TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA KHOA HỌC TỰ NHIÊN
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
KHẢO SÁT HÀM LƯỢNG ESTROGEN VÀ PROGESTERONE
TRONG PHÂN CỦA CẦY VÒI HƯƠNG
(Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777)
TRONG ĐIỀU KIỆN NUÔI NHỐT
Mã số:
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Nguyễn Thị Thu Hiền
Bình Dương, 12/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA KHOA HỌC TỰ NHIÊN
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
KHẢO SÁT HÀM LƯỢNG ESTROGEN VÀ PROGESTERONE
TRONG PHÂN CỦA CẦY VÒI HƯƠNG
(Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777)
TRONG ĐIỀU KIỆN NUÔI NHỐT
Xác nhận của đơn vị chủ trì đề tài
(chữ ký, họ và tên)
Bình Dương, 12/2018
Chủ nhiệm đề tài
(chữ ký, họ và tên)
i
MỤC LỤC
MỤC LỤC .............................................................................................................................. i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................................iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN ................................................................................................. 4
1.1. Nghiên cứu ngoài nƣớc ........................................................................................................... 4
1.1.1. Nghiên cứu về cầy vòi hƣơng ......................................................................................................... 4
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu xác định chu kì động dục ............................................................ 6
1.1.3. Xác định con đƣờng bài tiết hormone steroid................................................................................. 7
1.1.4. Ly trích steroid ............................................................................................................................... 8
1.2. Nghiên cứu trong nƣớc ......................................................................................................... 10
CHƢƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................................... 15
2.1. Vật liệu.................................................................................................................................. 15
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................................... 16
2.2.1. Thu mẫu và chiết xuất phân.......................................................................................................... 16
2.2.2. Xét nghiệm hormone .................................................................................................................... 17
2.2.3. Phân tích dữ liệu ........................................................................................................................... 18
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ....................................................................... 19
3.1. Kết quả .................................................................................................................................. 19
3.1.1. Sự thay đổi hàm lƣợng Estradiol và Progesterone trong phân cầy vòi hƣơng không mang thai ... 19
3.1.2. Sự thay đổi hàm lƣợng Estradiol và Progesterone trong phân cầy vòi hƣơng mang thai .............. 25
3.1.3. Sự thay đổi hàm lƣợng Estradiol và Progesterone trong phân cầy vòi hƣơng mang thai giả ........ 27
3.2. Thảo luận .............................................................................................................................. 28
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ...................................................................................... 34
ii
Kết luận ................................................................................................................................ 34
Khuyến nghị ......................................................................................................................... 34
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................................... 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 36
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CP:
Corpus leteum
CTAB:
Cetyltrimethyl ammonium bromide
ECG:
Equine chorionic Gonadotropin
ELISA:
Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay
E2:
Estradiol
FSH:
Follicle-Stimulating Hormone
GnRH:
Gonadotropin-Releasing Hormone
HCG:
Human chorionic Gonadotropin
LH:
Luteinizing Hormone
PMSG:
Pregnant Mare's Serum Gonadotropin
P4:
Progesterone
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Bảng 1. 1. Dữ liệu của 12 cá thể cầy đƣợc thu mẫu trong nghiên cứu ............................... 15
Bảng 2. 1. Phạm vi, đỉnh và chu kỳ của P4 và E2 trong thời kỳ không mang thai ở cầy vòi
hƣơng ................................................................................................................................... 19
Bảng 2. 2. Sự thay đổi hàm lƣợng P4 và E2 ở cầy vòi hƣơng sau thụ tinh ......................... 26
Hình 2. 1. Sự thay đổi hàm lƣợng P4 và E2 ở cầy vòi hƣơng không mang thai (F1) ......... 21
Hình 2. 2. Sự thay đổi hàm lƣợng P4 và E2 ở cầy vòi hƣơng không mang thai (F3) ......... 21
Hình 2. 3. Sự thay đổi hàm lƣợng P4 và E2 ở cầy vòi hƣơng không mang thai (F5) ......... 22
Hình 2. 4. Sự thay đổi hàm lƣợng P4 và E2 ở cầy vòi hƣơng không mang thai (F6) ......... 22
Hình 2. 5. Sự thay đổi hàm lƣợng P4 và E2 ở cầy vòi hƣơng không mang thai (F8) ......... 23
Hình 2. 6. Sự thay đổi hàm lƣợng P4 và E2 ở cầy vòi hƣơng không mang thai (F11) ....... 23
Hình 2. 7. Sự thay đổi hàm lƣợng P4 và E2 ở cầy vòi hƣơng mang thai (F2, mang thai vào
6/2017) ................................................................................................................................. 24
Hình 2. 8. Sự thay đổi hàm lƣợng P4 và E2 ở cầy vòi hƣơng mang thai (F4, mang thai vào
4/2017) ................................................................................................................................. 24
Hình 2. 9. Sự thay đổi hàm lƣợng P4 và E2 ở cầy vòi hƣơng mang thai (F7, mang thai 2 lần
vào 4/2017 và 1/2018) ......................................................................................................... 25
Hình 2. 10. Sự thay đổi hàm lƣợng P4 và E2 ở cầy vòi hƣơng mang thai (F9, mang thai vào
2/2017) ................................................................................................................................. 25
Hình 2. 11. Sự thay đổi hàm lƣợng P4 và E2 ở cầy vòi hƣơng mang thai giả (presumed
pseudopregnancy – F10) ...................................................................................................... 27
Hình 2 12. Sự thay đổi hàm lƣợng P4 và E2 ở cầy vòi hƣơng mang thai giả (presumed
pseudopregnancy – F12) ...................................................................................................... 28
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nỗ lực trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong
ống nghiệm hoặc chuyển phôi) phụ thuộc vào kiến thức về sinh lý sinh sản của một
loài nhất định (Schwarzenberger et al., 1996). Đặc biệt, trong thụ tinh nhân tạo, thời
gian chính xác của việc thụ tinh là yếu tố giới hạn chính, sẽ dễ dàng hơn nếu chu kì
động dục có thể đƣợc xác định.
