BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
ĐINH PHƯƠNG HUYỀN
KHÔNG GIAN HẬU CHIẾN TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA NHÀ VĂN LÊ LỰU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Phú Thọ, năm 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
ĐINH PHƯƠNG HUYỀN
KHÔNG GIAN HẬU CHIẾN TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA NHÀ VĂN LÊ LỰU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 8220120
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Văn Hiểu
Phú Thọ, năm 2021
i
CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Không gian hậu chiến trong tiểu
thuyết của Lê Lựu” (khảo sát qua: Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Hai nhà)
là công trình nghiên cứu của riêng tôi, chƣa từng đƣợc công bố trong bất cứ
công trình khoa học nào khác.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của bản thân.
Phú Thọ, ngày 18 tháng 5 năm 2021
Tác giả luận văn
Đinh Phƣơng Huyền
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lời biết ơn sâu sắc đến TS. Đỗ Văn Hiểu Trƣởng môn Tự sự học (Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội) - Ngƣời đã trực
tiếp hƣớng dẫn, động viên khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn trƣờng THPT Hƣng Hóa- cơ quan tôi đang
công tác, cảm ơn bạn bè đồng nghiệp, ngƣời thân đã tạo điều kiện cho tôi
đƣợc hoàn thành nhiệm vụ công tác, học tập, nghiên cứu.
Phú Thọ, ngày 18 tháng 5 năm 2021
Học viên
Đinh Phƣơng Huyền
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ........................................................................... 2
2.1. Nghiên cứu về không gian trong văn học ...................................................... 2
2.2. Nghiên cứu về không gian trong tiểu thuyết của Lê Lựu .............................. 6
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................... 9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu................................................................................. 10
6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 10
NỘI DUNG ......................................................................................................... 11
CHƢƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KHÔNG GIAN TRONG TÁC PHẨM
VĂN HỌC ........................................................................................................... 11
1.1. Khái niệm không gian trong tác phẩm văn học ........................................... 11
1.1.1. Vai trò định vị của không gian trong tác phẩm......................................... 12
1.1.2. Hình thức không gian của tác phẩm văn học ............................................ 14
1.2. Đặc điểm của không gian trong tác phẩm văn học ...................................... 15
1.2.1. Không gian mang tính quan niệm ............................................................. 15
1.2.2. Không gian gắn với cá tính sáng tạo của nhà văn..................................... 18
1.2.3. Không gian gắn với đặc điểm văn hóa của thời đại .................................. 20
1.3. Một số loại hình không gian trong tác phẩm văn học .................................. 25
Tiểu kết chƣơng 1................................................................................................ 30
CHƢƠNG II. MỘT SỐ LOẠI KHÔNG GIAN HẬU CHIẾN TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA LÊ LỰU .................................................................................... 31
2.1. Không gian thành thị .................................................................................... 31
2.1.1. Không gian ngột ngạt tù túng .................................................................... 32
2.1.2. Không gian sinh hoạt ở thành thị với sự cô đơn, bất hòa ......................... 37
2.2. Không gian làng mạc nông thôn .................................................................. 51
iv
2.2.1. Không gian thiên nhiên yên bình nhƣng khắc nghiệt ............................... 51
2.2.2. Không gian đời sống mới .......................................................................... 54
2.2.3. Không gian làng quê “đất lề quê thói” ...................................................... 59
2.2.4. Không gian tình ngƣời đằm thắm ............................................................. 61
2.3. Không gian tâm tƣởng.................................................................................. 65
2.3.1. Không gian ký ức tội lỗi............................................................................ 66
2.3.2. Không gian suy tƣ nén nhịn và tỉnh ngộ ................................................... 72
Tiểu kết chƣơng 2................................................................................................ 80
CHƢƠNG III. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG KHÔNG GIAN HẬU CHIẾN
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA LÊ LỰU ........................................................... 81
3.1. Điểm nhìn trần thuật..................................................................................... 81
3.1.1. Điểm nhìn bên ngoài kiến tạo không gian ................................................ 82
3.1.2. Điểm nhìn bên trong kiến tạo không gian ................................................. 86
3.2. Giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật............................................................... 89
3.2.1. Giọng hài hƣớc, hóm hỉnh......................................................................... 90
3.2.2. Giọng văn mỉa mai, chế giễu .................................................................... 95
3.2.3. Giọng tâm tình, chua xót ......................................................................... 101
3.2.4. Ngôn ngữ kiến tạo không gian ................................................................ 107
3.3. Kết cấu không gian..................................................................................... 109
3.3.1. Kết cấu không gian tƣơng phản .............................................................. 110
3.3.2. Kết cấu không gian luân chuyển ............................................................. 120
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 138
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 141
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Từ đầu thế kỷ XX với sự ra đời của những lý thuyết ngôn ngữ học
và với sự xuất hiện của những cái tên nhƣ R. Barthes, M. Foucault... đã mở ra
những hƣớng khám phá tác phẩm văn học qua góc độ ngôn ngữ học, ký hiệu
học, văn hóa học, phê bình sinh thái...Cùng với những hƣớng nghiên cứu đó,
thi pháp học, tự sự học vẫn đƣợc sử dụng nhƣ một con đƣờng khám phá sự
độc đáo của tác phẩm văn học. Nghiên cứu không gian trong tác phẩm văn
học là hƣớng nghiên cứu đƣợc chú ý trong những công trình vận dụng thi
pháp nhƣ Thi pháp truyện Kiều, Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử, Thi
pháp thơ Huy Cận của Trần Khánh Thành, Thi pháp thơ Đường của Nguyễn
Thị Bích Hải, Thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân Kính...Bên cạnh đó, tự sự
học nghiên cứu vấn đề không gian của tác phẩm văn học, nhƣng nghiêng sang
tìm hiểu hình thức không gian của tác phẩm văn học.
