.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------------------------
NGUYỄN HOÀNG ANH THƯ
KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG THUỐC
KHÁNG ĐÔNG ĐƯỜNG UỐNG Ở
BỆNH NHÂN RUNG NHĨ TẠI
BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ DƯỢC HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2018
.
.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------------
NGUYỄN HOÀNG ANH THƯ
KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG THUỐC
KHÁNG ĐÔNG ĐƯỜNG UỐNG Ở
BỆNH NHÂN RUNG NHĨ TẠI BỆNH VIỆN
ĐA KHOA TỈNH ĐẮK LẮK
NGÀNH: Dược lý và Dược lâm sàng
MÃ SỐ: 8720205
LUẬN VĂN THẠC SĨ DƯỢC HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN MẠNH HÙNG
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2018
.
.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Những số liệu, kết quả ghi trong luận án là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Hoàng Anh Thư
.
.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
Trang
MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
1.1. Một số vấn đề về rung nhĩ
3
1.1.1. Dịch tễ học và tầm quan trọng của rung nhĩ
3
1.1.2. Chẩn đoán
3
1.1.3. Phân loại rung nhĩ
4
1.1.4. Điều trị
4
1.2. Một số nghiên cứu liên quan đến việc sử dụng thuốc kháng đông ở
bệnh nhân rung nhĩ
8
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
16
2.1. Đối tượng nghiên cứu
16
2.1.1. Dân số nghiên cứu
16
2.1.2. Tiêu chuẩn chọn mẫu
16
2.2. Phương pháp nghiên cứu
16
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
16
2.2.2. Phương pháp chọn mẫu
17
2.2.3. Các biến số trong nghiên cứu
17
2.2.4. Phương pháp thu thập số liệu
20
2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu
20
2.3. Cách khắc phục sai số trong nghiên cứu
21
2.4. Đạo đức trong nghiên cứu
21
.
.
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
23
3.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
23
3.1.1. Các yếu tố về dân số học
23
3.1.2. Một số yếu tố về tiền sử bệnh trên lâm sàng
24
3.1.3. Một số yếu tố nguy cơ tim mạch
25
3.1.4. Một số đặc điểm liên quan đến vấn đề sử dụng thuốc kháng đông ở
bệnh nhân rung nhĩ
26
3.2. Tỷ lệ bệnh nhân rung nhĩ không được dùng thuốc kháng đông
đường uống đúng theo hướng dẫn của Hội Tim mạch Việt Nam 2016 và
một số yếu tố liên quan
28
3.2.1. Tỷ lệ bệnh nhân rung nhĩ không được dùng thuốc kháng đông đường
uống đúng theo hướng dẫn của Hội Tim mạch Việt Nam 2016
28
3.2.2. Kết quả phân tích đơn biến về sự ảnh hưởng của một số yếu tố liên quan
đến việc dùng thuốc kháng đông đường uống theo đúng khuyến cáo
29
3.2.3. Kết quả phân tích đa biến về sự ảnh hưởng của một số yếu tố liên quan
đến việc sử dụng thuốc kháng đông theo đúng khuyến cáo
34
3.3. Sự tuân thủ của bệnh nhân đối với việc dùng thuốc kháng đông
đường uống trong tháng đầu từ khi ra viện và một số yếu tố liên quan
35
3.3.1. Tỷ lệ tuân thủ của bệnh nhân đối với việc dùng thuốc kháng đông đường
uống trong tháng đầu tiên kể từ khi ra viện
35
3.3.2. Kết quả phân tích đơn biến về sự ảnh hưởng của một số yếu tố liên quan
đến việc tuân thủ điều trị thuốc kháng đông đường uống sau một tháng kể
từ khi ra viện
35
3.3.3. Kết quả phân tích đa biến về sự ảnh hưởng của một số yếu tố liên quan
đến việc tuân thủ điều trị thuốc kháng đông đường uống trong tháng đầu
tiên sau khi ra viện
.
40
.
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN
42
4.1. Một số đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
42
4.1.1. Phân nhóm nguyên nhân rung nhĩ
42
4.1.2. Phân nhóm nguy cơ bị lấp mạch toàn thân, bao gồm cả đột quỵ ở bệnh
nhân rung nhĩ
4.1.3. Phân nhóm bệnh nhân theo giá trị INR khi nằm viện
42
43
4.2. Một số loại thuốc kháng đông đường uống được chỉ định sử dụng cho
bệnh nhân rung nhĩ
44
4.3. Tỷ lệ dùng thuốc kháng đông đường uống ở bệnh nhân rung nhĩ có
bệnh van tim đi kèm
45
4.4. Tỷ lệ bệnh nhân rung nhĩ không được dùng thuốc dự phòng lấp mạch
đường uống đúng theo hướng dẫn của Hội Tim mạch Việt Nam và một số
46
yếu tố liên quan
4.4.1. Tỷ lệ bệnh nhân rung nhĩ không được dùng thuốc dự phòng lấp mạch
đường uống đúng theo hướng dẫn của Hội Tim mạch Việt Nam
4.4.2. Một số yếu tố liên quan đến việc chỉ định dùng thuốc kháng đông
46
47
4.5. Sự tuân thủ dùng thuốc kháng đông đường uống ở bệnh nhân rung
nhĩ và một số yếu tố liên quan
48
4.5.1. Tỷ lệ về sự không tuân thủ dùng thuốc kháng đông đường uống ở bệnh
nhân rung nhĩ
48
4.5.2. Một số yếu tố liên quan với sự không tuân thủ dùng thuốc kháng đông
đường uống ở bệnh nhân rung nhĩ
49
KẾT LUẬN
52
KIẾN NGHỊ
53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
PHỤ LỤC 3
PHỤ LỤC 4
.