Phân tích hormone steroid của tuyến sinh dục là một yếu tố quan trọng đánh
giá tình trạng sinh lí sinh sản của vật nuôi. Kích dục tố trong huyết thanh là sự phản
ánh chính xác nhất của hoạt động sinh dục, tuy nhiên các kỹ thuật để thu thập thông
tin này qua huyết thanh có thể ảnh hƣởng đến phúc lợi động vật (animal welfare) và
khá tốn kém. Lấy mẫu máu lặp lại nhiều lần gây stress, ảnh hƣởng đến vấn đề sức
khỏe của động vật và khó khăn để thực hiện trong thực tế, nhất là động vật hoang dã.
Thậm chí việc lấy mẫu máu lặp lại để đo các steroid có thể không thực hiện đƣợc ở
các loài động vật có kích thƣớc nhỏ, lấy mẫu gây can thiệp thậm chí dẫn đến các con
vật bị giết chết (Kumar et al., 2013).
Phƣơng pháp không xâm lấn (non-invasive) dễ thực hiện và cho kết quả
chính xác là lựa chọn thay thế tốt hơn. Mặc dù có thể thu thập mẫu nƣớc tiểu và mẫu
phân để đánh giá tình trạng sinh sản ở động vật, nhƣng khó khăn trong việc thu thập
nƣớc tiểu đối với các động vật thả rông đã hạn chế việc sử dụng chúng trong việc
điều tra. Vì vậy, mẫu phân là sự lựa chọn thực tế nhất cho mục đích này. Phƣơng
pháp đo hàm lƣợng các chất chuyển hóa steroid trong phân để đánh giá trạng thái nội
tiết của động vật đã đƣợc đi tiên phong vào cuối những năm 1970 ở chim, đầu những
năm 1980 ở động vật có vú và đã đƣợc nghiên cứu trong các thập kỷ qua với số
lƣợng ngày càng tăng ở nhiều loài (Palme, 2005). Vấn đề thông tin không rõ ràng về
tình trạng sinh sản của động vật cái đã đƣợc giải quyết nhờ phƣơng pháp phân tích
hormone steroid phân để đánh giá các hoạt động nội tiết (Kumar et al., 2013). Đánh
giá estrogen trong phân đã đƣợc sử dụng nhƣ chỉ số đáng tin cậy ở con vật mang thai
ở một số động vật móng guốc (Amer et al., 2007 ; Macchi et al., 2010; Ncube et al.,
2
2011; Monica và et al., 2014) và một số loài linh trƣởng (Shideler et al., 1993a,
Shideler et al., 1993b, Heistermann et al., 1993; Ziegler et al., 1996; Maheshwari,
2010). Chúng cũng đƣợc sử dụng để xác định khoảng thời gian trƣớc khi rụng trứng
ở động vật ăn thịt (Putranto et al., 2006; 2011). Phân tích chất chuyển hóa
progesterone trong phân đã đƣợc sử dụng thành công để theo dõi chức năng thể vàng
và mang thai, hƣ thai, tính chu kì động dục và các liệu pháp điều trị trong một danh
sách mở rộng của nhiều loài.
Ở các loài động vật hoang dã với cấu trúc dân số hạn chế của chúng, xác định
hormone sinh dục không xâm lấn sẽ là một phƣơng pháp hữu dụng đối với các nhà khoa
học trong đánh giá sự thay đổi nội tiết sinh dục, xác định chu kì buồng trứng đồng thời tìm
hiểu và giám sát động thái sinh dục của chúng để cải thiện khả năng sinh sản trong điều
kiện nuôi. Ở Việt Nam, nhiều trang trại nuôi cầy vòi hƣơng đã đƣợc phát triển thành công.
Nuôi cầy hƣơng không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho nông dân mà còn giúp giảm bớt săn
bắt cầy vòi hƣơng (Đặng Huy Huỳnh et al., 2010). Kết quả của việc sử dụng gonadotropin
trong sinh sản cầy vòi hƣơng trong điều kiện nuôi đã mang lại kết quả khả quan (Nguyễn
Thanh Bình, 2015) và góp phần bảo tồn đa dạng sinh học. Tuy nhiên, việc thiếu thông tin
về sự thay đổi hormone sinh dục của cầy vòi hƣơng cái dẫn đến những khó khăn trong
kiểm tra tình trạng sinh sản của chúng trong điều kiện nuôi, cũng nhƣ tra khảo tài liệu
trong nghiên cứu. Do đó, dữ liệu về hormone sinh dục sẽ là cơ sở để đánh giá tình trạng
sinh sản và góp phần vào công nghệ hỗ trợ sinh sản trên cầy vòi hƣơng. Vì vậy, đề tài
“Khảo sát hàm lƣợng Estrogen và Progesrerone trong phân của cầy vòi hƣơng
(Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777) trong điều kiện nuôi nhốt” đƣợc thực hiện.
2. Mụ ti u đề tài
- Xác định sự thay đổi của hàm lƣợng strogen và Progesterone trong phân cầy vòi
hƣơng trong điều kiện nuôi nhốt.
3. Đối tƣợng ph m vi á h tiếp ận nghi n ứu
n n
n
Nội tiết sinh dục: stradiol ( 2), Progesterone (P4) trong phân của Cầy vòi hƣơng
cái trong điều kiện nuôi nhốt.
