Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Người khmer ở xã an bình, huyện phú giáo, tỉnh bình dương...

Tài liệu Người khmer ở xã an bình, huyện phú giáo, tỉnh bình dương

.PDF
140
1
109

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG NGƯỜI KHMER Ở XÃ AN BÌNH, HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG Mã số: Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Hạnh Minh Phương Bình Dương, 3/2019 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG NGƯỜI KHMER Ở XÃ AN BÌNH, HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG Mã số: Xác nhận của đơn vị chủ trì đề tài (chữ ký, họ và tên) TS. Nguyễn Văn Thủy Chủ nhiệm đề tài (chữ ký, họ và tên) TS. Trần Hạnh Minh Phương Bình Dương, 2/2019 1 Mục lục Trang Mục lục ...................................................................................................................... 1 Mở đầu ..................................................................................................................... 3 1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 3 2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài .......................................................................... 5 3. Cách tiếp cận và phương pháp ............................................................................ 6 3.1. Cách tiếp cận ................................................................................................ 6 3.2. Phương pháp khảo sát và xử lý dữ liệu ......................................................... 6 Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và lý thuyết tiếp cận ......................... 8 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ....................................................................... 8 1.2. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 28 1.2.1. Định nghĩa những khái niệm then chốt .................................................... 28 1.2.2. Viễn tượng lý thuyết ................................................................................ 35 1.2.3. Khung phân tích của đề tài ...................................................................... 49 1.2.4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu............................................................. 40 Chương 2. Nguồn gốc di dân, dân số và phân bố dân cư, đời sống văn hóa, kinh tế xã hội ........................................................................................................................ 42 2.1. Nguồn gốc di dân ........................................................................................... 42 2.2. Dân số và phân bố dân cư .............................................................................. 45 2.3. Không gian và mô hình cư trú ........................................................................ 47 2.4. Quản trị cộng đồng......................................................................................... 52 2.5. Đời sống kinh tế ............................................................................................. 57 2.6. Hôn nhân – gia đình ....................................................................................... 63 2.7. Phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo ....................................................... 67 Chương 3. Chính sách của Nhà nước, chính quyền tỉnh Bình Dương và vốn của cộng đồng đối với sự phát triển theo hướng bền vững ........................................... 102 3.1.Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và chương trình, kế hoạch của chính quyền tỉnh Bình Dương đối với cộng đồng người Khmer ................................ 103 3.2. Vốn của cộng đồng và sự phát triển theo hướng bền vững ......................... 107 Kết luận .............................................................................................................. 112 1 Tài liệu tham khảo ................................................................................................ 117 Phụ lục ảnh 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cuối thế kỷ XVII, Bình Dương là một trong hai tổng thuộc dinh Phiên Trấn, huyện Tân Bình, ngoài lớp cư dân người Việt từ vùng Ngũ Quảng (nhiều nhất là Quảng Bình) vào khai phá vùng đất hoang vu này còn có các tộc người bản địa Mạ, Cơ ho, Stiêng …cùng chung lưng đấu cật xây dựng vùng đất hoang vu này thành làng mạc và theo thời gian, thành phần tộc người đã có nhiều thay đổi. Những tộc người bản địa dần dần chuyển lên sống ở vùng cao, do việc tách tỉnh Bình Dương và Bình Phước, nên địa bàn thuộc tỉnh Bình Dương ngày nay không còn những tộc người cư trú lâu đời, mà phần lớn những tộc người mới đến. Thế kỷ XIX, theo mô tả của Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí (hoàn thành đời vua Gia Long) người Việt xen cư với các tộc người thiểu số (mà Trịnh Hoài Đức gọi khác với tên tộc người như ngày nay). Người Hoa, ông gọi là người Đường, các tộc người sống vùng cao ông gọi là Cao Miên và Đồ Bà. Mỗi tộc người vẫn giữ phong tục của riêng mình tạo nên