.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BN
:
Bệnh nhân
CHADS2
:
C (Congestive heart failure): Suy tim/phân suất tống máu ≤ 40%
H (Hypertension): Tăng huyết áp
A2 (Age): Tuổi ≥ 75
D (Diabetes): Đái tháo đường
S2 (Stroke): Đột quỵ não/cơn thiếu máu não thoáng qua
CHA2DS2-VASc :
C (Congestive heart failure): Suy tim/phân suất tống máu ≤ 40%
H (Hypertension): Tăng huyết áp
A2 (Age): Tuổi ≥ 75
D (Diabetes): Đái tháo đường
S2 (Stroke): Đột quỵ não/cơn thiếu máu não thoáng qua
V (Vascular) Bệnh mạch máu (mạch vành, mạch máu ngoại biên,
mảng xơ vữa động mạch chủ)
A (Age) Tuổi 65 – 74
Sc (Sex category) giới tính nữ
HR
:
Hazard ratio: tỷ số nguy cơ
INR
:
International nornalised Ratio (chỉ số bình thường hóa quốc tế)
KĐ
:
Kháng đông
KTC 95%
:
Khoảng tin cậy 95%
OR
:
Odd ratio: tỷ suất chênh
TIA
:
Transient ischemic attack – Cơn thiếu máu não thoáng qua
.
.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Phân tầng nguy cơ đột quỵ não theo thang điểm CHA2DS2VASc
Bảng 1.2. Chỉ định kháng đông dựa trên sự phân tầng nguy cơ đột quỵ
não theo thang điểm CHA2DS2-VASc
Bảng 1.3. Tỷ lệ bệnh nhân rung nhĩ không dùng thuốc kháng đông đúng
theo hướng dẫn của các khuyến cáo qua một số nghiên cứu khác
Bảng 3.1. Một số yếu tố về dân số học
Bảng 3.2. Một số yếu tố về tiền sử bệnh trên lâm sàng
Bảng 3.3. Một số yếu tố nguy cơ tim mạch
Bảng 3.4. Phân bố nhóm nguy cơ đột quỵ theo thang điểm CHA2DS2VASc
Bảng 3.5. Phân bố bệnh nhân theo giá trị xét nghiệm INR
Bảng 3.6. Một số loại thuốc kháng đông được dùng ở bệnh nhân trong
mẫu nghiên cứu
Bảng 3.7. Một số tỷ lệ liên quan đến dùng thuốc chống huyết khối đúng
ở bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu
Bảng 3.8. Mối liên quan giữa việc dùng kháng đông đường uống đúng theo
khuyến cáo với nhóm tuổi
Bảng 3.9. Mối liên quan giữa việc dùng kháng đông đường uống đúng
theo khuyến cáo và giới tính
Bảng 3.10. Mối liên quan giữa việc dùng kháng đông đường uống đúng
theo khuyến cáo với dân tộc
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa việc dùng kháng đông đường uống đúng
theo khuyến cáo với trình độ học vấn
Bảng 3.12. Mối liên quan giữa việc dùng kháng đông đường uống đúng
theo khuyến cáo với tình trạng hôn nhân
Bảng 3.13. Mối liên quan giữa việc dùng kháng đông đường uống theo
đúng khuyến cáo với tiền sử đột quỵ/ TIA
Bảng 3.14. Mối liên quan giữa việc dùng kháng đông đường uống theo
đúng khuyến cáo với tiền sử nhồi máu cơ tim
Bảng 3.15. Mối liên quan giữa việc dùng kháng đông đường uống theo
đúng khuyến cáo với tiền sử chảy máu
Bảng 3.16. Mối liên quan giữa việc dùng kháng đông đường uống theo
đúng khuyến cáo với nghiện rượu
Bảng 3.17. Mối liên quan giữa việc dùng kháng đông đường uống theo
đúng khuyến cáo với số bệnh đi kèm
Bảng 3.18. Kết quả phân tích đa biến về các yếu tố liên quan đến việc sử
dụng thuốc kháng đông theo đúng khuyến cáo
Bảng 3.19. Tỷ lệ tuân thủ của bệnh nhân đối với việc dùng thuốc kháng
đông đường uống trong tháng đầu tiên kể từ khi ra viện
.
5
6
15
23
24
25
26
27
27
28
29
29
30
30
31
31
32
32
33
33
34
35
.