1.2. Văn học Việt Nam sau 1975, bên cạnh những tác phẩm viết về
không gian chiến tranh, cũng có rất nhiều tác phẩm viết về không gian hậu
chiến. Không gian hậu chiến mang những nhân tố của cuộc sống đời thƣờng
nhƣ các vấn đề tình yêu lứa đôi, tình cảm gia đình, đời sống mƣu sinh…
Những nhân tố này là vừa là di chứng của chiến tranh vừa tất yếu xuất hiện
trong hậu chiến.
1.3. Lê Lựu là nhà văn có vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam sau
1975. Các tiểu thuyết của Lê Lựu đã đặt ra những vấn đề nóng bỏng của nƣớc
ta những năm đầu sau giải phóng.
Trong sự nghiệp văn học của Lê Lựu không thể không kể đến ba cuốn
tiểu thuyết Thời xa vắng (1986), Chuyện làng Cuội (1993) và Hai nhà (2000).
Ba cuốn tiểu thuyết này đƣợc sáng tác ở những khoảng thời gian khác nhau
trong sự phát triển của đất nƣớc. Năm 1986 đất nƣớc bƣớc vào một cuộc
2
chuyển mình mới. Từ 1993 đến 2000 là sự thay da đổi thịt trên khắp các dải
đất từ làng quê đến thành thị. Phản ánh lại bối cảnh xã hội Việt Nam ở từng
giai đoạn từ 1986, 1993 đến 2000 đã làm nên những nét độc đáo riêng trong
không gian hậu chiến ở mỗi cuốn tiểu thuyết.
Nghiên cứu không gian trong tác phẩm văn học, ở đề tài này là không
gian hậu chiến, là một con đƣờng khám phá tác phẩm văn học từ đó giúp
khẳng định giá trị của tác phẩm, vị trí của tác giả, đồng thời thấy đƣợc một số
đặc điểm của Văn học Việt Nam sau chiến tranh. Vì tất cả những lí do đã kể
trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu “Không gian hậu chiến
trong tiểu thuyết của Lê Lựu (Khảo sát qua “Thời xa vắng”, “Chuyện làng
cuội” và “Hai nhà”)”.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu về không gian trong văn học
Nghiên cứu về không gian tự sự trong văn học bắt đầu đƣợc chú ý từ
bài nghiên cứu Hình thức không gian trong văn học hiện đại của J. Frank khi
ông khám phá các hình thức không gian các tác phẩm của T. Eliot, E. Pound,
J. Joyce, M. Prouts. Sau đó, M. Bakhtin trong công trình Hình thức thời gian
và không gian trong tiểu thuyết, đã đi sâu vào không gian trong một thể loại.