một bức tranh văn hóa phong phú của vùng Gia Định xưa “Gia Định ở về phía nam nước Việt, khi mới khai thác, thì có lưu dân nước ta cùng người Đường (tục gọi người nhà Đại Thanh là Đường nhân, cũng như người dân tộc tứ di gọi người Trung Quốc là Hán nhân, người Hán đây không phải là Lưu Hán, người Đường đây không phải là Lý Đường. Sách Quảng Đông tự nhận mình là người Đường của đời Đường Ngu chẳng qua chỉ là lời quá khoa trương). Người Tây Dương (các nước như Phú Lãng Sa, Hồng Mao, Mã Cao, đều gọi là Tây Dương) [3a] Cao Miên, Đồ Bà (người Sơn man, ở núi đảo theo đạo Bái Nhật (lạy mặt trời) ở trong 36 cửa bể Mãn Lạt Gia, đều gọi là Đồ Bà), những người các nước ấy đến sinh sống chung nhau rất đông mà y phục đồ dùng đều theo kiểu của dân tộc họ” (Trịnh Hoài Đức, 2008, tr.194). Đến đầu thế kỷ XX theo công trình Monographie de la provine Thudaumot (1910) thành phần cư dân Bình Dương có người Hoa, người Ấn, người Minh Hương, người Pnom (M’nông), người Lào, người Mọi (Stiêng), trong đó người Stiêng sống tách biệt trong rừng sâu. Theo thống kê năm 1926, cư dân ở Thủ Dầu Một có các thành phần dân tộc “Người Việt gốc Nam Bộ là 105.968 người. Người Việt gốc Bắc Bộ và Trung Bộ là 4.122 người. Người Khmer là 2.469 người. Người Stiêng là 11.945 người. Người Chăm 3 453 người. Người Minh Hương 1.097 người. Người Hoa là 1.374 người” (Mạc Đường,1985, tr.20). Theo thống kê của Ban dân tộc tỉnh Bình Dương, năm 2013 trong tỉnh có 17 tộc người thiểu, trong đó nhiều nhất là người Hoa (10747 người), người Khmer (4442 người), người Chăm (935 người), người Stiêng (204 người), người Sán Chỉ, người Dao, người Ê đê, người Tày, Nùng, Mường, Thái… sống rải rác tại các huyện Dầu Tiếng, Phú Giáo, Bến Cát tạo nên bức tranh đa dạng và phong phú về văn hóa và thành phần tộc người của tỉnh Bình Dương. Việc nghiên cứu về các cộng đồng tộc người ấy góp phần làm rõ lịch sử và đặc trưng văn hóa của tỉnh Bình Dương. Như vậy, từ đầu thế kỷ XX đến nay, người Khmer là một trong những cộng đồng tộc người thiểu số có số dân đông thứ hai (sau người Hoa) góp phần tạo nên bức tranh văn hóa Bình Dương đa tộc người nhưng hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về cộng đồng tộc người này (mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long). Đó là lý do, chúng tôi nghiên cứu “Cộng đồng người Khmer ở Bình Dương”. Vấn đề đặt ra là cộng đồng người Khmer ở Bình Dương ngày nay đã định cư ở Bình Dương từ khi nào và văn hóa của họ có gì giống và khác so với văn hóa truyền thống của người Khmer ở bản quán (Trà Vinh, Sóc Trăng) là vấn đề cần được làm sáng tỏ. Do sống rải rác, xen cư cùng với người Việt và do tác động từ các chính sách của tỉnh làm biến đổi văn hóa truyền thống của tộc người này, họ phải đối diện với sự mâu thuẫn giữa việc bảo tồn văn hóa truyền thống và tiếp thu văn hóa hiện đại. Liệu giữa các yếu tố văn hóa truyền thống của người Khmer có hòa chung một nhịp với quá trình hiện đại hóa xã hội theo chủ trương của tỉnh hay không là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu. Việc tìm hiểu quá trình di cư, hình thành và phát triển cộng đồng người Khmer góp phần làm rõ lịch sử phát triển của tỉnh Bình Dương. Và việc nhận diện văn hóa người Khmer, chỉ rõ những yếu tố tích cực, tiêu cực đối với sự phát triển chung của tỉnh đóng góp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm phát huy các mặt tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực của các yếu tố văn hóa này góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững của tỉnh Bình Dương. 4 Người Khmer đã và đang góp phần phát triển và làm phong phú bức tranh văn hóa của tỉnh Bình Dương nhưng vấn đề này hiện nay còn bỏ ngõ, chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ có một công trình về lịch sử và văn hóa của cộng đồng người Khmer ở Bình Dương ngày nay, là tài liệu tham khảo có ý nghĩa đối với những ai quan tâm nghiên cứu lịch sử, văn hóa vùng đất Bình Dương. Nó là minh chứng của luận điểm “văn hóa Việt Nam là văn hóa đa tộc người” bên cạnh văn hóa của tộc người đa số còn có văn hóa của các tộc người thiểu số tạo nên bức tranh muôn màu sắc của văn hóa địa phương. Hơn nữa, kết quả nghiên cứu đề tài này sẽ là cơ sở ban đầu để thực hiện đề tài Văn hóa các tộc người thiểu số ở Đông Nam Bộ thuộc khuôn khổ đề án nghiên cứu của tỉnh Bình Dương trong 5 năm (2015 - 2020). Tóm lại, việc nghiên cứu Người Khmer ở xã An Bình, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương ngày nay là cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu chính yếu của đề tài này là tái hiện lại nguồn gốc lịch sử di dân, hình thành các nhóm cộng đồng người Khmer ở Bình Dương, phác họa được toàn cảnh của cộng đồng người Khmer ngày nay theo chiều lịch đại : trước năm 1975 và hiện nay dưới các chiều kích : không gian và mô hình cư trú, quản trị cộng đồng, đời sống kinh tế, văn hóa – giáo dục, xã hội, tín ngưỡng – tôn giáo phát hiện ra vấn đề mang tính tích cực và tiêu cực đối với việc phát triển của cộng đồng nói riêng, tỉnh Bình Dương nói chung theo hướng bền vững. Để đạt được mục tiêu chính yếu của đề tài, chúng tôi đề ra các nhiệm vụ cụ thể như sau : - Xây dựng một khuôn khổ lý thuyết nhằm dựa trên đó để khảo sát cộng đồng. - Nhận diện những đặc trưng kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng. - Khảo sát và phân tích sự biến đổi của các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội trước 1975 nay. - Nhận diện và phân tích những yếu tố tích cực và tiêu cực của cộng đồng đối với sự phát triển bền vững của tỉnh Bình Dương. Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát huy các mặt tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực nơi cộng đồng đối với sự phát triển bền vững tỉnh Bình Dương giai đoạn đến năm 2030. 5 3. Cách tiếp cận và phương pháp 3.1. Cách tiếp cận Để đạt được mục tiêu và các nhiệm vụ nêu trên, đề tài đã áp dụng những cách tiếp cận sau : - Tiếp cận toàn diện dưới góc độ vùng, nhưng có chú ý đến những trọng tâm của từng khu vực nơi người Khmer sống tập trung. - Tiếp cận khu vực học với yêu cầu liên ngành giữa sử học, nhân học, để tái hiện lại lịch sử cộng đồng, mô tả thực trạng cộng đồng ngày nay trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, tín ngưỡng và tôn giáo trong chiều hướng phát triển bền vững. - Tiếp cận phương pháp nghiên cứu theo hướng liên ngành dưới các chiều kích đồng đại và lịch đại. 3.2. Phương pháp khảo sát và xử lý dữ liệu Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu điền dã dân tộc học bao gồm : phỏng vấn sâu bán cấu trúc, thảo luận nhóm và quan sát tham dự. Thời gian từ tháng 6/2017 – 5/2018 với ba đợt khảo sát dựa vào lịch nghi lễ của cộng đồng: + Tháng 3, Tết Chol Chnam Thmay + Cuối tháng 4 đầu tháng 5, bắt đầu mùa cạo mủ cao su nhiều gia đình tổ chức cúng rẫy + Tháng 8 cúng ông bà Sen Dolta + Tháng 12 sau mùa thu hoạch mủ sẽ có những nghi lễ cúng tạ ơn Ngoài ra lẻ tẻ còn tham dự các nghi lễ cưới, lễ tang được tổ chức trong gia đình cũng là những dịp quan trọng cần tham dự để thu thập dữ liệu. Ngoài nguồn dữ liệu định tính, đề tài còn kế thừa kết quả khảo sát tổng thể (năm 2012 do bảo tàng tỉnh Bình Dương thực hiện) về các tộc người thiểu số ở tỉnh Bình Dương, trong đó có người Khmer để có số liệu tổng hợp về người Khmer Bình Dương mà trong phạm vi đề tài này không có điều kiện khảo sát toàn bộ (do giới kinh phí và thời gian). 6 Như vậy, đề tài này vừa là nghiên cứu trường hợp một cộng đồng người Khmer sống tập trung tại xã An Bình, vừa sử dụng kết quả khảo sát trên diện rộng tổng thể người Khmer ở Bình Dương để có được mô tả đầy đủ về người Khmer. 7 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ LÝ THUYẾT TIẾP CẬN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Theo Vũ Đình Mười, trên thế giới, người Khmer sống tập trung chủ yếu ở Campuchia khoảng 14 triệu người, Thái Lan 1,4 triệu người, Việt Nam 1,3 triệu người, Mỹ 240 nghìn người, Pháp 68 nghìn người. Ngoài ra, người Khmer còn cư trú ở những nước khác như Úc, Canada, New Zealand, Malaysia (Vũ Đình Mười, 2017, tr.24). Ở Việt Nam, theo tổng điều tra dân số năm 2009, có 1.260.640 người Khmer, lớn thứ năm sau người Việt, Tày, Thái, Mường, có mặt ở khắp các tỉnh của cả nước nhưng tập trung nhiều nhất ở đồng bằng sông Cửu Long với dân số 1.183.470 người (chiếm 94%) chỉ sau người Việt. Theo thứ tự từ nhiều đến ít như sau: tại Sóc Trăng 397.014 người, Trà Vinh 317.203 người, Kiên Giang 210.899 người, An Giang 90.271 người, Bạc Liêu 70.667 người, Cà Mau 29.845 người, thành phố Hồ Chí Minh 24.268 người, Vĩnh Long 21.820 người, Cần Thơ 21.414 người, Hậu Giang 21.169 người, Bình Phước 15.578 người, Bình Dương 15.435 người (Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương, 2009, 116-134). Như vậy, trong 12 tỉnh thành có người Khmer sống tương đối tập trung, Bình Dương là tỉnh có dân số người Khmer thấp nhất. Là tộc người có dân số lớn thứ năm ở Việt Nam, có mặt ở đồng bằng sông Cửu Long khoảng thế kỷ thứ VIII (Vũ Đình Mười, 2017, tr.25), người Khmer được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Ông Vũ Đình Mười chia các công trình nghiên cứu này theo hai giai đoạn, trước năm 1975 không có nhiều công trình nghiên cứu về người Khmer nhưng sau năm 1986 ông thống kê đã có trên 100 công trình nghiên cứu: 21 đề tài, 67 bài tạp chí, 16 tài liệu luận án, luận văn. Nếu dựa trên chủ đề nghiên cứu có 15 công trình nghiên cứu tổng hợp, 47 chuyên khảo nghiên cứu về văn hóa tinh thần, 11 nghiên cứu về văn hóa vật chất, 20 nghiên cứu liên quan đến các vấn đề về văn hóa xã hội, 6 nghiên cứu về kinh tế, 4 nghiên cứu về chính sách dân tộc đối với người Khmer (Vũ Đình Mười, 2017, tr.31). Trong phạm vi đề tài này chúng tôi sẽ tổng quan tình hình nghiên cứu về người Khmer theo hai mảng: Những nghiên cứu người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long và những nghiên cứu về người Khmer ở Bình Dương. 