Bảng 3.20. Mối liên quan giữa sự tuân thủ và tuổi
Bảng 3.21. Mối liên quan giữa sự tuân thủ và giới tính
Bảng 3.22. Mối liên quan giữa sự tuân thủ và dân tộc
Bảng 3.23. Mối liên quan giữa sự tuân thủ và trình độ học vấn
Bảng 3.24. Mối liên quan giữa sự tuân thủ và tình trạng hôn nhân
Bảng 3.25. Mối liên quan tuân thủ và tiền sử đột quỵ/ TIA
Bảng 3.26. Mối liên quan tuân thủ và tiền sử nhồi máu cơ tim
Bảng 3.27. Mối liên quan tuân thủ và tiền sử chảy máu
Bảng 3.28. Mối liên quan tuân thủ và nghiện rượu
Bảng 3.29. Mối liên quan tuân thủ và việc hút thuốc lá
Bảng 3.30. Mối liên quan tuân thủ và số loại thuốc trong toa ra viện
Bảng 3.31. Kết quả phân tích đa biến về sự ảnh hưởng của một số yếu tố
liên quan đến việc tuân thủ điều trị thuốc kháng đông đường uống
trong tháng đầu tiên sau khi ra viện
.
35
36
36
37
37
38
38
38
39
39
40
40
.
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1. Phân bố nhóm nguyên nhân gây rung nhĩ
.
26
.
MỞ ĐẦU
Rung nhĩ là một trong những rối loạn nhịp tim thường gặp nhất [18], [48]. Người mắc
rung nhĩ có nguy cơ bị đột quỵ não rất cao, gấp hơn 5 lần so với người bình thường
[18]. Trong khi đó, cho đến nay, mặc dù đã có nhiều tiến bộ vượt bậc trong chẩn đoán
và điều trị, song đột quỵ não với hơn 80% là nhồi máu não vẫn là nguyên nhân đứng
hàng thứ 2 gây tử vong trên toàn thế giới. Ở Hoa Kỳ, mỗi 40 giây có một người đột
quỵ não và mỗi 4 phút có một người tử vong. Chính vì vậy, việc dự phòng ngừa nhồi
máu não có ý nghĩa lớn trong thực hành lâm sàng.
Theo các khuyến cáo hiện nay, kháng đông đường uống là biện pháp hàng đầu trong
phòng ngừa biến chứng lấp mạch ở bệnh nhân rung nhĩ [9], [18]. Đặc biệt, trong
khoảng thời gian gần đây, sự ra đời của nhiều loại kháng đông mới đã mở ra một kỷ
nguyên mới trong điều trị rung nhĩ và được rất nhiều bác sĩ lâm sàng quan tâm [48].
Theo y văn, các loại thuốc quan trọng này ngày càng được sử dụng phổ biến hơn [18],
[48], [50].
Mặc dù vậy, thực tế cho thấy tỷ lệ bệnh nhân rung nhĩ được dùng kháng đông đúng
theo khuyến cáo còn ở mức thấp [31], [42]. Ví dụ, theo Kim và cộng sự, có đến 77,8%
bệnh nhân rung nhĩ không được dùng kháng đông đúng theo các khuyến cáo trước khi
biến cố đột quỵ não xảy ra [31]. Một nghiên cứu cắt ngang ở những bệnh nhân rung
nhĩ nhập vào một số bệnh viện ở Trung Quốc năm 2013 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có
nguy cơ đột quỵ não cao (điểm số CHADS2 ≥ 2) lên tới 80,7%. Nguy hiểm hơn khi tỷ
lệ có dùng thuốc kháng đông đường uống ở nhóm bệnh nhân này ở mức rất thấp, chỉ là
11,5% [72]. Hơn nữa, sự tuân thủ điều trị khi dùng kháng đông của bệnh nhân cũng
đã được một số nghiên cứu đề cập đến với nhiều điểm nhấn đáng phải hết sức chú ý
[52]. Theo nhiều tác giả, việc sử dụng kháng đông không đầy đủ là một yếu tố phổ
biến góp phần làm gia tăng nguy cơ nhồi máu não hoặc cơn thiếu máu não thoáng qua
ở bệnh nhân rung nhĩ, làm tăng tỷ lệ tử vong và giảm chất lượng cuộc sống của những
bệnh nhân rung nhĩ [34], [42], [51].
Bên cạnh đó, một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng kháng đông không đúng theo
các khuyến cáo cũng đã nêu ra trong một số nghiên cứu. Theo Kew và cs, những lý do
phổ biến nhất về việc không dùng kháng đông đường uống cho bệnh nhân rung nhĩ tại
một đơn vị tim mạch ở Singapore (2015) là tiền sử chảy máu, bệnh nhân không muốn
.
.
uống thuốc và một số nguyên nhân khác [30]. Tương tự, Palomaki và cs cũng đã nhấn
mạnh rằng, tiền sử chảy máu, ý muốn của bệnh nhân và nghiện rượu là những yếu tố
liên quan với việc dùng thuốc kháng đông không đầy đủ [42].