Trong công trình này, M. Bakhtin đã chỉ ra sự gắn kết của không gian và nhân
vật. Theo đó, không gian gắn với mỗi hành động của nhân vật và cũng đặc
biệt lƣu ý đến các không gian nhƣ không gian ngƣỡng cửa, không gian gặp
gỡ, không gian riêng tƣ, không gian nhào nặn nhân vật… Nhƣ vậy, vấn đề
nghiên cứu không gian trong tác phẩm văn học bắt đầu từ khoảng giữa thế kỷ
XX. Tuy nhiên, theo Trần Đình Sử trong Tự sự học lý thuyết và ứng dụng, thì
đến nay các công trình nghiên cứu trực tiếp bàn đến không gian theo hƣớng tự
sự học chƣa nhiều. Một số công trình nghiên cứu về không gian tự sự có thể
kể đến nhƣ Hình thức không gian trong văn học hiện đại của J.Frank với quan
3
niệm về không gian ngôn ngữ, không gian vật lý của câu chuyện và không
gian tâm lý của ngƣời đọc; Lý thuyết văn xuôi (1929) của V.Shklovski với
quy ƣớc về không gian trong truyện kể và quan hệ giữa không gian và nhân
vật; Cấu trúc văn bản nghệ thuật của I.Lotman với quan niệm “không gian
nghệ thuật nhƣ một mô hình thế giới tƣơng thích với bức tranh thế giới của
một nền văn hóa và sự sáng tác của ngƣời nghệ sĩ” [42, 177]; Câu chuyện và
diễn ngôn (1978) của S.Chatman. Vẫn theo Trần Đình Sử trong công trình
trên, “không gian câu chuyện gắn bó với hành động cụ thể của nhân vật, còn
không gian diễn ngôn gắn với lời kể, chỉ nơi mà ngƣời kể xuất hiện và kể
chuyện” [70, 177]. Theo đó, ngƣời kể ở ngôi thứ ba không có không gian còn
ngƣời kể ở ngôi thứ nhất là một nhân vật luôn xuất hiện trong không gian của
mình. Tóm lại, kế thừa thành quả nghiên cứu của các công trình kể trên, Trần
Đình Sử trong Tự sự học lý thuyết và ứng dụng khẳng định quan niệm của
ông về không gian tự sự “không gian tự sự là một phạm trù mô hình hóa thế
giới của con ngƣời, mà con ngƣời sống trong đó” [70, 178]. Đồng tình với
quan điểm của Trần Đình Sử, trong luận văn này, chúng tôi quan niệm không
gian là sự tái tạo thế giới của con ngƣời, là môi trƣờng tồn tại và hoạt động
của nhân vật.
Trong Tự sự học lý thuyết và ứng dụng, Trần Đình Sử lý giải về sự biểu
hiện cũng nhƣ sự đa dạng của không gian. Nhà nghiên cứu cho rằng “không
gian tự sự thể hiện ở sự miêu tả các địa điểm, nơi chốn, vị trí mà nhân vật và
sự kiện xảy ra. Không gian thể hiện qua hệ thống các từ ngữ phƣơng vị nhƣ
cao/ thấp, xa/ gần, dài/ ngắn, trên/ dƣới, phải/ trái, đông/ tây, nam/ bắc. Các
phƣơng vị này thƣờng kết hợp với ý nghĩa đạo đức, tôn giáo, địa lí, lịch sử.
Không gian thể hiện qua các biểu tƣợng không gian nhƣ sông, biển, núi cao,
đồng ruộng, trời đất, thế giới bên này, bên kia xứ không tƣởng. Không gian tự
sự luôn luôn gắn liền với điểm nhìn của nhân vật kể chuyện hay nhân vật
hành động. Qua điểm nhìn mà có thêm không gian bên trong, không gian bên
4
ngoài, không gian quá khứ hoặc tƣơng lai” [70, 179]. Nhƣ vậy, theo Trần
Đình Sử không gian có thể xác định và phân loại thành các cặp tƣơng ứng
trên ranh giới của hữu thể là bên ngoài/ bên trong hoặc xác định trên cơ sở
thời gian là quá khứ/ hiện tại/ tƣơng lai. Mỗi không gian lại tồn tại trong đối
lập cao thấp hay xa gần…
Ở Việt Nam, hai công trình nghiên cứu có đóng góp quan trọng trong
giải mã không gian là Thi pháp truyện Kiều và Thi pháp thơ của Tố Hữu của
Trần Đình Sử. Bên cạnh đó còn có thể kể đến các công trình nhƣ Thi pháp ca
dao của Nguyễn Xuân Kính, Thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công
Hoan của Trần Đình Sử và Nguyễn Thanh Tú, Thi pháp thơ Huy Cận của
Trần Khánh Thành… Chúng tôi sẽ điểm qua quan niệm về không gian trong
các công trình kể trên theo phân loại từ văn học dân gian, văn học trung đại
đến văn học hiện đại.
Nguyễn Xuân Kính trong Thi pháp ca dao, hiểu không gian là nơi sinh
hoạt và mang tâm trạng của con ngƣời “không gian trong ca dao chủ yếu là
không gian trần thế, đời thƣờng, bình dị, phiếm chỉ với những nhân vật chƣa
đƣợc cá thể hóa, mang tâm trạng, tình cảm chung của nhiều ngƣời” [36, 307].
Điều đó có nghĩa giữa không gian và con ngƣời không có sự tách rời mà tồn
tại đồng thời.
Trong Thi pháp truyện Kiều, Trần Đình Sử đã đƣa ra khái niệm về
không gian nghệ thuật “không gian nghệ thuật là mô hình nghệ thuật về cái
thế giới mà con ngƣời đang sống, đang cảm thấy vị trí, số phận của mình ở
trong đó” [69, 174]. Hiểu theo Trần Đình Sử, không gian nghệ thuật trong tác
phẩm văn học chỉ là sự tái tạo lại không gian trong hiện thực khách quan. Tuy
nhiên, sự tái tạo không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học còn gắn liền
với sự tái tạo con ngƣời trong không gian đó. Không gian nghệ thuật trong tác
phẩm văn học có thể đƣợc phân định thành các cặp nhị phân nhƣ cao/ thấp,
rộng/ hẹp, cao quý/ ô trọc: “mô hình không gian bao giờ cũng là một thể
5
thống nhất bị phân giới thành cặp đối lập nhƣ nơi cao quý và nơi ô trọc, quê
mình và quê ngƣời, gần gũi và xa cách, bên trong và bên ngoài...” [69, 174].