8 1.1.1. Những nghiên cứu về người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long – phân chia theo chủ đề nghiên cứu Những công trình tổng quát Công trình sớm nhất mà chúng tôi có thể tiếp cận được là La minorité Combodgiens de Cochinchine của H.Malleret (1946), và Les Combodgiens de Cochinchine của Barrault (1949), The Ancient Khmer Empire của Larry Palmer Briggs (1951) và The Vietnamese of Khmer Origin của Dong Khue đề cập đến vấn đề nguồn gốc dân cư, dân số và phân bố dân cư, đời sống văn hóa của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long. Theo các tác giả, tổ tiên người Khmer ở Nam Bộ vốn là người Tiền Pnông xuất phát từ Đông – Bắc Biển Hồ (Campuchia). Thế kỷ thứ XII, nhóm người Khmer là nông dân nghèo khổ di cư, và tầng lớp trí thức Khmer có mặt ở Nam Bộ vào thế kỷ XIV. Như vậy người Khmer ở Nam Bộ bao gồm nhiều nhóm di dân đến vào hai thời điểm chính. Đến năm 1937, dân số người Khmer chiếm tỷ lệ khá lớn. Trên toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long: có 350.000 người Khmer trên tổng dân số 4.800.000 người. Tại tỉnh Trà Vinh, có 82.000 người/ 156.000 người toàn tỉnh. Tại Sóc Trăng, 50.000 người/107.000 người, Rạch Giá có 65.000 người/ 192.000 người toàn tỉnh. Tại Trà Vinh và Châu Đốc có 40.000 người Khmer so với 168.000 người Việt. Trừ Trà Vinh, ở đồng bằng sông Cửu Long người Khmer chiếm 16% tổng dân số. Với dân số đông và sống tập trung, đến thế kỷ XI, văn hóa người Khmer tại hai tỉnh Sóc Trăng và Rạch Giá, đã giữ một vị trí thống trị trong năm mươi ngôi làng, người Khmer sống quanh 109 ngôi chùa, nơi có hơn 1.500 tu sĩ truyền giáo lý Phật giáo. Tại Sóc Trăng, có hơn 54 ngôi chùa. Ở Tri Tôn, họ cố kết thành cộng đồng chặt chẽ, bảo lưu tốt văn hóa Khmer. Ngoài ra, người Khmer còn cư trú rải rác ở các tỉnh Long An, Tân An và thậm chí Chợ Lớn nhưng đã hoàn toàn biến mất khỏi các tỉnh trung tâm như Mỹ Tho, Bến Tre hay Gò Công. Tuy nhiên vẫn còn vài nghìn ở các tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một, dấu vết cuối cùng của sự mở rộng lãnh thổ cư trú của họ thời cổ đại. Dù họ không còn cư trú ở một số tỉnh nhưng dấu vết văn hóa Khmer vẫn còn thể hiện qua địa danh vốn có nguồn gốc từ tiếng Khmer. Chẳng hạn: Sa Đéc (Phsar Dek nghĩa "chợ sắt"), Sóc Trăng (Srok Khleang” – “vùng đất của các kho thóc"), Trà Vinh (Prah Trapeang - "lưu vực thiêng liêng"), Camau (Tuk Khmau - "vùng nước đen"). Tác giả kết luận rằng người Khmer đã định cư liên 9 tục ở đồng bằng sông Cửu Long qua nhiều thế kỷ điều này còn lưu lại qua các di chỉ khảo cổ: những nền móng của công trình kiến trúc, các tượng thần Brahma, Visnou được tìm thấy ở mọi nơi. Mãi đến gần hai mươi năm sau mới có công trình của trung tâm phân tích thông tin văn hóa (Cultural Information Analysis Center – CINFAC) của trường Đại học Mỹ thực hiện một công trình nghiên cứu quy mô (1050 trang) theo yêu cầu chuẩn bị cho cuộc đổ binh vào miền Nam của cơ quan quân sự Mỹ về các tộc người thiểu số ở Việt Nam Cộng Hòa. Công trình được xuất bản năm 1966, nhan đề “Minority of groups on the Republic of Vietnam” do L.Joan Schrock, William Sctocton, J.Elaine làm chủ biên. Theo các tác giả việc nghiên cứu bản chất về những thay đổi văn hóa diễn ra ở các tộc người thiểu số là vấn đề khó khăn. Các tộc người được chọn nghiên cứu trong công trình này là những tộc người có những thay đổi về văn hóa, xã hội theo chiều hướng gần với nền văn minh hiện đại (L.Joan Schrock, William Sctocton, J.Elaine,1966, tr.V). Ngoài việc kế thừa nguồn tư liệu thành văn của nhà nước và những công trình nghiên cứu trước đó những người thực hiện đề tài tiến hành nghiên cứu điền dã. Công trình nghiên cứu các tộc người Bahnar, Hre, Hroi, Katu, M’nong, Raglai, Sedang… Hoa, Cham, Khmer, Stiêng. Mỗi tộc người, trong đó có người Khmer, được đề cập đến các vấn đề: quy mô tộc người, địa bàn cư trú, bối cảnh lịch sử, nhà ở, ngôn ngữ, đặc điểm tâm, sinh lý tộc người, cấu trúc xã hội, tập quán và kiêng kỵ, tôn giáo, tổ chức kinh tế, chính trị, kỹ thuật truyền thông. Trong năm 1957, người Khmer sống tập trung nhiều nhất ở Châu Đốc (40.978 người), Ba Xuyên (Sóc Trăng 118.328 người), và Kiên Giang (42.022 người). Theo các tác giả chưa xác định một cách rõ ràng tổ tiên của người Khmer nhưng họ tin rằng tổ tiên họ từ vùng Tây Bắc, có thể là Tây Tạng ngày nay di cư xuống vùng đất Campuchia và đồng bằng sông Cửu Long từ năm 2000 trước Công nguyên. Ngôn ngữ của người Khmer thuộc nhóm Môn – Khmer gần với M’nông và Bahnar nhưng do tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ làm cho ngôn ngữ của họ có nhiều biến đổi, trong lĩnh vực hành chính, luật pháp và tôn giáo vay mượn nhiều ngữ vựng Sanskrit, Pali. Tiếng Việt trở thành ngôn ngữ thứ hai của hầu hết người Khmer. Tuy nhiên, mức độ sử dụng tiếng Việt tùy thuộc vào nơi họ sống và nghề nghiệp của họ có thường xuyên tiếp xúc với người Việt hay không. Trong khi người Việt sống theo từng làng cố kết nhau thì người Khmer sống tách biệt từng 10 nhóm nhỏ ở những vùng có nhiều cây thốt nốt. Họ sống theo từng gia đình theo bên cha, nhiều gia đình họp lại thành phum. Nhà ở của người Khmer có hình chữ nhật, theo truyền thống cửa luôn quay về hướng đông. Xã hội Khmer được tổ chức trên cơ sở gia đình hạt nhân và gia đình mở rộng. Mỗi gia đình hạt nhân có ngôi nhà