Tại Việt Nam, rung nhĩ là một vấn đề thời sự và cũng được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu. Một nghiên cứu tại bệnh viện Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh chỉ ra
rằng chỉ có 19,2% bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim có nguy cơ cao bị đột
quỵ não (CHADS2 ≥ 2) được sử dụng kháng đông đường uống [4]. Riêng ở khu vực
Tây Nguyên, Đắk Lắk là một tỉnh miền núi, có khí hậu đặc thù và nhiều dân tộc khác
nhau cùng sinh sống. Tuy nhiên, cho đến nay, số lượng nghiên cứu khảo sát việc sử
dụng kháng đông ở bệnh nhân rung nhĩ tại vùng Tây Nguyên còn rất hạn chế. Dựa trên
cơ sở đó, chúng tôi cho rằng việc tiến hành nghiên cứu đề tài “Khảo sát việc sử dụng
thuốc kháng đông đường uống ở bệnh nhân rung nhĩ tại Bệnh viện đa khoa tỉnh
Đắk Lắk” là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn, góp phần cung cấp thêm những thông
tin hữu ích về tình hình điều trị dự phòng thuyên tắc mạch ở bệnh nhân rung nhĩ tại
tỉnh nhà.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Khảo sát các thuốc chống đông đường uống được chỉ định cho bệnh nhân rung
nhĩ.
2. Xác định tỷ lệ bệnh nhân rung nhĩ không được dùng thuốc kháng đông
đường uống đúng theo hướng dẫn của Hội Tim mạch Việt Nam 2016 và một số yếu
tố liên quan.
3. Đánh giá sự tuân thủ của bệnh nhân đối với việc sử dụng thuốc trong tháng
đầu tiên kể từ khi ra viện và một số yếu tố liên quan.
.
.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số vấn đề về rung nhĩ
1.1.1. Dịch tễ học và tầm quan trọng của rung nhĩ
Rung nhĩ là một trong những rối loạn nhịp tim thường gặp nhất trong cộng đồng và
thường gây ra những biến chứng nặng nề làm bệnh nhân có thể tử vong hoặc tàn tật suốt
đời [6]. Điểm đáng chú ý là một trong những biến chứng nghiêm trọng của rung nhĩ là
đột quỵ não. Theo y văn, rung nhĩ làm tăng nguy cơ tương đối đột quỵ lên hơn 5 lần,
gây ra khoảng 5% các trường hợp đột quỵ mỗi năm và làm tăng nguy cơ tử vong lên từ
1,9 đến 2,5 lần [29]. Mặc dù rung nhĩ có nhiều thể lâm sàng khác nhau, bao gồm rung
nhĩ cơn, rung nhĩ kéo dài, rung nhĩ vĩnh viễn nhưng nguy cơ đột quỵ não giữa các thể
bệnh này không có sự khác biệt đáng kể [20]. Hơn nữa, bệnh nhân suy tim có kèm theo
rung nhĩ có tỷ lệ tử vong tăng hơn đến 34%. Tỷ lệ rung nhĩ tăng dần theo tuổi, trung
bình tỷ lệ mới mắc rung nhĩ khoảng 0,1% mỗi năm ở người dưới 40 tuổi nhưng tăng lên
tới 1,5 - 2% ở người trên 80 tuổi [6]. Ở Việt Nam, tỷ lệ BN mắc các bệnh lý tim mạch
đang ngày càng gia tăng rõ rệt, nhiều trường hợp bệnh nhân có kèm theo rung nhĩ đã
gây những khó khăn trong chẩn đoán và điều trị. Việc chẩn đoán và chiến lược điều trị
rung nhĩ cần phải được thống nhất để giảm thiểu tối đa biến chứng của rung nhĩ, đem lại
cuộc sống với chất lượng tốt hơn cho BN [1], [2].
1.1.2. Chẩn đoán
Dựa vào điện tâm đồ thường quy 12 chuyển đạo [1], [2], [48]:
- Sóng P biến mất và được thay thế bởi những sóng f lăn tăn. Các sóng f này làm
cho đường đẳng điện thành một đường sóng lăn tăn.
- Sóng f có đặc điểm:
+ Tần số không đều từ 300 - 600 chu kỳ/phút.
+ Các sóng f rất khác nhau về hình dạng, biên độ, thời gian.
+ Thấy rõ sóng f ở các chuyển đạo trước tim phải (V1, V3R) và các chuyển đạo
dưới (D2, D3, aVF), còn các chuyển đạo trước tim trái (D1, aVL, V5, V6) thường khó
thấy.
.
.
+ Nhịp thất rất không đều về tần số (các khoảng RR dài ngắn khác nhau), và rất
không đều về biên độ (biên độ sóng R thay đổi cao thấp khác nhau) không theo quy
luật nào cả. Đó là hình ảnh loạn nhịp hoàn toàn.
+ Tần số thất nhanh hay chậm phụ thuộc vào dẫn truyền của nút nhĩ thất.
+ Hình dạng QRS nói chung thường hẹp, nhưng trên cùng một chuyển đạo có thể
có khác nhau chút ít về biên độ, thời gian,...
+ Phân biệt rung nhĩ với cuồng nhĩ điển hình, tần số sóng f từ 240 đến 320 chu
kỳ/phút. Ngoài ra, còn cần phân biệt với nhịp nhanh nhĩ đa ổ luôn có sóng P' đi trước
QRS.