Tất cả những sự phân định đó cho thấy không gian nghệ thuật là một hiện
tượng nội cảm, giá trị chứ không đơn thuần là đối tƣợng có tính vật lý. Theo
Trần Đình Sử không gian địa lí, vật lý “chỉ là cái nền khách quan bề ngoài”
còn “không gian nghệ thuật có thể xem là một “không quyển” tinh thần bao
bọc cảm thức con ngƣời, là một hiện tƣợng nội cảm, giá trị, chứ không phải là
hiện tƣợng địa lý và vật lý” [69, 175]. Nhƣ vậy, không gian nghệ thuật có hai
mặt khách quan và chủ quan. Về khách quan, không gian nghệ thuật là mô
hình tái tạo của hiện thực khách quan, là môi trƣờng lƣu trú của con ngƣời,
đƣợc xác định trên phƣơng diện hữu hình. Về chủ quan, không gian nghệ
thuật đƣợc xác định bởi ý niệm về các giá trị của con ngƣời.
Trong một nghiên cứu khác đƣợc Trần Đình Sử công bố năm 1987, Thi
pháp thơ Tố Hữu, Trần Đình Sử tiếp cận các sáng tác của Tố Hữu và xác định
không gian nghệ thuật. Ông cho rằng, hình tƣợng không gian quan trọng nhất
trong thơ Tố Hữu là không gian con đƣờng “hình tƣợng không gian quan
trọng nhất đóng vai trò hình tƣợng xuyên suốt trong thơ Tố Hữu là con đƣờng
cách mạng” [69, 536]. Những con đƣờng nhƣ “Đƣờng Bắc Sơn, Đình Cả,
Thái Nguyên/ Đƣờng qua Tây Bắc, đƣờng lên Điện Biên” chỉ là những
khoảng không khách quan, khoảng không vật lý. Trên phƣơng diện ý niệm thì
không gian con đƣờng trở thành không gian cộng đồng, sử thi “con đƣờng
trong thơ Tố Hữu đóng vai trò tƣơng tự nhƣ không gian “quảng trƣờng” trong
văn học thời kỳ Cộng hòa cổ đại ở phƣơng Tây-đó là không gian công cộng
của mọi ngƣời, nó cho phép bộc lộ trọn vẹn cái chung và xã hội của con
ngƣời một cách thuần túy nhất” [69, 541]. Con đƣờng thực sự trở thành không
gian của xã hội, của cộng đồng khi có thể thấy trên những con đƣờng hầu hết
các tầng lớp ngƣời Việt Nam từ anh chiến sĩ, ngƣời cán bộ đến chị hàng hoa,
chị quyét rác...
6
Ở Thi pháp thơ Huy Cận, Trần Khánh Thành giống nhƣ Trần Đình Sử,
quan niệm không gian là nơi tồn tại của nhân vật “trong hiện thực, không gian
và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất; trong văn học, không gian và
thời gian là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là phạm trù của hình
thức nghệ thuật” [73, 97]. Trần Khánh Thành cũng cho rằng không gian
không tách khỏi thời gian mà luôn gắn với thời gian nhƣ hai mặt của vấn đề.
Nghiên cứu thơ Huy Cận, trong đó có Lửa thiêng, Trần Khánh Thành phân
lập ba không gian: không gian thiên đƣờng, không gian trần thế và không gian
địa ngục. Cách phân loại này dựa trên đặc tính của môi trƣờng tồn tại của sự
vật, con ngƣời và có cơ sở từ tƣ duy văn hóa.
Trong Thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan, hai tác giả
Trần Đình Sử và Nguyễn Thanh Tú cho rằng không gian trong các truyện
ngắn đƣợc của Nguyễn Công Hoan mang tính kịch bởi sự chật chội hơn nữa
không gian không nhằm biểu hiện tâm lý mà chỉ tạo khung cho cốt truyện tức
nó đơn thuần là môi trƣờng tồn tại của nhân vật.
Nhƣ vậy, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã coi không gian trong tác
phẩm văn học là môi trƣờng tồn tại của nhân vật, là tâm tƣởng của nhân vật.
Không gian đƣợc kiến tạo bởi các ranh giới, các mặt đối lập và đồng thời là
mô hình hóa hiện thực khách quan và thế giới tâm tƣởng thực tế của con
ngƣời. Không gian nghệ thuật có là mô hình của sự tồn tại trong khách quan
và là một biểu tƣợng có tính nội cảm, giá trị các nhà nghiên cứu đã triển khai
khám phá không gian nghệ thuật trong nhiều tác phẩm lớn.