3.2.
m
n
n
3
- Cầy vòi hƣơng nuôi tại trang trại ở xã Xuân Đƣờng, huyện C m Mỹ, tỉnh Đồng
Nai và cơ sở nuôi tại phƣờng Phú Tân, thành phố Thủ ầu Một, tỉnh ình ƣơng.
- Thời gian t 01 2017-12/2018.
p
nn
n
-Tiếp cận l thuyết: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến cầy vòi hƣơng
(Paradoxurus hermaphroditus) và xác định hormone sinh dục.
-Tiếp cận thực tế: Nghiên cứu trực tiếp trên khách thể cầy vòi hƣơng tại cơ sở chăn
nuôi.
ố ụ đề tài
Mở đầu: 3 trang
Chƣơng 1 – Tổng quan tài liệu: 12 trang
Chƣơng 2 – Vật liệu và phƣơng pháp nghiên cứu: 4 trang
Chƣơng 3 – Kết quả và thảo luận: 15 trang
Kết luận và khuyến nghị: 1 trang
Tài liệu tham khảo
4
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Nghiên cứu ngoài nƣớc
1.1.1. Nghiên c u về cầy ò
ơn
Các đề tài nghiên cứu về Cầy vòi hƣơng trên thế giới chủ yếu công bố các
đặc điểm sinh học của loài này trong điều kiện tự nhiên.
Cầy vòi hƣơng (Paradoxurus hermaphroditus) đã đƣợc nghiên cứu ở Vƣờn
Quốc gia Chitwan Royal- Nepal, để xác định hoạt động hàng ngày và biến đổi dinh
dƣỡng theo mùa liên quan đến thực ph m đến sẵn có. Năm cá thể trƣởng thành (hai
cái và ba đực) đƣợc bắt và gắn với chip để theo dõi. Mỗi con thú đã đƣợc theo dõi
trong 12 tháng liên tiếp cả đêm lẫn ngày. Kết quả nghiên cứu cho thấy loài thú này
hoạt động tích cực hơn vào những đêm tối nhiều hơn ban ngày, vào đêm trăng sáng
và thƣờng nghỉ ngơi trong ngày trên những ngọn cây an toàn. Hạt của các loại trái
cây đã đƣợc tìm thấy trong 84,5% của 193 dạ dày của cầy vòi hƣơng đã đƣợc thu
thập. Vào tháng tƣ, khi quả chín là không có sẵn, một sự thay đổi trong chế độ ăn
uống t trái cây sang động vật có xƣơng sống và không xƣơng sống xảy ra. Cầy vòi
hƣơng cũng đƣợc cho là ăn mật hoa của Gạo và nhựa t
thân của Vallaris
solanacea. Ăn thịt và hoạt động chủ yếu về đêm cho thấy cầy vòi hƣơng hƣơng rất
dễ bị ăn thịt bởi động vật ăn thịt lớn (Joshi et al., 1995).
Cầy vòi hƣơng có khả năng ăn hạt cà phê tuy nhiên không thể tiêu hóa đƣợc
hoàn toàn quả cà phê ăn vào, nó chỉ tiêu hóa đƣợc phần thịt quả cà phê, rồi thải ra
ngoài phần hạt cứng không tiêu hóa đƣợc. Những hạt này có hƣơng rất khác biệt và
hiếm có (Joshi et al., 1995) nên đƣợc chế biến thành một loại cà phê cao cấp và
đƣợc gọi là cà phê chồn.
Ngoài tác giả Joshi (1995), một báo cáo của viện nghiên cứu ở Triều Tiên
vào năm 1997 về thói quen ăn uống của cầy vòi hƣơng đã liệt kê ra hàng loạt các
loại thức ăn mà loài này hay ăn bao gồm: nhóm động vật hữu nhũ nhỏ, các loài
thuộc họ chim, bò sát, lƣỡng cƣ, cá, giáp sát, côn trùng, trùn đất lớp chân bụng,
nhện, và hoa quả. Trong đó, 4 nhóm thức ăn chính của cầy vòi hƣơng là côn trùng,
trùn đất, hoa quả, và loài hữu nhũ (Joshi et al., 1995; Chuang-An and Lee, 1997).
5
Cầy vòi hƣơng châu Á đƣợc cho là có một lối sống đơn độc, tr một thời
gian ngắn vào mùa giao phối. Chúng sống trên cạn và sống trên cây, cho thấy các
hoạt động về đêm ở đỉnh giữa buổi tối muộn đến sau nửa đêm (Grassman, 1998).
Cầy vòi hƣơng đánh dấu mùi hành vi và phản ứng khứu giác khác nhau nhƣ
chất tiết của tuyến đáy chậu, nƣớc tiểu và phân khác nhau ở cầy đực và cầy cái.
Hành vi đánh dấu bằng cách kéo các tuyến đáy chậu và để lại sự tiết trên bề mặt là
phổ biến nhất đƣợc quan sát ở cả hai giới. Các phản ứng khứu giác thay đổi theo
thời gian và phụ thuộc cả vào loại quan hệ tình dục và bài tiết. Các cầy vòi hƣơng
có thể phân biệt giữa các cá thể, giới tính, và quen thuộc hay không quen thuộc
bằng mùi của tuyến giáp tiết đáy chậu (Rozhnov, 2003).
Về thực trạng của loài trong tự nhiên, nhiều công bố cho thấy cầy vòi hƣơng
bị săn bắt và giảm số lƣợng đáng kể. Theo Esselstyn et al. (2004); Comm. (2006); Su
Su (2005) có đủ bằng chứng để chỉ ra rằng trên phạm vi rộng lớn loài này thƣờng là
một trong những loài phổ biến nhất đã bị săn bắt ở Phillipines, Myanmar, Việt Nam,
Lào… Các khuynh hƣớng phổ biến cho các cuộc điều tra dùng camera bẫy và chú ý
đến các khối môi trƣờng sống xâm lấn tối thiểu, với trọng tâm là r ng thƣờng xanh,
chắc chắn đã giảm nhiều số lƣợng gần đây của loài này ở khu vực Đông Nam Á.