riêng, trung tâm là nhà của cha mẹ, được bao quanh bởi nhà của những người con gái đã kết hôn. Trong gia đình người Khmer, cha là người đứng đầu hợp pháp nhưng quyền hành không bằng người cha trong gia đình người Việt. Đàn ông và phụ nữ cùng chia sẻ nhau trong lao động làm ra của cải cho gia đình. Người phụ nữ được tôn trọng, là người quản lý ngân quỹ gia đình. Họ chăm sóc con cái, làm vườn, dệt vải, chăn nuôi, gặt lúa… Trẻ em được dạy phải tôn trọng cha mẹ, cả con trai, con gái đều tham gia vào công việc đồng áng và việc gia đình. Nam nữ Khmer thích hôn nhân nội làng. Thời kỳ đính hôn thường kéo dài hai năm. Tác giả mô tả tỉ mỉ giai đoạn ngưỡng của lễ cưới, ý nghĩa biểu tượng của các nghi thức, về vai trò của ông mai, thời gian ở rể trước khi cưới của chàng trai. Người Khmer theo Phật giáo Theravada. Ngôi chùa đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người Khmer. Với 71 trang (trong một công trình 1050) các tác giả trình bày được tổng thể về người Khmer ở Nam Bộ. Theo sự mô tả trên, có thể thấy người Khmer là một tộc người có mặt ở Nam Bộ từ rất sớm, họ có nền văn hóa đặc sắc, trải qua quá trình xen cư với người Việt dù đã có tiếp thu văn hóa của người Việt nhưng văn hóa Khmer vẫn được bảo lưu tốt. Cùng cách tiếp cận tổng quan về một cộng đồng tộc người, tác giả người Việt – Lê Hương (1969) với công trình Người Việt gốc Miên đề cập tổng quan về người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long gồm các vấn đề: nguồn gốc, nhân chủng, dân số, sinh hoạt, xã hội, phong tục, tập quán, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, kinh tế, địa danh, lịch sử, chính sách của triều đình nhà Nguyễn đối với người Khmer. Theo tác giả, về nhân chủng học người Khmer gần giống với người Ấn (vì tổ tiên của họ là người Ấn Độ) da ngâm đen, đen sậm, mặt có đôi lưỡng quyền và quai hàm nhô ra trông có vẻ khắc khổ, tóc đen láng và dợn quăn tự nhiên, chân mày rậm và ngắn, lòng mắt đen thường mở to, dưới mí có quầng đen, mũi nhọn nhưng không cao, môi dầy, râu rậm, vóc người trung bình“dưới triều Nguyễn, tổng số người Việt gốc Miên tuy không đến 150.000 người, những vẫn được coi là một sắc dân có đủ quyền lợi như người Việt. Vua Gia Long đặt năm nhánh họ: Kim, Thạch, Sơn, Lầm, Danh” (Lê Hương, 1969) vì trước đó người Khmer không có 11 họ, người cha đặt họ cho con bằng tên của mình. Phần đông người Khmer sống bằng nghề nông. Người Khmer vẫn giữ những nét văn hóa riêng cho dù sống xen kẽ với người Việt hàng ba thế kỷ. Điều này được thể hiện qua nghi lễ: lễ Chôlchnam (Vào năm mới) giữa tháng 4, lễ Dolta (lễ xá tội vong nhân) giữa tháng 9, lễ Ok Ang Bok (lễ cúng trăng) cuối tháng 10 và những nghi lễ khác theo Phật giáo. Điều đặc biệt là giờ giao thừa của người Khmer không phải là 0 giờ mà luôn thay đổi do các vị Đại Đức thông khoa thiên văn, ấn định giờ giao thừa. Tết của người Khmer vừa được tổ chức ở chùa (đây là dịp người dân cúng dường cho Sư sải) vừa diễn ra ở nhà, tổ chức nhiều cuộc vui như hát hò đối đáp nam nữ Ayay, hát tuồng cải lương Dù kê hay Lò khon, vũ Lâm thôn. Tín ngưỡng truyền thống của người Khmer gồm thờ cúng Ông Tà (Néak Ta), có tục cúng khi làm nhà mới. Tác giả còn mô tả lễ thành đinh dành cho thiếu nữ Khmer thời xưa – lễ Trận Đạm hay lễ Vào bóng mát cô gái phải hoàn toàn cách ly với mọi người trong vòng sáu tháng. Ngày xưa người ta trồng cây chuối cạnh nhà, lúc trổ trái đầu tiên là ngày chấm dứt lễ vào bóng mát. Các phong tục cưới, hỏi, sinh con, tang ma cổ truyền cũng được tác giả mô tả tỉ mỉ. Phần lớn những tập quán này đã bị mai một, riêng lễ cột chỉ tay vẫn được duy trì đến ngày nay. Đặc biệt, công trình đề cập khá chi tiết về những điều huyền bí chưa giải thích được như “Kônn Kót: luyện bào thai thành quỷ”, “Ap: Ma Lại rút ruột”, “Thmup: thư và trù ếm”, “thầy bùa, thầy ngải”, “Acha: vị pháp sư cần thiết”, “bùa ngải”, “các loại bùa” (Lê Hương, 1969, tr.118 -128). Đây là một trong số ít công trình quan tâm đến việc phân chia các giáo phái khác nhau trong giới Sư Sãi Khmer: gồm giáo phái Mohanikay (482 chùa, 7.750 vị Sãi), Thommayyutt (18 chùa, 250 vị Sãi). Trước thời Pháp thuộc chùa Khmer nào cũng có lớp dạy chữ Khmer, chính quyền thời Pháp thuộc vẫn tôn trọng tập quán này, đặt quy chế cho các lớp học ở chùa là école rurale hay école des pagodas và giúp đỡ các Sãi giáo về mọi mặt, và ở trường công của Pháp ở Trà Vinh (Vĩnh Bình), Sóc Trăng (Ba Xuyên), Bạc Liêu, Cần Thơ (Phong Dinh), Tri Tôn (Châu Đốc) vẫn duy trì các lớp song ngữ từ vỡ lòng đến tiểu học, riêng Cần Thơ có một trường Trung học dạy chương trình Miên - Pháp (Lê Hương, 1969, tr.179). Khác với cách nhìn hiện nay nơi các nhà nghiên cứu về sinh kế của người Khmer, xem họ là tộc người không giỏi làm ăn kinh tế, Lê Hương nhận định “trên phương diện kinh tế, người Việt gốc Miên không có gì khác hơn người Việt, cũng có một số công chức, tư chức, quân nhân, buôn bán, làm ruộng, tiểu 12 công nghệ…” (Lê Hương, 1969, tr.226). Đại đa số người Khmer làm ruộng “sống trên mảnh đất phì nhiêu, rộng rãi, lợi tức dồi dào, hầu hết người Việt gốc