2.2. Nghiên cứu về không gian trong tiểu thuyết của Lê Lựu
Đến nay đã có nhiều công trình ở các cấp độ nghiên cứu về ba tiểu
thuyết Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội và Hai nhà của Lê Lựu. Các nhà
nghiên cứu đã tiếp cận ba tiểu thuyết nói trên từ nhiều phƣơng diện nhƣ thi
pháp học, tự sự học...khám phá ra nhiều chiều sâu nhƣng chƣa có nghiên cứu
7
nào đặt ra vấn đề về không gian hậu chiến trong sự hệ thống cả ba tác phẩm
này. Tiến hành nghiên cứu về không gian hậu chiến trong tiểu thuyết Lê Lựu
qua thời xa vắng, chuyện làng Cuội và Hai nhà chúng tôi kế thừa và phát huy
những kết quả của những ngƣời đi trƣớc. Đặt ra vấn đề về không gian hậu
chiến chúng tôi đã khảo sát một số nghiên cứu về tiểu thuyết Lê Lựu gần gũi
với đề tài và hệ thống lại nhằm xác định vị trí nghiên cứu, các thành quả kế
thừa.
Nghiên cứu về tiểu thuyết Lê Lựu Nghệ thuật trần thuật trong tiểu
thuyết Lê Lựu (2008) trong Luận văn Thạc sĩ của Võ Thị Mỹ Hạnh bảo vệ tại
Đại học sƣ phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã khám phá nghệ thuật trần thuật
trong các tiểu thuyết của Lê Lựu cả trƣớc 1975 và sau 1975 trong đó có Thời
xa vắng, Chuyện làng Cuội và Hai nhà. Võ Thị Mỹ Hạnh đã khám phá các
phƣơng diện ngƣời trần thuật, kết cấu lời văn trần thuật và giọng điệu trần
thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu. Nghiên cứu này dù không đặt ra vấn đề không
gian trong sáng tác của Lê Lựu nhƣng góp một phần khám phá vào những tác
phẩm và tác giả mà chúng tôi đang theo đuổi nên xin vẫn kể ra ở đây.
So với nghiên cứu của Võ Thị Mỹ Hạnh thì luận văn thạc sỹ về Không
gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới năm
2010 của Đào Thị Cúc tại Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn gần
gũi hơn với đề tài nghiên cứu của chúng tôi. Đào Thị Cúc đã xác định các
dạng thức không gian tồn tại trong tiểu thuyết Lê Lựu nhƣ không gian mang
tính bối cảnh xã hội với hai yếu tố không gian nông thôn nghèo khổ, lam lũ,
tăm tối và không gian phố phƣờng chật hẹp, bức bối ngột ngạt; không gian
mang tính tâm tƣởng. Tác giả cũng xác định cách thức biểu hiện không gian
nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu. Nghiên cứu của Đào Thị Cúc tập trung
vào yếu tố không gian mang tính khái quát với giới hạn là các tiểu thuyết Thời
xa vắng (1986), Chuyện làng Cuội (1993), Sóng ở đáy sông (1994) và Hai
nhà (2003). Khác biệt với Đào Thị Cúc, đề tài của chúng tôi chỉ tập trung
8
nghiên cứu không gian hậu chiến trong tiểu thuyết Lê Lựu và nghệ thuật xây
dựng không gian đó qua ba tiểu thuyết cụ thể Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội
và Hai nhà.
Mai Thị Liên lựa chọn hƣớng tiếp cận tƣ duy nghệ thuật qua công trình
Tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu (2013, luận văn Thạc sĩ, Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn). Trong công trình này, Mai Thị Liên nghiên
cứu tƣ duy nghệ thuật và xem không gian nhƣ một biểu hiện của nó. Tác giả
đã phân định không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu thành không
gian nông thôn và không gian phố phƣờng đô thị. Nhƣ vậy, cách phân định
không gian của Mai Thị Liên dựa vào đƣờng biên địa lý.
Luận văn Nông thôn Việt Nam qua tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu
(2018, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Thái Nguyên) của Phan Thị Quyên đã đƣa
ra nhận định về nông thôn trong Thời xa vắng từ hai phƣơng diện nội dung và
phƣơng thức thể hiện. Theo tác giả, nông thôn Việt Nam trong tiểu thuyết
mang tính “đột phá khẩu”-chữ dùng của Bùi Việt Thắng-là một miền quê
nghèo khó đầy những tục lệ “đất lề quê thói” nhƣng đang chuyển mình trong
thời đại mới. Trong vùng quê “đất lề quê thói” ấy có những ngƣời nông dân
sống trong bi kịch. Họ không đƣợc là chính mình, họ đƣợc sống nhƣng lại
đánh mất mình. Dẫu có cuộc đời chất chứa bi kịch nhƣng họ ngập tràn khát
vọng trong tình yêu và hôn nhân. Nông thôn trong nghiên cứu của Phan Thị
Quyên là một kiểu không gian đƣợc xác định trên cơ sở ranh giới địa lý giống
nhƣ cách phân định ranh giới không gian của Mai Thị Liên trong Tư duy nghệ
thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu. Nó tồn tại một cách đối lập với không gian
thành thị. Bởi vậy, không gian trong nghiên cứu của Phan Thị Quyên có sự
tƣơng đồng và có sự khác biệt với không gian trong nghiên cứu của chúng tôi.