Iseborn (2012) đã xác định độ phong phú của cầy vòi hƣơng ở khu bảo tồn động vật
hoang dã Phnom Samkos và Khu bảo tồn Veun Sai-Siem Pang, Campuchia và công
bố chắc chắn gặp phải P. hermaphroditus ở cả hai nơi, nhƣng mật độ thấp.
Phân tích tính đa dạng di truyền của họ cầy (Viverridae), phát sinh loài bộ ăn
thịt (Carnivora) lần đầu tiên đƣợc khám phá bởi Yu & Zhang (2005) bằng cách giải
trình tự DNA. Nhóm tác giả đã sử dụng hai gen ti thể (ND2 và ND4) và gen nhân
beta-fibrinogen intron 7. Việc kết hợp (ND5, cytb, 12S, và 16SrRNA) và hai gen
nhân (IRBP và TTR) chuỗi locus cũng đƣợc kết hợp để tái tạo lại phát sinh loài của
14 loài thuộc họ mèo có quan hệ họ hàng.
Patoua et al., (2008) đã tiến hành giải mã trình tự của hai gen ti thể
(Cytochrome b và ND2) và hai gen nhân (một đoạn không mã hóa: intron 7 của βfrinogen và một đoạn mã hóa: exon 1 của IRBP). Nhóm tác giả kết luận việc bổ sung
các dữ liệu DNA nhân, đặc biệt là các β -fibrinogen intron 7, đóng vai trò trọng yếu
6
cải thiện độ phân giải phát sinh loài của các loài bên trong của Hemigalinae và
Paradoxurinae.
Gần đây nhất, Veron et al., (2015) đã nghiên cứu sự đa dạng di truyền của chi
Paradoxurus bằng cách sử dụng hai gen ti thể (cytochrome b, khu vực kiểm soát
CR) và một gen nhân (intron 7 của β-fibrinogen) đánh dấu. Nhóm tác giả đã sử
dụng mẫu t 85 cá thể thuộc loài P. hermaphroditus (bao gồm 20 mẫu vật bảo tàng)
và một đại diện của mỗi loài khác trong chi Paradoxurus: Paradoxurus jerdoni và
Paradoxurus zeylonensis. Mặt khác, nhóm tác giả kiểm tra đặc điểm hàm và răng t
một loạt lớn các mẫu vật và so sánh sự biến đổi về hình thái với các dữ liệu phân tử.
Phân tích cây sinh dòng của chúng cho thấy rằng P. hermaphroditus là cận ngành.
Nhóm tác giả nhận thấy có ba dòng chính phân phối: (1) trong tiểu lục địa Ấn Độ,
phía nam Trung Quốc, Hải Nam và trong khu vực trên 200 m ở Đông ƣơng; (2) ở
bán đảo Malaysia, Java, Sumatra và trong khu vực dƣới 200 m ở Đông
ƣơng; và
(3) ở Borneo, Philippines và quần đảo Mentawai. Quan sát hình thái học cũng tƣơng
đồng với ba dòng phân tử. Theo kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả thì cầy vòi
hƣơng ở Việt Nam nằm trong 2 nhánh (1) và (2), theo đề nghị thuộc hai loài: P.
hermaproditus (Indian palm civet) và P. musagus (Sumatran palm civet).
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên c u xác địn
kì động dục
Kiến thức về sinh học sinh sản của các loài động vật là rất quan trọng để
quản lý bền vững. Đánh giá chính xác tình trạng nội tiết là một trong những yếu tố
quan trọng nhất để tăng hiệu quả các chƣơng trình hỗ trợ sinh sản. Sự nỗ lực trong
các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm hoặc
chuyển phôi) phụ thuộc vào kiến thức về sinh lý sinh sản của một loài nhất định
(Schwarzenberger et al., 1996). Đặc biệt, trong thụ tinh nhân tạo, thời gian chính xác
của việc thụ tinh là yếu tố giới hạn chính, sẽ dễ dàng hơn nếu chu kì động dục có thể
đƣợc xác định.
Phân tích hormone steroid của tuyến sinh dục là một điểm quan trọng đánh
giá tình trạng sinh lí sinh sản của vật nuôi. Kích dục tố trong huyết thanh là sự phản
ánh chính xác nhất của hoạt động sinh dục, tuy nhiên các kỹ thuật để thu thập thông
tin này qua huyết thanh có thể ảnh hƣởng đến phúc lợi động vật (animal welfare) và
7
khá tốn kém. Lấy mẫu máu lặp lại nhiều lần sẽ gây stress, ảnh hƣởng đến vấn đề sức
khỏe của động vật và khó khăn để thực hiện trong điều kiện hiện trƣờng, nhất là động
vật hoang dã. Thậm chí việc lặp lại lấy mẫu máu để đo các steroid có thể là không
thực tế ở các loài động vật có kích thƣớc nhỏ, lấy mẫu gây can thiệp và thậm chí dẫn
đến các con vật bị giết chết.