Miên đều dư dã, yêu đời với nghề chánh thức mỗi năm một mùa lúa và nhiều hoa mầu phụ. Họ trồng: mía, dưa hấu, trầu; những người ở dọc bờ biển Bạc Liêu có ruộng muối”. Người Khmer có nghề đánh cá, nghề đan các đồ dùng băng tre và mây, đan đệm, đan chiếu, nghề dệt chăn, nuôi tằm, dệt lụa, chăn nuôi gia súc, nghề thợ hồ, thợ mộc, nghề vẽ, chạm, đúc tượng, xây cất chùa chiền, đặc biệt “nghề thợ bạc của người Việt gốc Miên cũng khéo léo không thua người Việt”, nghề buôn bán “cửa tiệm của họ bán đủ thứ hàng hóa, cũng như ở ngoài chợ, có khi số người bán đông hơn người Việt: họ bán các đồ dùng của các vị Sư Sãi và đồ dâng cúng trong chùa như tượng Phật, y cà sa, bình bát, túi xách, lá thốt nốt để viết chữ, bình tích, giày dép của Sư Sãi dùng, sách học chữ Miên, kinh Phật chữ Pali, bình đựng tro người chết…” (tr.233-234), nghề in chữ Miên, nghề làm nồi đất, cà ràng, nghề nhuộm mặc nưa, nghề làm đường thốt nốt, nghề lấy phân dơi, nghề ăn ong, nghề thợ may, nghề đốt củi than, nghề làm bánh tráng, nghề lái xe đò, chạy xe lôi máy, xe ba bánh, nghề ca hát mỗi nghề tác giả đều trình tỉ mỉ về kinh nghiệm và kiêng cữ của người làm nghề. Tác giả còn dành một phần để giải thích các địa danh có nguồn gốc Khmer như Sóc Trăng (Srok Khléang), Châu Đốc (Mótt Chrút), Sa Đéc (Phsar Đek), Tri Tôn (Sva Tôn)…các di tích lịch sử trong vùng người Khmer. Đây là công trình khá sớm còn lưu giữ được đến ngày nay nghiên cứu chi tiết và hệ thống về người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, là cơ sở để có thể so sánh người Khmer xưa và nay. Cùng chủ đề nghiên cứu tổng quan về người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long còn có các công trình: Phan An (2009), Dân tộc Khmer Nam Bộ; Người Khmer ở An Giang của Đoàn Thanh Nô (2014) đề cập đến: lược sử hình thành cộng đồng, đặc điểm cư trú, phân bố dân cư, sản xuất và hình thái xã hội; sự hình thành tộc người và văn hóa tộc người. Về đời sống xã hội, hôn nhân gia đình Hiện nay đã nhiều công trình nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về cấu trúc và chức năng của hệ thống phum, sóc của người Khmer bao gồm hệ thống thân tộc, quan hệ hôn nhân và gia đình trong phum, chức năng của phum thể hiện qua các sinh hoạt cộng đồng; cấu trúc và chức năng của sóc gồm cơ sở kinh tế và sự phân hóa xã hội của sóc, cơ 13 chế vận hành của bộ máy quản lý xã hội tự quản của sóc, các chức năng của sóc thể hiện qua các hình thức sinh hoạt cộng đồng trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, tôn giáo tín ngưỡng và ý thức cộng đồng phum sóc. Đây là vấn đề được quan tâm trong các nghiên cứu của Phan An (1984), (1995) Một số vấn đề kinh tế - xã hội của vùng nông thôn Khmer ĐBSCL, Cơ chế quản lý xã hội truyền thống phun, sóc của người Khmer Nam bộ trong làng xã ở châu Á và Việt Nam; Nguyễn Khắc Cảnh (1998) (2000), Phum sóc Khmer ở ĐBSCL, Sự hình thành cộng đồng Khmer vùng ĐBSCL; Bùi Thị Hồng Loan (2014) có nhan đề Hệ thống xã hội tộc người của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long. Vấn đề hôn nhân và gia đình là chủ đề nghiên cứu của các tác giả Đặng Thị Kim Oanh (2007) với luận án tiến sĩ chuyên ngành dân tộc học Hôn nhân và gia đình của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long; Vài đặc điểm của hệ thống thân tộc hôn nhân và gia đình của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long của Đỗ Khắc Tùng; Công trình Hôn lễ của người Khmer Nam Bộ của Nguyễn Lâm Tuấn An đã hệ thống hóa những quan niệm, quy tắc và các nghi lễ hôn nhân truyền thống, những biến đổi hiện nay trong hôn nhân. Theo các tác giả cho rằng nghi lễ hôn nhân truyền thống của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long bao gồm nhiều nghi thức phức tạp vốn có nguồn gốc từ các truyền thuyết, cổ tích đã đi vào lòng người như trường ca Ream Kê, truyện Chây-Suôs…Qua đó bày tỏ tinh thần trách nhiệm của cộng đồng trong việc chuẩn bị cho các thành viên trẻ của họ bước vào giai đoạn mới của cuộc đời. Nhất là trong ngày cưới đều có mặt sư sãi tụng kinh chúc phúc, nên những nghi thức đó không chỉ có ý nghĩa trong ngày cưới mà con in đậm dấu ấn vào đời sống tinh thần của đôi vợ chồng, như một yếu tố tinh thần để ràng buộc cuộc sống đôi vợ chồng, góp phần làm cho gia đình bền vững. Vì vậy, đám cưới người Khmer không chỉ là một hình thức công khai cho cộng đồng biết sự kiện hai người từ nay là vợ chồng mà nó còn chứa đựng nhiều triết lý sống, chứa đựng các giá trị xã hội, các nhân tố đạo đức và là một hình thức diễn xướng phản ánh rõ nét những đặc trưng văn hóa tộc người của người Khmer (Đặng Thị Kim Oanh, 2007, tr.113). Những biến đổi lớn lao trong đời sống kinh tế vật chất, nhất là trong xây dựng kinh tế hộ gia đình, sự giao lưu văn hóa ngày càng sâu và rộng với người Việt đã làm thay đổi những quan niệm của người Khmer về các giá trị, điều kiện và chuẩn mực trong hôn nhân, làm thay đổi nhiều lễ thức trong hôn nhân. Trong hôn nhân những điều kiện vật chất của hai gia đình cũng là 14 những yếu tố không kém phần quan trọng. Lễ cưới của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long