Chúng tôi xác định ranh giới không gian trên phƣơng diện địa lý để làm cơ sở
tìm hiểu những đặc điểm của thời hậu chiến.
9
Sáng tác của Lê Lựu mà đặc biệt là Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội và
Hai nhà là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều đề tài. Các đề tài nghiên cứu tiếp
cận từ nhiều hƣớng thi pháp học, tự sự học... và đã ít nhiều đặt ra vấn đề
không gian nghệ thuật. Tuy nhiên chƣa có đề tài nào đi sâu khám phá về
không gian hậu chiến trong hai tiểu thuyết nói trên cùng với nghệ thuật xây
dựng nó. Nhƣ vậy, đề tài của chúng tôi đang hƣớng đến một khoảng trống
trong nghiên cứu về tiểu thuyết Lê Lựu.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu về Không gian hậu chiến trong tiểu thuyết của Lê Lựu qua
Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội và Hai nhà chúng tôi đặt ra một số mục tiêu
sau:
- Thứ nhất, khái lƣợc về vấn đề lí thuyết không gian trong tác phẩm văn học.
- Thứ hai, chỉ ra đặc điểm của không gian hậu chiến trong tiểu thuyết Lê Lựu
- Thứ ba, làm rõ nghệ thuật kiến tạo không gian hậu chiến trong tiểu thuyết
của Lê Lựu.
- Thứ tƣ, khẳng định những đóng góp của Lê Lựu cho văn học Việt Nam sau
đổi mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài của chúng tôi xác định đối tƣợng nghiên cứu là không gian hậu
chiến với những yếu tố cấu thành và nghệ thuật xây dựng không gian hậu
chiến trong tiểu thuyết của Lê Lựu.
Chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của luận văn là những tiểu thuyết có
vị trí quan trọng trong sự nghiệp văn học của Lê Lựu và ở những thập niên
khác nhau:
- Thời xa vắng, Nhà xuấn bản Văn học, 1986.
- Chuyện làng Cuội, Nhà xuất bản Văn học, 1993.
- Hai nhà, Nhà xuất bản Văn học, 2000.
10
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ đặt ba tiểu thuyết này trong
toàn bộ hệ thống tác phẩm của nhà văn để thấy đƣợc đặc sắc của không gian
hậu chiến và nghệ thuật kiến tạo không gian hậu chiến của mỗi tác phẩm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi chủ yếu sử dụng kết hợp các phƣơng
pháp sau:
+ Thi pháp học và Tự sự học: Kết hợp thi pháp học và tự sự học để phân định
các không gian thành thị, nông thôn, tâm tƣởng từ đó khai thác, rút ra những
đặc trƣng của từng loại không gian.
+ Phƣơng pháp lịch sử: Trên quan điểm lịch sử cụ thể, luận văn xem xét các
vấn đề không gian trong tiểu thuyết của Lê Lựu trong tính lịch đại, đặt nó
trong thời điểm ra đời…
+ Phƣơng pháp nghiên cứu loại hình: Giúp khái quát các loại hình không gian
trong tiểu thuyết của Lê Lựu.
+ Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Sử dụng tri thức khoa học liên ngành
văn học, văn hóa, tâm lý, triết học…để tiếp cận toàn diện các vấn đề không
gian, cố gắng tránh sự hạn chế, phiến diện.
Ngoài các phƣơng pháp trên chúng tôi còn sử dụng kết hợp các thao tác thống
kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, bình luận....
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn bao gồm ba phần lớn: phần mở đầu, phần kết luận và phần
nội dung.
Phần nội dung có cấu trúc 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng I: Một số vấn đề về không gian trong tác phẩm văn học
Chƣơng II: Một số loại hình không gian hậu chiến trong tiểu thuyết của Lê
Lựu
11
Chƣơng III: Nghệ thuật xây dựng không gian hậu chiến trong tiểu thuyết của
Lê Lựu.
NỘI DUNG
CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KHÔNG GIAN TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC
Nghiên cứu về không gian trong các tiểu thuyết của Lê Lựu tất yếu phải
giải quyết các vấn đề lý thuyết về không gian. Trong chƣơng này, chúng tôi
làm rõ một số vấn đề làm cơ sở lý thuyết nhƣ khái niệm không gian trong tác
phẩm văn học, đặc điểm của không gian trong tác phẩm văn học, một số loại
hình không gian trong tác phẩm văn học.