Phƣơng pháp không xâm lấn (non-invasive) dễ thực hiện và cho kết quả
chính xác là lựa chọn thay thế tốt hơn. Mặc dù có thể thu thập mẫu nƣớc tiểu và phân
để đánh giá tình trạng sinh sản ở động vật đƣợc nuôi nhốt, nhƣng khó khăn trong việc
thu thập nƣớc tiểu đối với các động vật thả rông đã hạn chế việc sử dụng chúng trong
việc điều tra. Vì vậy, mẫu phân là sự lựa chọn thực tế nhất cho mục đích này. Phƣơng
pháp đo lƣu lƣợng các chất chuyển hóa steroid trong phân để đánh giá trạng thái nội
tiết của động vật đã đƣợc đi tiên phong vào cuối những năm 1970 ở chim, đầu những
năm 1980 ở động vật có vú và đã đƣợc nghiên cứu trong các thập kỷ qua với số
lƣợng ngày càng tăng của các loài (Palme, 2005). Nhiều nghiên cứu đã cho thấy mô
hình tƣơng tự trong huyết thanh là kích thích tố trong phân, và sử dụng các mẫu phân
nhƣ một công cụ không xâm lấn đƣợc sử dụng rộng rãi để giám sát hoạt động sinh
dục. Vấn đề thông tin không rõ ràng về tình trạng sinh sản của động vật cái đã đƣợc
giải quyết nhờ phƣơng pháp phân tích hormone steroid phân để đánh giá các hoạt
động nội tiết (Kumar et al., 2013). Đánh giá estrogen trong phân đã đƣợc sử dụng
nhƣ chỉ số đáng tin cậy ở con vật mang thai ở một số động vật móng guốc (Amer et
al., 2007 ; Macchi et al., 2010; Ncube et al., 2011; Monica và et al., 2014) và một số
loài linh trƣởng (Shideler et al., 1993a, Shideler et al., 1993b, Heistermann et al.,
1993; Ziegler et al., 1996; Maheshwari, 2010). Chúng cũng đƣợc sử dụng để xác định
khoảng thời gian trƣớc khi rụng trứng ở động vật ăn thịt (Putranto et al., 2006; 2011).
Phân tích chất chuyển hóa progesterone trong phân đã đƣợc sử dụng thành công để
theo dõi chức năng thể vàng và mang thai, hƣ thai, tính chu kì động dục và các liệu
pháp điều trị trong một danh sách mở rộng của nhiều loài.
1.1.3. X
địn
on đ ờng bài ti t hormone steroid
Các loại sản ph m cuối cùng chuyển hóa của steroid trong phân đƣợc xác
định bằng các nghiên cứu sử dụng phƣơng pháp sắc ký (HPLC) và xét nghiệm miễn
8
dịch (RIA hoặc ELISA). Steroid phóng xạ
14
C đƣợc đƣa vào cơ thể qua con đƣờng
truyền vào tĩnh mạch. Phân đƣợc thu thập ngay sau khi đi vệ sinh, nƣớc tiểu đƣợc lấy
mẫu qua ống thông tiểu cố định ở con cái và sau khi tiểu tiện tự nhiên ở con đực
(Palme et al., 1996). Kết quả nghiên cứu cho thấy các chất steroid có chứa phóng xạ
trong huyết tƣơng kết hợp nhanh chóng và bài tiết vào mật và nƣớc tiểu. Chúng đƣợc
phân tách trong ruột và ở hầu hết các loài steroid phân chứa một tỷ lệ steroid tự do
cao hơn các steroid liên hợp. Việc xác định con đƣờng, thời gian và sản ph m bài tiết
steroid phân ngày càng đƣợc mở rộng danh sách các loài: c u (Adams et al., 1994);
ngựa, lợn (Palme et al., 1994), voi châu Phi (Wasser et al., 1996), khỉ đầu chó
(Wasser et al., 1996), mèo nhà (Graham and Brown, 1996). Về bản chất, những
nghiên cứu này chỉ ra rằng estrogen trong phân chứa chủ yếu là oestrone, oestradiol17α và -17β. Oestrogen là sản ph m cuối cùng của sự trao đổi chất steroid. Nhƣ vậy
các hợp chất trong huyết tƣơng và phân cũng tƣơng tự nhau. Ngƣợc lại, progesterone
đƣợc chuyển hóa mạnh mẽ trƣớc khi đào thải qua phân và một số nghiên cứu chỉ ra
rằng các chất chuyển hóa phân của nó bao gồm các chất chuyển hóa t 5α và 5β pregnan (pregnaned- iones, mono và dihydroxylated pregnans (Schwarzenberger et
al., 1999; Heistermann et al., 1993; Möstl et al., 1993; Shideler et al., 1993b, Wasser
et al., 1994; Graham et al., 1995; Brown, 2011).
1.1.4. Ly trích steroid
Steroid có thể chiết xuất theo phƣơng pháp ethanol (Hattab et al., 2000;
Kornmatitsuk et al., 2007; Capezzuto et al., 2008) hoặc methanol (Schwarzenberger
et al., 1995, Isobe et al., 2005). Các mẫu phân đƣợc thu thập t 2-3 lần mỗi tuần (12
tháng). Các mẫu trong thời gian giữa thời kỳ mang thai đƣợc thu thập một lần/tuần
hoặc hai tuần một lần. Các mẫu phân tƣơi (5 g) đƣợc thu gom đặt vào một túi nhựa
và bảo quản (-200C) cho đến khi phân tích. Sau khi giải đông, 0,5 g đƣợc cân và đƣợc
đặt trong một lọ thủy tinh có chứa 4 ml đệm chiết dung dịch (20% methanol hoặc
ethanol). Mẫu đƣợc đặt trên máy lắc trong 18 giờ ở nhiệt độ phòng. Các chất lỏng
này đƣợc chiết vào một ống nghiệm và ly tâm (400 vòng, 15 phút). Sau khi ly tâm,
khoảng 1 ml dung dịch nổi đƣợc chiết vào ống eppendorf đƣợc dán nhãn và lƣu trữ
đông lạnh (-200C) cho đến khi sử dụng. Phần còn lại đƣợc đƣa trở lại vào lọ thuỷ tinh
9
và đƣợc sấy khô để xác định trọng lƣợng khô của phân. Dung dịch này sẽ đƣợc sử
dụng trực tiếp cho phân tích ELISA (Schwarzenberger et al., 1998; Putranto et al.,
2006), HPLC (Putranto et al., 2011) hoặc RIA (Fujita et al., 2001). Gần đây, phƣơng
pháp sử dụng petroleum ether cho chiết xuất progesterone và estrogen đƣợc sử dụng
(Biancani et al., 2009). Nghiên cứu cho thấy phƣơng pháp này có tƣơng quan cao
(r=0,923) với chiết xuất ethanol và tiết kiệm thời gian li trích hơn.