1.1.3. Phân loại rung nhĩ
Dựa vào tiến triển, rung nhĩ chia các thể lâm sàng [1], [2], [48]:
- Cơn rung nhĩ kịch phát: rung nhĩ kéo dài ≤ 7 ngày và tự chuyển về nhịp xoang.
- Rung nhĩ bền bỉ: rung nhĩ kéo dài > 7 ngày, phải dùng các biện pháp chuyển
nhịp can thiệp mới có thể cắt được rung nhĩ.
- Rung nhĩ mạn tính: kéo dài hơn 1 năm và không thể cố gắng chuyển nhịp được
bằng các biện pháp can thiệp.
1.1.4. Điều trị
1.1.4.1. Nguyên tắc điều trị
Kiểm soát tần số thất, chuyển rung nhĩ về nhịp xoang và dự phòng huyết khối. Trong
phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung vào phần dự phòng huyết khối bằng thuốc
kháng đông [1], [2], [48]:
* Rung nhĩ do bệnh van tim
Đối với rung nhĩ trên bệnh nhân có bệnh van tim bao gồm: sử dụng van tim nhân tạo,
phẫu thuật sửa van, hẹp van hai lá mức độ vừa đến nặng bắt buộc phải dự phòng
huyết khối bằng thuốc kháng vitamin K với INR cần đạt là 2.0 - 3.0.
* Rung nhĩ không do bệnh van tim
Đối với bệnh nhân rung nhĩ không có bệnh van tim, chiến lược dự phòng khuyết khối
dựa trên các hệ thống phân tầng nguy cơ đột quỵ não. Dựa trên các nghiên cứu gộp số
lượng lớn, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các thang điểm đánh giá nguy cơ đột quỵ não
do huyết khối ở các bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim bao gồm: CHADS2 và
.
.
CHA2DS2-VASc. Trong đó, thang điểm CHA2DS2-VASc có giá trị cao hơn trong việc
phân tầng nguy cơ đột quỵ não [35].
Bảng 1.1. Phân tầng nguy cơ đột quỵ não theo thang điểm CHA2DS2-VASc
Điểm
CHA2DS2-VASc
C (Congestive heart failure): Suy tim/phân suất tống máu ≤ 40%
1
H (Hypertension): Tăng huyết áp
1
A2 (Age): Tuổi ≥ 75
2
D (Diabetes): Đái tháo đường
1
S2 (Stroke): Đột quỵ não/cơn thiếu máu não thoáng qua
2
V (Vascular) Bệnh mạch máu (mạch vành, mạch máu ngoại biên, mảng xơ 1
vữa động mạch chủ)
A (Age) Tuổi 65 – 74
1
S (Sex) giới tính nữ
1
Tổng điểm
9
+ Nguy cơ thấp: Điểm CHA2DS2 - VASc = 0.
+ Nguy cơ trung bình: Điểm CHA2DS2 - VASc = 1.
+ Nguy cơ cao: Điểm CHA2DS2 - VASc ≥ 2.
Việc chỉ định kháng đông ở BN không có bệnh van tim dựa theo điểm số CHA2DS2 –
VASc [1], [18], [48]:
Bảng 1.2. Chỉ định kháng đông dựa trên sự phân tầng nguy cơ đột quỵ não theo thang
điểm CHA2DS2-VASc
Điểm CHA2DS2-VASc
Điều trị được khuyến cáo
0
Aspirin 81-325mg/không điều trị* (ưu tiên)
1
Aspirin 81-325mg/kháng đông (ưu tiên) (INR: 2 – 3)
≥2
Kháng đông (INR: 2 – 3)
* Nếu BN dưới 60 tuổi và không có bệnh tim thì có thể không dùng thuốc
.
.
Ngoài ra, những khuyến cáo chi tiết khác đã được trình bày rõ trong các khuyến cáo về
điều trị rung nhĩ [1], [18], [48].
1.1.4.2. Một số loại thuốc kháng đông
Có một số loại thuốc kháng đông có thể lựa chọn cho bệnh nhân rung nhĩ. Mục đích sử
dụng các thuốc kháng đông này là tác động vào một hoặc nhiều khâu trong con đường
đông máu để ngăn chặn hình thành các cục máu đông.
* Thuốc kháng vitamin K
Có nhiều loại protein trong quá trình đông máu được tổng hợp nhờ vitamin K. Thuốc
kháng vitamin K (VKAs) sẽ ngăn chặn quá trình tổng hợp các loại protein đông máu
này. Đây là nhóm thuốc có lịch sử lâu đời nhất trong các thuốc kháng đông phòng ngừa
đột quỵ do rung nhĩ, trong đó warfarin (Coumadin) là thuốc kháng vitamin K đầu tiên
được phê duyệt năm 1954.
* Thuốc ức chế trực tiếp thrombin
Thrombin là một enzym trong quá trình hình thành cục máu đông. Bằng cách ức chế
thrombin, con đường đông máu bị ngăn chặn qua đó làm giảm nguy cơ hình thành cục
máu đông. Ví dụ: dabigatran (Pradaxa).
* Thuốc ức chế yếu tố Xa
Yếu tố Xa là một enzym trong quá trình đông máu vì vậy việc ức chế yếu tố Xa sẽ
ngăn chặn con đường đông máu. Ví dụ: rivaroxaban và apixaban.
Lợi ích và nguy cơ của việc sử dụng thuốc kháng đông
Việc sử dụng các thuốc kháng đông đã được chứng minh làm giảm có ý nghĩa nguy cơ
nhồi máu não. Tuy nhiên bên cạnh đó, các bệnh nhân dùng thuốc kháng đông phải đối
mặt với nguy cơ chảy máu tăng lên do các thuốc này ngăn chặn quá trình đông máu và
hình thành cục máu đông. Bên cạnh đó mỗi loại thuốc kháng đông đều có những lợi ích
và nguy cơ khác nhau [2], [26].
* Thuốc kháng Vitamin K
- Ưu điểm: là nhóm thuốc đã được sử dụng lâu dài trên lâm sàng, do vậy phần
lớn các bác sỹ đều có kinh nghiệm trong việc dùng thuốc kháng vitamin K. Trong
trường hợp bệnh nhân cần phẫu thuật cấp cứu (ví dụ: tai nạn giao thông) hoặc phẫu
thuật theo chương trình có thể sử dụng các thuốc đối kháng để đưa quá trình đông máu
.
.
của bệnh nhân về bình thường. Đặc biệt các thuốc kháng vitamin K có lợi thế về mặt
kinh tế với giá thành thấp nhất trong các loại thuốc kháng đông.
- Nhược điểm: thực tế có rất nhiều loại rau xanh chứa nhiều vitamin K. Việc sử
dụng các loại thực phẩm giàu vitamin K sẽ làm giảm hiệu quả của thuốc kháng
vitamin K để phòng ngừa đột quỵ. Ngoài ra, một số thuốc khác cũng có sự tương tác
làm giảm hiệu quả của thuốc kháng vitamin K. Vì vậy, bệnh nhân uống thuốc kháng
vitamin K phải kiểm tra đông máu định kỳ để chắc chắn đã đạt liều tránh quá liều
kháng đông. Giá trị INR cần duy trì trong đoạn: 2.0 - 3.0. Nếu INR nhỏ hơn 2, đồng
nghĩa việc kháng đông chưa đạt đích điều trị, bệnh nhân sẽ có nguy cơ bị đột quỵ não.
Ngược lại nếu INR lớn hơn 3, bệnh nhân sẽ đối mặt với nguy cơ chảy máu.
* Thuốc ức chế trực tiếp thrombin
- Ưu điểm: thuốc ức chế trực tiếp thrombin dễ sử dụng hơn trên lâm sàng, sự
tương tác với các thuốc cũng như chế độ ăn ít hơn nhiều so với thuốc kháng vitamin K,
bệnh nhân dùng thuốc ức chế trực tiếp thrombin không phải đi kiểm tra máu định kỳ.
Ngoài ra, thuốc ức chế trực tiếp thrombin có nguy cơ gây xuất huyết não thấp hơn
thuốc kháng vitamin K.
- Nhược điểm: thuốc ức chế trực tiếp thrombin chỉ có tác dụng phòng ngừa đột
quỵ trong một khoảng thời gian nhất định vì vậy bệnh nhân phải uống thuốc đều,
không được quên hoặc bỏ liều. Mặc dù nguy cơ gây xuất huyết não thấp hơn thuốc
kháng vitamin K nhưng các chế phẩm ức chế trực tiếp thrombin vẫn làm tăng nguy cơ
xuất huyết đường tiêu hóa như xuất huyết dạ dày, ruột.
* Thuốc ức chế yếu tố Xa
- Ưu điểm: thuốc ức chế trực tiếp yếu tố Xa dễ sử dụng hơn thuốc kháng vitamin
K. Tương tự như thuốc ức chế trực tiếp thrombin, thuốc ức chế trực tiếp yếu tố Xa
cũng ít bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn, tương tác thuốc - thuốc và không cần kiểm tra xét
nghiệm máu định kỳ. Ngoài ra, thuốc ức chế yếu tố Xa cũng có nguy cơ gây xuất
huyết não thấp hơn thuốc kháng vitamin K.
- Nhược điểm: vì là nhóm thuốc mới nên kinh nghiệm sử dụng thuốc ức chế yếu
tố Xa còn hạn chế trong các tình huống cấp cứu. Hiện tại các thuốc đối kháng với
thuốc ức chế yếu tố Xa chưa được phê duyệt. Cũng giống như thuốc ức chế trực tiếp
thrombin, thuốc ức chế yếu tố Xa có tác dụng phòng ngừa đột quỵ trong một khoảng
.
.
thời gian nhất định vì vậy bệnh nhân cần tuân thủ điều trị đúng theo sự chỉ định của
bác sĩ, không được quên liều.