1.1. Khái niệm không gian trong tác phẩm văn học
Không gian trong tác phẩm văn học thuộc về thế giới nghệ thuật trong
tác phẩm văn học bởi vậy nó là sản phẩm của chủ thể sáng tạo. Theo Trần
Đình Sử trong Tự sự học lý thuyết và ứng dụng, thì “không gian tự sự là một
phạm trù mô hình hóa thế giới của con ngƣời, mà con ngƣời sống trong đó
(Ju. Lotman)...Không gian là một phạm trù thể hiện bản chất cấu trúc, văn hóa
và kí hiệu của tự sự. Nó là yếu tố nội tại của tự sự. Bất cứ tự sự nào cũng có
sự kiện, nhân vật, không gian là điều kiện tất yếu để nhân vật tồn tại và sự
kiện diễn ra” [70, 178-179]. Theo đó, không gian nghệ thuật thể hiện quan
niệm, mức độ nhận thức của tác giả về bức tranh thế giới. Từ những quan
niệm này, thông qua tƣ duy nghệt thuật, tác giả tạo ra một “hiện tƣợng nghệ
thuật” có bản chất cấu trúc, văn hóa và kí hiệu. Không gian thuộc về nội thể
của tác phẩm tự sự và tạo thành môi trƣờng cho sự tồn tại của nhân vật. Có
thể nói, mọi nhân vật trong tự sự đều đƣợc định vị bởi những tọa độ trong
không gian tự sự.
12
1.1.1. Vai trò định vị của không gian trong tác phẩm
Không gian thuộc về thế giới nghệ thuật trong tác phẩm và là yếu tố
không thể thiếu của thế giới ấy bởi vai trò định vị nhân vật của nó. Không có
nhân vật nào tồn tại và hoạt động bên ngoài không gian. Trần Đình Sử cũng
đã khẳng định điều này trong Tuyển nghiên cứu văn học nhƣ sau “không gian
là hình thức tồn tại của hình tƣợng” [69, 529]. Ở đây, chúng tôi khẳng định vị
trí quan trọng của không gian qua vai trò định vị nhân vật của nó.
Trong Chí Phèo, nhà văn Nam Cao mỗi lần miêu tả sự xuất hiện của
Chí đều đặt hắn vào trong không gian. Chí về làng hôm trƣớc thì hôm sau đã
ngồi uống rƣợu ở chợ từ trƣa đến chiều “Hắn về hôm trƣớc, hôm sau đã thấy
ngồi ở chợ uống rƣợu với thịt chó suốt từ trƣa đến xế chiều” [7, 33]. Lúc này,
chợ là không gian định vị sự tồn tại của Chí. Trong không gian đó, nhân vật
không đứng yên mà có hoạt động và đồng thời đƣợc định vị trong thời gian từ
trƣa đến xế chiều. Nhƣ vậy, Chí đƣợc tạo dựng bởi không gian, thời gian và
bản thân hoạt động của nhân vật. Ngay sau không gian “chợ”, Chí tiếp tục
xuất hiện trong một không gian khác “Rồi say khƣớt, hắn xách một cái vỏ
chai đến cổng nhà Bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi” [7, 34]. Hoạt động của
Chí, uống rƣợu say rồi tìm đến nhà Bá Kiến để chửi diễn ra trong không gian
tổng thể làng Vũ Đại. Miêu tả hoạt động của Chí đồng thời là miêu tả những
không gian định vị Chí trong làng Vũ Đại nhƣ chợ, cổng nhà Bá Kiến và sau
này là trên đƣờng làng đầy ánh trăng. Khi uống rƣợu từ nhà Tự Lãng về, Chí
lảo đảo đi trên đƣờng trăng “Nhƣng mà mặt trăng lên, mặt trăng rằm vành
vạnh. Và ánh trăng chảy trên đƣờng trắng tinh. Ồ, cái gì đây, đen và méo mó
trên đƣờng trăng nhễ nhại?” [7, 47]. Không gian và thời gian quanh Chí lúc
này có sự thay đổi. Hắn không còn ở chợ hay ở cổng nhà Bá Kiến mà ở trên
đƣờng làng vừa quen thuộc vừa lạ lẫm dƣới ánh trăng. Trăng không phải chỉ
là một biểu tƣợng thẩm mĩ mà còn là tín hiệu của thời gian. Trăng rằm và
13
sáng cho thấy lúc này đêm đã về sâu. Nhƣ vậy, dù Chí đi đâu, làm gì cũng
không ra ngoài không gian và thời gian.