Nhiều nghiên cứu về sự thay đổi chế độ ăn uống và dao động hàm lƣợng
nƣớc giữa các mẫu phân có ảnh hƣởng đến nồng độ steroid trong phân hay không.
Shideler et al., (1993) và Wasser et al., (1993) đã kết luận rằng việc lập chỉ mục các
steroid phân không cần thiết. Tuy nhiên, ở một số loài nhƣ động vật ăn thịt và voi
(Brown et al., 1994; Brown et al., 1995; Wasser et al., 1996), việc đông khô các mẫu
phân trƣớc khi phân tích và biểu hiện nồng độ steroid trên mỗi gram phân khô là
thuận lợi. Tuy nhiên, Schwarzenberger và cộng sự trong một loạt nghiên cứu lại kết
luận rằng với một số loài ăn cỏ đƣợc nuôi trong các vƣờn thú khác nhau và không có
cùng chế độ ăn tiêu chu n thì việc khử khô mẫu phân để xác định steroid là không
cần thiết (Schwarzenberger và Walzer, 1995; Schwarzenberger et al., 1991, 1992,
1993, 1994, 1995). Hơn nữa, Wasser et al. (1993); Wasser et al. (1994) kết luận
những thay đổi đáng kể theo mùa trong chế độ ăn uống của động vật thả rông không
ảnh hƣởng đáng kể đến lƣợng định lƣợng steroid phân. Ngoài ra, Ziegler et al.,
(1996) cho rằng việc loại bỏ chất dịch ra khỏi phân không làm thay đổi cấu trúc
steroid, vì nồng độ steroid giữa mẫu phân đông lạnh và phân lỏng có mối tƣơng quan
cao.
Nhƣ vậy, ở các loài động vật hoang dã với cấu trúc dân số hạn chế của
chúng, xác định hormone sinh dục không xâm lấn sẽ là một phƣơng pháp hữu dụng
đối với các nhà khoa học trong đánh giá sự thay đổi nội tiết sinh dục, xác định chu kì
buồng trứng đồng thời tìm hiểu và giám sát động thái sinh dục của chúng để cải thiện
khả năng sinh sản trong điều kiện nuôi. Cần có thêm nhiều công trình và phối hợp
giữa các nhà nghiên cứu trong ngành công nghệ sinh học trƣớc khi có thể phát triển
các bộ KIT steroid trong phân nhằm góp phần thành công cho công nghệ hỗ trợ sinh
sản.
10
1.2. Nghiên cứu trong nƣớc
Cầy vòi hƣơng có tên khoa học là Paradoxurus hermaphroditus (Pallas,
1777) còn có tên gọi khác là cầy vòi đốm. Nhiều tài liệu gọi loài này là chồn hƣơng,
cầy hƣơng (Nguyễn Lân Hùng và Nguyễn Khắc Tích, 2010). Hiện có nhiều nơi nuôi
cầy vòi hƣơng với nhiều mục đích khác nhau. Trong đó các trang trại nuôi loài này
đã sớm phát triển ở các tỉnh Đắk Lắk, Lâm Đồng,
ình
ƣơng, Thanh Hóa,
ắc
Giang, thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Đồng Nai. Hầu hết các trang trại, các hộ
gia đình đang nuôi cầy vòi hƣơng đều thu lợi nhuận chủ yếu t việc cung cấp con
giống, bán thịt cho các nhà hàng đặc sản. Những năm gần đây, một số hộ chăn nuôi
cầy thu lợi nhuận t việc sản xuất cà phê chồn.
Cầy vòi hƣơng là loài động vật hoang dã thuộc nhóm động vật ăn tạp, có tập
tính kiếm ăn vào ban đêm. Thức ăn chủ yếu là những loại quả chín của các loài cây
mọc trong tự nhiên và các loài gặm nhấm, côn trùng mà chúng săn bắt đƣợc (Phạm
Nhật, 2002). Còn rất nhiều tài liệu khác đề cập đến sinh học, sinh thái học và tập tính
của cầy vòi hƣơng trong tự nhiên. Đây chính là thông tin cơ sở để xây dựng chuồng
trại, chăm sóc và nuôi dƣỡng trong điều kiện nuôi nhốt. Cầy vòi hƣơng là loài thích
trái cây mềm và chúng lựa chọn rất kỹ các trái cây để ăn. Chúng cũng ăn quả cà phê
song chỉ chọn những quả chín mọng, có vị ngọt, hƣơng thơm (Joshi et al., 1995;
Nguyễn Vịnh, 2011).
Về phía thức ăn động vật, cầy vòi hƣơng thƣờng ăn những côn trùng nhƣ rắn,
bọ hung, giun đất, chuột, trứng chim, về phía thức ăn có nguồn gốc thực vật, chúng
ăn những loại trái cây chín có vị ngọt nhƣ nhãn, mít, chuối, đu đủ,… (Nguyễn Lân
Hùng và Nguyễn Khắc Tích, 2010).