1.2. Một số nghiên cứu liên quan đến việc sử dụng thuốc kháng đông ở bệnh nhân
rung nhĩ
Kể từ khi thang điểm CHADS2 ra đời, việc đánh giá nguy cơ đột quỵ não ở bệnh nhân
rung nhĩ được toàn diện hơn và chính xác hơn. Điều đó giúp cho người thầy thuốc có
thể đưa ra những quyết định điều trị thích hợp trong dự phòng đột quỵ não [21]. Cụ
thể, nếu điểm CHADS2 = 0, 1, 2, 3, 4, 5, và 6 thì nguy cơ đột quỵ mỗi năm lần lượt là
1,9%, 2,8%, 4%, 5,9%, 8,5%, 12,5%, và 18,2% [6]. Năm 2010, Hội Tim mạch châu
Âu nhận thấy rằng cần phải bổ sung một số yếu tố làm gia tăng nguy cơ đột quỵ não
trong thang điểm CHADS2. Vậy là thang điểm CHA2DS2-VASc đã ra đời nhằm giúp
đánh giá về nguy cơ đột quỵ não chi tiết hơn đối với bệnh nhân rung nhĩ. Tương tự với
thang điểm CHADS2, tổng điểm CHA2DS2-VASc càng cao thì nguy cơ đột quỵ não
càng lớn [11].
Kết quả từ một phân tích gộp cho thấy thuốc kháng vitamin K làm giảm nguy cơ đột
quỵ đến 65% so với giả dược và làm giảm 38% nguy cơ tương đối đột quỵ so với
aspirin [25]. Tuy nhiên, nhóm thuốc này có nhiều nhược điểm quan trọng như cửa sổ
điều trị hẹp (INR mục tiêu từ 2 đến 3), phải theo dõi INR thường xuyên, ít nhất là 1 lần
mỗi tháng, thuốc có tác dụng chậm, hiệu quả thay đổi theo lượng vitamin K trong thức
ăn, thay đổi theo chức năng gan và tương tác với nhiều loại thuốc, và có một số tác
dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm cả biến chứng chảy máu trong và ngoài sọ [6], [19],
[27].
Điển hình, theo Flaherty và cộng sự năm 2007 tỷ lệ mới mắc hằng năm của chảy máu
trong não do dùng kháng đông trên 100000 dân tăng từ 0,8 vào năm 1988 lên 1,9 vào
năm 1993/1994 và 4,4 vào năm 1999 với p < 0,001. Trong đó, ở những đối tượng ≥ 80
tuổi, tỷ suất chảy máu trong não do nhóm thuốc này còn cao hơn nữa: từ 2,5% vào
năm 1988 tăng lên tới 45,9% vào năm 1999 với giá trị p < 0,001 [19].
Vì vậy, trên thực tế tỷ bệnh nhân rung nhĩ được chỉ định dùng kháng đông còn hạn
chế, thậm chí ngay cả tại các nước phát triển. Ví dụ, trong một nghiên cứu của Go và
cộng sự, năm 1999 chỉ có 55% bệnh nhân rung nhĩ có chỉ định sử dụng kháng đông
nhằm phòng ngừa biến chứng đột quỵ não và con số này giảm xuống còn 35% ở
những bệnh nhân ≥ 85 tuổi [22]. Ngày nay, sự ra đời của các loại kháng đông mới như
.
.
ức chế trực tiếp thrombin (dabigatran) và ức chế yếu tố Xa (apixaban, rivaroxaban) đã
mở ra một trang mới trong điều trị dự phòng thuyên tắc ở bệnh nhân rung nhĩ, đặc biệt
là rung nhĩ không do bệnh van tim bởi những thuốc này cơ bản đã khắc phục được một
số nhược điểm của thuốc kháng vitamin K. Cụ thể, các thuốc này có hiệu quả ít nhất
như thuốc kháng vitamin K, cửa sổ điều trị rộng, ít tác dụng phụ, thuốc uống liều cố
định, không cần phải kiểm tra định kỳ INR, ít tương tác với thuốc và thực phẩm, tác
dụng nhanh, có thuốc đối kháng và giá thành thích hợp với hiệu quả [18], [34].
Nghiên cứu của Kew và cộng sự vào năm 2015 tại một đơn vị tim mạch ở Singapore
cho thấy: Trong 163 bệnh nhân rung nhĩ hoặc cuồng nhĩ, có 54 (33,1%) bệnh nhân dùng
warfarin và có theo dõi trị số INR. Trong đó, chỉ có 22 (40,7%) bệnh nhân đạt được đích
điều trị (INR: 2-3) và có 10 (18,5%) bệnh nhân có INR > 3. Quan trọng hơn, trong số
119 bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ bị đột quỵ não cao (điểm CHADS2 ≥ 2), chỉ có 46
(38,7%) bệnh nhân dùng warfarin lúc ra viện. Trong đó, những lý do phổ biến nhất đối
với việc không dùng kháng đông đúng theo khuyến cáo cho bệnh nhân là tiền sử chảy
máu, ý muốn của bệnh nhân và không rõ nguyên nhân. Sau theo dõi, bệnh nhân được
dùng warfarin có dự hậu sống còn tốt hơn so với nhóm không dùng [30].
Một nghiên cứu cắt ngang tại vùng Tây Nam Trung Quốc khảo sát về tình hình sử dụng
kháng đông trong điều trị bệnh nhân rung nhĩ nhập viện. Trong đó, 4760 bệnh nhân rung
nhĩ nhập viện (từ 21 bệnh viện ở thành phố Chongqing từ tháng 01 đến 12 năm 2013),
có 3785 bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim; tuổi trung bình là: 74,4 ± 10,1;
điểm trung bình CHADS2 cho tất cả các đối tượng là 2,60 ± 1,34 và 80,7% BN có điểm
số CHADS2 ≥ 2 và có đến 88,9% BN có điểm số CHA2DS2-VASc ≥ 2. Trong số những
BN thuộc nhóm có nguy cơ bị đột quỵ cao, chỉ có 11,5% được dùng thuốc kháng đông
(bao gồm cả kháng đông đường uống mới và warfarin), trong đó tỷ lệ này ở bệnh viện
hạng 2 thấp hơn nhiều so với bệnh viện hạng 3 (5,8% so với 16,9%, P < 0,001). Tỷ lệ
dùng kháng đông giảm theo tuổi, trong đó ở nhóm tuổi ≥ 80, tỷ lệ này chỉ đạt 7%. Lý do
chính của việc dùng kháng đông không đầy đủ này là trách nhiệm của bác sĩ. Từ đó, các
tác giả nhấn mạnh rằng cần có ngay những biện pháp hiệu quả nhằm cải thiện thực trạng
đáng báo động này [72].
Theo Rivera-Caravaca và cộng sự năm 2017, việc ngưng dùng thuốc kháng đông có
liên quan độc lập với sự gia tăng nguy cơ bị đột quỵ não, các biến cố tim mạch và tử
vong của bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim. Trong đó, các yếu tố có liên
.
.
quan độc lập với việc ngưng thuốc là tuổi ≥ 80, biến chứng chảy máu, suy tim, ung
thư, suy thận trong quá trình theo dõi [54].
Nghiên cứu của Hess và cộng sự năm 2017 đã chỉ ra rằng trong các bệnh nhân không
dùng kháng đông đường uống, có đến 83,8% thuộc nhóm nguy cơ bị đột quỵ não cao
(điểm CHA2DS2-VASc ≥ 2). Những bệnh nhân không được dùng có dự hậu không tốt
bằng so với nhóm được dùng [26]. Như vậy còn đó một khoảng trống giữa bằng chứng
và thực hành điều trị. Vẫn còn nhiều yếu tố cản trở trong việc điều trị tối ưu bằng
kháng đông ở bệnh nhân rung nhĩ [17].
Theo một số tác giả khác, kháng đông đường uống là hiệu quả và an toàn trong phòng
ngừa đột quỵ não và làm giảm nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân ở bệnh nhân rung
nhĩ [71]. Trong đó, ở những bệnh nhân rung nhĩ có dùng warfarin, có sự khác biệt về sự
kiểm soát giá trị INR giữa các chủng tộc da đen và da trắng [69]. Việc sử dụng kháng
đông không đầy đủ là một yếu tố phổ biến góp phần làm tăng nguy cơ nhồi máu não
hoặc cơn thiếu máu não thoáng qua ở bệnh nhân rung nhĩ. Các yếu tố liên quan là rung
nhĩ kịch phát, tiền sử bị chảy máu, ý muốn của bệnh nhân, và nghiện rượu [42].
Bệnh nhân rung nhĩ có nguy cơ bị đột quỵ cao nên liệu pháp kháng đông được khuyến
cáo dùng cho những BN này. Một nghiên cứu tại bốn bệnh viện lớn ở Anh cho thấy:
rung nhĩ hay gặp ở BN đột quỵ tái phát nhập viện hơn là đột quỵ lần đầu (30,2% so với
17,1%). Trong số 666 BN nhập viện có tiền sử rung nhĩ, có 304 BN được dùng kháng
đông (45,3%), 279 BN không được điều trị (41,9%) và 85 BN (12,8%) được cho là
dùng kháng đông không thích hợp. Mặt khác, trong 453 BN nhập viện vì đột quỵ nhồi
máu não lần đầu, có 37,2% đang dùng kháng đông và 49,6% bệnh nhân không có dùng
kháng đông. Theo các tác giả việc sử dụng kháng đông không thích hợp làm gia tăng
gánh nặng đột quỵ [24].
Tại Anh, một nghiên cứu của Cowan và cs công bố năm 2018 cho thấy số bệnh nhân
rung nhĩ gia tăng sau một thập kỷ (2006-2016) với tỷ lệ hiện mắc tăng từ 1,29% lên
1,71%. Trong khi đó, số BN rung nhĩ có điểm số CHA2DS2-VASc ≥ 2 được dùng
kháng đông tăng từ 48,0% lên 78,6% và số BN được chỉ định dùng chống kết tập tiểu
cầu giảm từ 42,9% xuống còn 16,1%. Sự thay đổi đó thể hiện rõ nhất trong giai đoạn
từ 2011 đến 2016. Sau khi hiệu chỉnh, ứng với mỗi mức tăng dùng thuốc kháng đông
lên 1% thì nguy cơ đột quỵ do rung nhĩ giảm đi 0,8%/tuần. Từ đó, các tác giả đi đến
.
- Xem thêm -