Tƣơng tự nhƣ ở Chí Phèo (Nam Cao), nhân vật trong Cơn giông
(Nguyễn Minh Châu) cũng đƣợc định vị trong không gian. Mở đầu truyện
ngắn là không gian rộng lớn từ Bắc vào Nam theo sự trải dài của đƣờng tàu
“con đƣờng tầu Thống Nhất từ ngoài phía Bắc vào mới vƣơn tới cái ngôi nhà
ga mới xây, tàu đã lăn bánh thì chủ yếu chở đá, tà vẹt và cũng đã chở hành
khách” [8, 205]. Không gian rộng lớn này giới định hành trình và giới hạn
hoạt động của nhân vật. Xuyên suốt tác phẩm, nhiều không gian khác nhau
đƣợc “mô hình hóa”. Chẳng hạn, những gì đã diễn ra sau trận chiến khốc liệt
“anh dƣớn bụng trƣờn qua hết tảng đất này đến tảng đất khác, hết búi gai xấu
hổ này đến búi gai xấu hổ khác. Thế mà anh cũng đã vƣợt qua hết hai đám
ruộng. Anh đã bò sang đám ruộng thứ ba. Anh đã vƣợt xa đƣợc chỗ đám
ngƣời đứng ba trăm thƣớc. Rồi năm trăm thƣớc. Anh đã bò sang đƣợc bên kia
con đƣờng tàu hỏa” [8, 228]. Ý chí sống và lòng quyết tâm không đầu hàng
đã khiến ngƣời lính bị thƣơng có một nỗ lực phi thƣờng. Anh bò qua những
thửa ruộng “bỏ hoang từ bao đời” với “những hòn đất thịt không vỡ ra mà trải
qua mƣa nắng đã rắn lại nhƣ đất nung, ở giữa kẽ những hòn đất, gai xấu hổ
mọc chìa lên tua tủa lẫn với những nụ hoa bằng chiếc cúc áo” [8, 228]. Không
gian những thửa ruộng và không gian đƣờng tàu với tính ranh giới của nó đã
định vị nhân vật, làm nền cho sự xuất hiện của ngƣời lính.
Bên cạnh vai trò định vị nhân vật, để nhân vật bộc lộ ý nghĩa thì đến
lƣợt mình, không gian cũng bộc lộ ý nghĩa tự thân. Chẳng hạn không gian căn
buồng ngột ngạt và tù túng cũng chính là tâm tƣởng đầy ức chế, gò bó của
Raxcolnicov (Tội ác và hình phạt); không gian căn buồng với ô cửa sổ nhỏ
bằng bàn tay trông ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sƣơng
hay là nắng ở căn buồng của Mị (Vợ chồng A Phủ) biểu tƣợng cho cuộc sống
14
ngục tù của Mị thƣờng ngày và cũng là sự trói buộc thần quyền của nhà thống
lí Pá Tra với cô….
Không gian dù bản thân nó có thể mang ý nghĩa biểu tƣợng nhƣng điều
quan trọng nhất đối với không gian trong tác phẩm văn học là kiến tạo nhân
vật. Không gian cung cấp cho nhân vật môi trƣờng hoạt động và từ đó tạo
nghĩa.
1.1.2. Hình thức không gian của tác phẩm văn học
Xuất phát từ chất liệu ngôn từ, văn học đƣợc xem là nghệ thuật thời
gian. Hình tƣợng trong văn học không hiện lên đầy đủ trong một thời điểm
mà chỉ hoàn thiện sau khi câu chuyện hoàn tất thời gian của nó. Với tƣ cách là
một nghệ thuật thời gian, văn học đƣợc phân biệt với nghệ thuật không gian
nhƣ điêu khắc…. Quan niệm văn học là nghệ thuật thời gian khiến trong suốt
thế kỷ XVIII, XIX ngƣời ta chú ý nhiều đến cốt truyện, diễn biến các sự kiện,
các dấu mốc trong cuộc đời nhân vật… Thế kỷ XX, Thuyết tương đối của
Einstein đã mang lại cảm hứng cho toàn nhân loại và đƣơng nhiên trong đó có
các nhà văn. Họ chú ý nhiều hơn đến không gian khi tạo dựng những không
gian khi rộng lớn mênh mông đƣợm tính sử thi, khi chật hẹp dồn nén, khi
triền miên tâm tƣởng… Hàng loạt tác phẩm có thể minh chứng cho chú ý về
không gian trong văn học nhƣ Đi tìm thời gian đã mất (Proust), Âm thanh và
cuồng nộ (William Faulker)…
Theo hƣớng xác nhận vai trò của không gian trong tác phẩm văn học
dẫn đến việc đặt ra vấn đề về hình thức không gian. Về phạm trù này có thể
kể đến công trình The idea of spatial form của Joseph Frank. Trần Đình Sử đã
khẳng định vai trò của J.Frank cùng với lý thuyết về hình thức không gian
trong Tự sự học – lý thuyết và ứng dụng nhƣ sau: “thuật ngữ do J.Frank nêu ra
trong công trình Hình thức không gian trong văn học hiện đại (1945), dùng
chỉ đặc trƣng của hình thức trong tiểu thuyết hiện đại”. Cũng theo Trần Đình
- Xem thêm -