Kiểu hình bộ máy tiêu hóa của loài ăn tạp: dạ dày phát triển, gồm có 4 vùng:
vùng thƣợng vị, vùng đƣờng cong lớn, vùng trung vị và vùng hạ vị. Đây là kiểu
hình v a tiêu hóa thức ăn tinh v a tiêu hóa thức ăn xanh tùy theo kh u phần. Trong
điều kiện hoang dã, nguồn thức ăn không ổn định về chất lƣợng và số lƣợng, nên bộ
máy tiêu hóa đa dạng là một lợi thế. Với tập tính kiếm ăn vào ban đêm, thƣờng là
đầu hôm đến giữa đêm nên thời gian tiêu hóa thức ăn chủ yếu vào ban đêm, giảm
hoạt động vào ban ngày (Joshi et al., 1995; Grassman et al., 1998; Duckworth et al.,
11
2008). Chính vì thế, nếu thuần hóa và chăn nuôi dạng sinh thái, ngƣời chăn nuôi
nên chú
đặc điểm này, nên cho ăn bữa ăn chính vào buổi chiều tối, tốt nhất là sau
6 giờ chiều nhằm không làm thay đổi tập tính vốn có của loài này (Nguyễn Lân
Hùng, Nguyễn Khắc Tích, 2010). Cầy vòi hƣơng thích ăn trái cây có vị ngọt, hàm
lƣợng đƣờng trong thức ăn cao (Joshi et al., 1995), nên khi mới tập ăn, nên cho
chúng ăn thức ăn có vị ngọt.
Đặc điểm sinh học của cầy vòi hƣơng hoang dã đã đƣợc cứu tại Việt Nam
bởi Roberton (2007). Tuy nhiên, nghiên cứu mới chỉ d ng lại ở mức quan sát một
số đặc điểm sinh học, đánh giá thực trạng, phân bố của loài và đƣa ra những cảnh
báo về việc bảo tồn loài này trong điều kiện hoang dã.
Đến năm 2010, Đặng Huy Huỳnh và cs đã mô tả khá chi tiết về đặc điểm
phân bố và đặc điểm sinh học của loài này ở Việt Nam. Cầy vòi hƣơng còn có các
tên gọi khác là Vòi đen, Cầy vòi đốm, Chồn ngận hƣơng, Chồn mƣớp; Hên moóng
meo (Tày); nhển moòng, nhển củn (Thái); cui vằng (Mƣờng); đèn bảo minh, đền tây
diền (Dao).
Về đặc điểm hình thái của cầy vòi hƣơng: Cầy vòi hƣơng nặng trung bình t
3 đến 5 kg. Chiều dài thân khoảng t 480 đến 700 mm, đuôi dài t 400 đến 660
mm. Khuôn mặt dài nhọn đặc trƣng của họ Cầy. Các gờ mấu ở xƣơng sọ khá phát
triển. Mấu sau mắt dài. Xƣơng trán tƣơng đối bằng. Eo sau mắt thắt nhỏ (nhỏ hơn
gian mắt). Mấu bên xƣơng ch m dính với mặt sau bầu nhĩ tạo thành đế khá lớn.
Răng nhỏ thấp, gờ nhai tù. Răng trƣớc hàm số 1 rất nhỏ, có thể mất. Đế bàn chân
lớn, đế bàn chân sau có thùy kéo dài để bám lúc leo trèo (Đặng Huy Huỳnh và cs.,
2010).
Cầy vòi hƣơng có tuyến xạ thơm cạnh hậu môn phát triển và thƣờng tỏa mùi
thơm khi hoạt động, nằm sâu phía trong mông, phân bố hai bên hậu môn mà không
lộ ra ngoài khác với cầy hƣơng tuyến xạ của con đực nằm ngay trƣớc tinh hoàn, lộ
ra ngoài.
Bộ lông có tính biến dị lớn: Bộ lông màu xám mốc hoặc hung mốc, mút lông
phớt đen.
ọc sống lƣng, sƣờn có đốm màu nâu đen hoặc thƣờng tạo tạo thành sọc
chạy dọc sống lƣng t vai đến gốc vai đến gốc tai. Đầu, đuôi và chân chuyển mầu
nâu đen; đuôi có vệt không rõ hoặc màu đen ở phần gốc đuôi, phần mút đuôi
12
thƣờng có màu đen, tuy nhiên ở một số cá thể có thể màu trắng. Mặt có 2 – 3 đốm
trắng cạnh mắt hoặc vệt sáng trắng ở trán qua 2 tai (Đặng Huy Huỳnh và cs., 2010).
Tập tính của cầy vòi hƣơng cơ bản gần giống Cầy vòi mốc (Paguma larvata).
Chủ yếu sống ở r ng. Sinh hoạt kiếm ăn đêm, ngày ngủ (Phạm Nhật, 2002). Loài
này thƣờng hoạt động chủ yếu trên cây ít khi xuống đất. Cầy sống đơn, chỉ ghép đôi
trong mùa sinh sản (Đặng Huy Huỳnh và cs., 2010).
Vào mùa khan hiếm thức ăn, cầy vòi hƣơng cũng có thể kiếm ăn vào ban
ngày. Cầy vòi hƣơng là loài ăn tạp, thức ăn tự nhiên bao gồm cả thực vật (hành
phần thức ăn chủ yếu gồm các loại quả chín kỹ, nhằn vỏ, nuốt hạt, ...) lẫn động vật
(gồm côn trùng, cua, ốc, …chiếm tỷ lệ ít); tuy Cầy vòi hƣơng thuộc bộ thú ăn thịt
nhƣng loài này thƣờng ăn thực vật nhiều hơn động vật. Trong điều kiện nuôi nhốt
Cầy rất tạp ăn kể cả thịt, cá cơm canh (Đặng Huy Huỳnh và cs., 2010).
Cầy vòi hƣơng động dục vào các tháng 2 – 4, đẻ con vào tháng 5 – 6, mỗi lứa
2 – 4 con. Thời gian chửa 60 – 63 ngày; con sơ sinh nặng 250 – 300g. Cầy béo vào
mùa đông. Tuổi thọ khoảng 14 năm, trong điều kiện nuôi, có cá thể sống tới 22 năm
5 tháng (Đặng Huy Huỳnh và cs., 2010; Nguyễn Lân Hùng và Nguyễn Khắc Tích,
2010).
Theo Đặng Huy Huỳnh và các cộng sự (2010), cầy vòi hƣơng sống ở r ng
cây gỗ núi đất, núi đá và cả r ng ngập nƣớc ven biển hay r ng tràm ở đồng bằng
sông Cửu Long. Cầy có thể sống cả ở r ng nguyên sinh và thứ sinh đã bị tác động
mạnh. Loài Cầy này không đào hang ở và không có chỗ ở cố định. Cầy thƣờng trú
n trong các bọng cây, trên các tán cây rậm rạp.
Ở Việt Nam, Cầy vòi hƣơng phân bố rộng trên toàn quốc: Lào Cai, Sơn La,
Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hòa Bình, Thanh Hóa,
Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Th a Thiên – Huế, Đà Nẵng, Gia Lai, Đắk Lắk,
Lâm Đồng, Đồng Nai,… (Đặng Huy Huỳnh và cs., 2010).
Về giá trị sử dụng, cầy vòi hƣơng là một loài có giá trị kinh tế cao cho thịt
ngon, da lông có giá trị cao. Tuyến xạ (xạ hƣơng) của cầy vòi hƣơng đƣợc sử dụng
trong sản xuất mỹ ph m cao cấp. Xạ của cầy vòi hƣơng cũng là một vị thuốc quý
trong Y học cổ truyền và đƣợc sử dụng nhƣ xạ hƣơng của hƣơu xạ. Do vậy, cầy vòi
13
hƣơng bị săn bắt ráo riết và sinh cảnh bị hủy hoại nên hiện nay bị suy giảm nhiều về
mặt số lƣợng.
Gần đây, một số nghiên cứu về đặc điểm sinh học của loài trong điều kiện
nuôi đã đƣợc tiến hành. Nguyễn Thanh ình (2015a,b) đã công bố về một số bệnh
thƣờng gặp và ảnh hƣởng của PMSG và HCG lên thành tích sinh sản của cầy còi
hƣơng trong điều kiện nuôi nhốt. Nguyễn Thị Thu Hiền và cs., (2017a) đã nâng cao
hiệu quả của việc sản xuất cà phê chồn nguyên liệu thông qua chế độ dinh dƣỡng
hợp lí (80% thức ăn cơ bản với 50% thức ăn thực vật, 50% thức ăn động vật trong
kh u phần).
Về đặc điểm sinh trƣởng của cầy vòi hƣơng trong điều kiện nuôi, nghiên cứu
cho thấy cầy vòi hƣơng t 3-24 tháng tuổi có tốc độ tăng khối lƣợng trung bình là
5.76 g/con/ngày (ở con đực) và 5.22 g/con/ngày (ở con cái). Tốc độ tăng trƣởng
khối lƣợng cao nhất là t 9-12 tháng tuổi. Tốc độ tăng trƣởng chiều dài thân có xu
hƣớng giảm dần qua các tháng tuổi. Giai đoạn tăng trƣởng chiều dài thân nhanh
nhất ở giai đoạn 3-6 tháng với mức tăng trƣởng tuyệt đối là 2.87 cm/con/tháng (ở
con đực) và 2.57 cm/con/tháng (ở con cái). Tăng trƣởng tuyệt đối của chiều dài đuôi
trung bình 0.99 cm/con/tháng (ở con đực) và 0.96 cm/con/tháng (ở con cái). Tăng
trƣởng tuyệt đối của vòng ngực trung bình là 0.52 cm/con/tháng (ở con đực); 0.45
cm/con/tháng (ở con cái) và đạt tốc độ cao nhất ở giai đoạn 9 tháng tuổi (Nguyễn
Thị Thu Hiền và cs., 2017b).
Nghiên cứu đặc điểm sinh sản của cầy vòi hƣơng trong điều kiện nuôi cho
thấy cầy có tuổi thành thục sinh dục trung bình là 11.96 tháng (ở cầy cái) và 10.97
tháng (ở cầy đực) với khối lƣợng trung bình 2.50 – 2.52 kg. Thời gian mang thai
trung bình 60.9 ngày. Số con cầy vòi hƣơng sinh ra trong mỗi lứa t 1-4 con, trung
bình 2.38 con/lứa. Cầy sơ sinh nặng trung bình 95.16 gram, con non khi cai sữa (45
ngày) nặng 590.83 gram. Tỉ lệ mang thai (66.67 %) và tỉ lệ con non sống khi cai sữa
(80.83%) chƣa cao, phụ thuộc vào kỹ thuật chọn thời điểm ghép đôi và điều kiện
nuôi dƣỡng (Nguyễn Thị Thu Hiền và cs., 2017c).
Tóm lại, các nghiên cứu trong nƣớc về cầy vòi hƣơng còn khá khiêm tốn,
chủ yếu nghiên cứu loài này trong tự nhiên, chƣa có những nghiên cứu mang tính hệ
14
thống về các đặc điểm sinh học của Cầy vòi hƣơng trong điều kiện nuôi, cũng nhƣ
xác định chu kì sinh dục của cầy vòi hƣơng cái. Các nghiên cứu về chu kì động dục
bằng biện pháp không xâm lấn (qua steroid phân) cũng chƣa đƣợc công bố.
- Xem thêm -