối lập mà lại bổ
sung cho nhau. Cho nên “Việc tiếp nhận biểu tƣợng loại trừ thái độ đứng
nhìn, mà đòi hỏi thái độ nhập cuộc” [15;26].
Biểu tƣợng có thể đa nghĩa, hoặc phái sinh nghĩa mới ở những không
gian thời gian khác nhau nhƣng nhìn chung, “dƣới vẻ đa dạng về hình thức và
các cách giải thích của nó, biểu tƣợng vẫn chứa một trong những đặc điểm là
tính ổn định trong sự ám thị về một mối quan hệ giữa cái biểu trƣng và cái
đƣợc biểu trƣng” [15;27]. Bên cạnh đó, biểu tƣợng còn có khả năng liên
thông: “Không có một vách kín nào ngăn cách chúng cả: luôn có một liên hệ
khả dĩ từ cái này sang cái kia” [15;28; linh hoạt: “Chúng biểu đạt các mối
quan hệ đất – trời, không gian – thời gian, nội tại– siêu tại, cũng nhƣ một cái
chén miệng ngửa lên trời hay úp xuống đất. Đấy là tính lƣỡng cực thứ nhất.
Còn một lƣỡng cực khác nữa: là tổng hợp của những đối kháng, biểu tƣợng có
một bộ mặt ban ngày và một bộ mặt ban đêm” [15;28]. Mang tính chất linh
14
hoạt, liên thông, đa nghĩa nên tiếp cận biểu tƣợng từ góc độ nào thì sẽ cho ra
hình ảnh biểu tƣợng từ góc độ ấy.
Cũng trong công trình này, Jean Chevalier và Alam Ghoerbrant đã chỉ
ra 9 chức năng của biểu tƣợng, gồm: chức năng thăm dò, chức năng của vật
thay thế, chức năng trung gian, chức năng thống nhất, chức năng giáo dục và
trị liệu, chức năng xã hội hóa, chức năng cộng hƣởng, chức năng siêu nghiệm
và chức năng biến đổi năng lƣợng tâm thần.
Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, khi đề cập đến các khái niệm, thuật ngữ liên
quan đến văn học và nghiên cứu văn học đƣa ra quan niệm về biểu tƣợng:
“Trong nghĩa rộng, biểu tƣợng là đặc trƣng phản ánh cuộc sống bằng hình
tƣợng của văn học nghệ thuật. Theo nghĩa hẹp, biểu tƣợng là một phƣơng
thức chuyển nghĩa của lời nói hay một loại hình tƣợng nghệ thuật đặc biệt có
khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát đƣợc bản chất của một hiện tƣợng
nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tƣ tƣởng hay một triết lí sâu xa về
cuộc đời và con ngƣời. Nhƣ vậy, theo nghĩa rộng biểu tƣợng gắn với phƣơng
thức phản ánh thực tại cuộc sống của văn học nghệ thuật, còn theo nghĩa hẹp
nó là một phƣơng thức chuyển nghĩa để phân biệt với ẩn dụ và hoán dụ. Đồng
thời biểu tƣợng “là hiện tƣợng lịch sử, chịu sự chi phối của ngôn ngữ, tâm lí,
quan niệm của dân tộc và thời đại” [24].
Trong tác phẩm văn học, đa số các biểu tƣợng đều hiển hiện và biểu
hiện cho một cho một ý tƣởng, hình ảnh mà tác giả muốn gửi gắm, vậy nên
đọc văn bản qua biểu tƣợng chính là con đƣờng ngắn nhất để nắm bắt tâm
tƣởng tác phẩm. Và hơn cả nhƣ thế, biểu tƣợng, dƣới góc độ văn hóa, còn là
tiềm thức ông cha – mà không thông qua tác phẩm – nhiều khi chúng ta bị bỏ
lỡ mà không hề hay biết.
Xem xét biểu tƣợng nhƣ một phần của văn hóa con ngƣời sẽ thấy nó
- Xem thêm -