tuy vẫn giữ theo nghi thức truyền thống nhưng đã đơn giản đi rất nhiều để phù hợp với cuộc sống hiện nay. Tuy nhiên, những nghi thức mang đậm dấu ấn của Phật giáo vẫn được người Khmer gìn giữ như : tục mời sư sãi đến tụng kinh chúc phúc, tục he ph’ca sla (rước hoa cau), căt ph’ca sla (mở buồng hoa cau), chon đay (cột chỉ tay). Còn nhiều nghi thức khác đã bị mai một như lễ nhuộm răng, lễ trình diện Neak Tà. Về đời sống văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo Người Khmer Nam Bộ có truyền thống văn hóa lâu đời có những nét độc đáo về phong tục tập quán, truyền thống văn hóa tín ngưỡng, sinh hoạt lễ hội phong phú, đa dạng góp phần tạo nên sự đặc sắc của văn hóa vùng Tây Nam Bộ. Đây là lĩnh vực có nhiều công trình nghiên cứu nhất. Có thể kể đến một số nghiên cứu: Lê Xuân Diệu (1987), con đường phát triển kinh tế-văn hóa trong buổi đầu lịch sử của ĐBSCL; Đinh Văn Liêm (1988), Văn hóa Khmer trong quá trình giao lưu và phát triển ở ĐBSCL;Trường Lưu (chủ biên) (1993) với công trình Văn hóa người Khmer vùng Đồng bằng Sông Cửu Long ; Một số lễ tục dân gian người Khmer đồng bằng sông Cửu Long của Trần Văn Bổn b.s (1999) ; Trần Kim Dung (2000), Văn hóa truyền thống của người Khmer ĐBSCL trong cuộc sống hiện nay; Trần Hồng Liên (2002), Vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Sóc Trăng; Trần Văn Bổn (2002), Phong tục và lễ nghi vòng đời người Khmer Nam Bộ ; Trần Văn Bính (2004), Văn hoá các dân tộc Tây Nam Bộ. Thực trạng và những vấn đề đặt ra; Huỳnh Thanh Quang (2011) đã tiếp cận theo hướng này trong nghiên cứu Giá trị văn hóa Nam Bộ với văn hóa Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long; Phạm Thị Phương Hạnh ... [và nh.ng. khác] (2011) có công trình Văn hóa Khmer Nam Bộ nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam; Lý Minh Tâm (2011), Bản sắc văn hoá của người Khmer Nam Bộ qua dân ca nghi lễ đám cưới; Nguyễn Xuân Hậu (2013), Sự tiếp biến của Phật giáo Theravada đối với tín ngưỡng, hệ thống linh thần, linh thú - người Khơ-me Nam Bộ; Huỳnh Sang (2014), Dấu ấn Phật giáo trong lễ hội Ok-Om-Bok và Som-Pắ Praw-Khe của người Khmer Nam Bộ; Nguyễn Khắc Cảnh (2014), Yếu tố văn hóa Phật giáo trong cơ chế quản lý xã hội truyền thống phum sóc của người Khmer ở Nam Bộ; Cùng chủ đề lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer Nam bộ có hai công trình của Sơn Phước Hoan, Sơn Ngọc Sang, Danh Sên (2002), và Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh (2015)… 15 Các công trình tiếp cận văn hóa theo hướng khác nhau nhưng đã khái quát văn hóa Khmer với những nét đặc trưng: Có nền văn học dân gian rất phong phú, gồm tục ngữ, dân ca, truyện dân gian (thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn và truyện cười). Tục ngữ và châm ngôn của người Khmer thường là những tổng kết về kinh nghiệm hay những nhận xét và những lời khuyên răn được gọi chung là Xôphia – Xết. Đặc điểm nổi bật của truyện thần thoại, truyền thuyết của người Khmer là “phản ánh nét đặc thù trong quá trình khai thiên, lập địa, mở mang địa phận trên vùng đồng bằng sông nước Cửu Long sình lầy, hoang vu, ngập nước và nhiều thú dữ. Truyện cổ tích của người Khmer thường phản ánh những mâu thuẫn trong xã hội thông qua sự đối lập giữa cái thiện – cái ác, cái tốt – cái xấu chẳng hạn như truyện “Hoàng tử Săng Sê Một Chây”, “Chau Sanh – Chau Thông”. Dân ca Khmer gồm dân ca nghi lễ, hát ru con (chum riêng bom pê kôn) và hát đối đáp trong lao động. Dân ca nghi lễ là một phần không thể thiếu trong các nghi lễ cúng thần và nghi lễ cúng cầu mưa, cầu an,… Dân ca nghi lễ thể hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, biểu hiện ước mơ cũng như khát vọng của con người về cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Trong nghệ thuật dân gian của người Khmer, bên cạnh các làn điệu dân ca còn có nghệ thuật múa và nghệ thuật sân khấu. Người Khmer nổi tiếng múa dân gian: múa sinh hoạt có Râm vông, Lâm lev, Sarvan, điệu múa Xarikakeo, múa trống chhayam. Nghệ thuật sân khấu là một nét độc đáo và đặc sắc trong nghệ thuật biểu diễn của người Khmer, có lịch sử phát triển lâu đời với nhiều trình độ khác nhau từ đơn giản (dân gian) đến phức tạp (cung đình), được coi “là linh hồn của toàn bộ hệ thống nghệ thuật dân tộc mang đậm nét văn hóa và bản sắc riêng của người Khmer”. Đó là Sân khấu Rôbam (còn được gọi là hát Réamkèr) với vở kịch nổi tiếng nhất là Réamkèr được rút ra từ áng hùng ca Yamayana của Ấn Độ; Sân khấu Dù - Kê (Yukê) là kịch hát của người Khmer vùng Tây Nam Bộ, ra đời vào những năm 1920 - 1930 mang dấu ấn đậm nét của sự giao thoa văn hóa với nghệ thuật của người Hoa và người Việt; Sân khấu Lakhôn . Đối với người Khmer Nam Bộ có hai yếu tố chi phối mạnh mẽ đời sống tâm linh của họ đó là tín ngưỡng - tôn giáo và nghi lễ. Tín ngưỡng dân gian bao gồm tín ngưỡng Neak Tà, tín ngưỡng Arak và các lễ nghi nông nghiệp. Tín ngưỡng Neak tà thờ thần bảo hộ của phum, sóc Khmer. Tín ngưỡng 16 Arak là thờ vị thần của dòng họ. Mỗi dòng họ có thể có nhiều Arak hoặc nhiều dòng họ có thể thờ chung một Arak. Về các nghi lễ nông nghiệp, do đặc điểm là cư dân trồng lúa nước và việc canh tác phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên nên trong xã hội người Khmer vẫn tồn tại nhiều nghi lễ nông nghiệp. Trong các nghi lễ này có tục cúng sân lúa (pi thi sel lean), cúng thần ruộng (Neak tà Xrê), cúng thần mục súc (Arak viel). Phật giáo Theravada (Phật giáo Nam tông) và tộc người Khmer đã trở thành một khối bền chặt, không thể tách rời. Trong chừng mực nhất định, đó còn là niềm tin, là thế giới quan, là nhân sinh quan của cộng đồng Khmer. Những tinh hoa của Phật giáo Theravada được người Khmer xem là những giá trị cần phải vươn tới. Từ xa xưa, Phật giáo Theravada của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống tổ chức thống nhất để thực hiện giáo quyền và giáo luật. Nhiều công trình đã khai thác giá trị văn hóa Phật giáo của người Khmer, chẳng hạn: Chùa Khmer Nam Bộ với văn hóa đương đại của Hà Lý (2004); Chùa Khmer ở thủ đô tỏa sáng giá trị văn hóa Khmer Nam Bộ của Nguyễn Văn Hải (2015) đề cập đến vị trí của ngôi chùa trong văn hóa của người Khmer Nam Bộ. Qua đó, tác giả cho thấy sự kết tinh giá trị văn hóa của ngôi chùa Khmer thông qua các yếu tố về kiến trúc, điêu khắc và hội họa đã thể hiện sự hài hòa như kết tinh nghệ thuật truyền thống và trí sáng tạo của người Khmer. Đồng thời, khẳng định chùa Khmer có sức lan tỏa cao về giá trị văn hóa qua việc tái hiện lại đời sống của cộng đồng các dân tộc, gắn kết chặt chẽ với các hoạt động du lịch, qua đó giới thiệu văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam đến khách quốc tế. Trong bài viết Báo hiếu trong hành vi tôn giáo của cộng đồng Khơ-me Nam Bộ, Huỳnh Ngọc Thu (2015) cho rằng báo hiếu là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi con người, mỗi người con phải luôn làm tròn bổn phận đối với cha mẹ như: phụng dưỡng cha mẹ, làm việc thay thế cho cha mẹ, giữ gìn gia phong tốt đẹp, bảo quản tốt tài sản thừa tự, tạo phước hồi hướng khi cha mẹ đã quá vãng. Bên cạnh đó, những hành vi tôn giáo được thể hiện trong bối cảnh văn hóa của người Khmer vùng Nam Bộ đều cho thấy một mục đích là hướng đến việc báo hiếu của con cái đối với đấng sinh thành như: việc báo hiếu đối với cha mẹ còn tại thế được người Khmer thể hiện qua những nghi thức cầu an, cầu phúc hay nghi thức truyền thống là tắm báo hiếu cho cha mẹ; đối với người không còn cha mẹ việc 17 báo hiếu thông qua các nhà sư như dâng cơm cho sư, con cái thực hiện nghi thức đi tu và tu trước lửa. Qua đó, tác giả cho rằng những hành vi đó đã đem đến những giá trị to lớn trong đời sống xã hội của cộng đồng như: giá trị mang tính giáo dục; giá trị mang tính cố kết cộng đồng; giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống để lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác (Huỳnh Ngọc Thu, 2015). Bài viết Lễ hội tôn giáo của người Khmer Tây Nam bộ - Nhìn từ góc độ giá trị của các tác giả Võ Văn Thắng, Nguyễn Hùng Cường, Nguyễn Thị Ngọc Thơ (2015) đề cập đến mối quan hệ giữa lễ hội và lễ hội tôn giáo của người Khmer tại đây. Các tác giả cũng đã tìm hiểu về những nét đặc trưng của các lễ hội tôn giáo trong chùa của người Khmer Tây Nam Bộ thông qua một số lễ hội như: lễ Phật Đản, lễ nhập hạ, lễ xuất hạ, lễ dâng y, lễ kiết giới Sima. Qua đó, người viết đã cho thấy được những giá trị cơ bản của các lễ hội tôn giáo trong chùa Khmer Tây Nam Bộ: (1) góp phần làm phong phú lễ hội truyền thống nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung; (2) khắc ghi sâu đậm trong đời sống người Khmer về sự gắn kết cộng đồng; (3) cân bằng đời sống tâm linh; (4) chứa đựng tính nhân văn sâu sắc; (5) bảo tồn di sản và trao quyền những giá trị văn hóa dân tộc. Lê Văn Lợi (2015) trong Phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hóa Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ cho rằng công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa (GTVH) Phật giáo Nam tông Khmer còn nhiều hạn chế nhất định như: một số ngôi chùa được công nhân di tích cấp quốc gia bị xuống cấp chưa được trùng tu kịp thời; việc khai thác các di tích và lễ hội để phát triển du lịch còn hạn chế, công tác quản lý chưa chặt chẽ; việc giảng dạy tiếng Khmer còn nhiều bất cập; nhiều nghệ nhân bảo tồn di sản đã có tuổi; nhiều thanh niên không còn thiết tha với việc tu học tại chùa. Qua đó, tác giả cũng đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng công tác bảo tồn và phát huy GTVH của người Khmer như: (1) đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức trong việc bảo tồn và phát huy các GTVH; (2) tập trung giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào tại đây; (3) tổ chức tiến hành sưu tập, khảo sát đánh giá lại GTVH; (4) bổ sung hoàn thiện chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị này; (5) nâng cao vai trò của tổ chức Giáo hội Phật giáo. Phật giáo có ảnh hưởng lớn đến văn hóa Việt Nam nói chung, đối với văn hóa Khmer Nam Bộ nói riêng. Bài viết “Ảnh hưởng của Phật Giáo Nam Tông đối với ngôn 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng