Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục và vui chơi giải trí của trẻ nhập cư th...

Tài liệu Khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục và vui chơi giải trí của trẻ nhập cư thành phố thủ dầu một, tỉnh bình dương

.PDF
110
1
57

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2015 -2016 Khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục và vui chơi giải trí của trẻ nhập cư Thành Phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương- Nghiên cứu trường hợp tại lớp học tình thương phường Phú Cường TP Thủ Dầu Một TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2015 -2016 Khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục và vui chơi giải trí của trẻ nhập cư Thành Phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương- Nghiên cứu trường hợp tại lớp học tình thương phường Phú Cường TP Thủ Dầu Một Sinh viên thực hiện: Ngô Thị Thanh Trúc, Nam, Nữ: Nữ Dân tộc: Kinh Lớp, khoa: D12XH01, Khoa Công tác xã hội. Năm thứ: 4/Số năm đào tạo: 4 Ngành học: Công tác Xã hội Người hướng dẫn: Thạc sĩ Nguyễn Thị Hồng Thắm. UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT Độc lập – Tự do – Hạnh phúc THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 1. Thông tin chung: - Tên đề tài: Khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục và vui chơi giải trí của trẻ nhập cư Thành Phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương- Nghiên cứu trường hợp tại lớp học tình thương phường Phú Cường TP Thủ Dầu Một. - Sinh viên thực hiện: 01 - Lớp: D12XH01, Khoa: Công tác xã hội Năm thứ: 4 Số năm đào tạo:4 - Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Hồng Thắm 2. Mục tiêu đề tài: - Tìm hiểu thực trạng việc tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục và vui chơi giải trí của trẻ nhập cư ở lớp học tình thương phường Phú Cường. - Tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn của trẻ trong việc tiếp cận dịch vụ về y tế, giáo dục và vui chơi giải trí ở lớp học tình thương phường Phú Cường. 3. Tính mới và sáng tạo: Thông qua nghiên cứu tài liệu sẵn có tại địa phương, kết hợp với những nghiên cứu định tính nhằm tìm hiểu thực trạng đời sống của trẻ em nhập cư trong lớp tình thương tại phường Phú Cường,Tp. Thủ Dầu Một, Bình Dương kết quả đã đạt được như sau: Thứ nhất, thực trạng trẻ nhập cư trong việc tiếp cận với các vấn đề về y tế và chăm sóc sức khỏe. Trẻ em với nhu cầu được chăm sóc sức khỏe là một điều cần thiết, bởi trẻ em có được sự chăm sóc tốt mới có được sự phát triển hoàn thiện về cả thể chất và tinh thần. Qua nghiên cứu cho thấy trẻ em nhập cư tuy được hưởng các chế độ chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng một cách công bằng như mọi trẻ em khác, mà không có sự phân biệt đối xử nào trong chăm sóc sức khỏe cho trẻ của gia đình vẫn còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên về mặt chăm sóc sức khỏe cho trẻ của gia đình cho thấy điều kiện kinh tế của các hộ khảo sát phần lớn đều thuộc diện rất khó khăn nên nhóm trẻ được khảo sát hầu hết không có được cơ hội chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở, trung tâm y tế mà chỉ được chăm sóc và điều trị tại nhà. Qua khảo sát cho thấy trẻ chưa được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu sinh lý như ăn, mặc, ngủ, nghỉ tức là nhu cầu cơ bản bậc 1 của tháp nhu cầu Maslow. Chính vì việc trẻ nhập cư sống như vậy thì sẽ có nhiều tiềm tàng nguy hiểm gây nên nhiều tác động tiêu cực đến tâm lý cũng như tình trạng sức khỏe của trẻ nhập cư. Thứ hai, thực trạng trẻ nhập cư trong việc tiếp cận các dịch vụ về giáo dục. Trẻ nhập cư ở lớp tình thương thiệt thòi hơn rất nhiều trong việc được học tập so với nhiều đứa trẻ khác. Nếu chiếu theo tháp nhu cầu của Maslow thì nhu cầu giáo dục thuộc nhu cầu cơ bản (nhu cầu cấp 1 là nhu cầu về ăn, uống, ngủ, nghỉ, học hỏi và hiều biết để duy trì giống nòi), tuy nhiên đối với trẻ nhập cư các em vẫn chưa tiếp cận được với các nhu cầu này. Thực tế cho thấy rằng trẻ nhập cư lao động sớm không có điều kiện tiếp xúc với các lớp học chính quy do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì thế với sự mong mỏi của gia đình và sự hỗ trợ của chính quyền đã phần nào giúp trẻ thỏa mãn được nhu cầu học tập của trẻ cũng như được hòa nhập trong môi trường giáo dục phổ cập là được học tập ở các lớp học tình thương. Phần lớn các gia đình nhập cư làm kinh tế mà không có tay nghề thường rất khó tiếp cận với các mô hình giáo dục chính thức mà chỉ tiếp cận được chương trình giáo dục phi chính thức là các mô hình lớp học tình thương. Tuy nhiên, với những giới hạn hiện tại của lớp học tình thương nên trẻ chỉ được hỗ trợ giáo dục ở bậc tiểu học. Nhu cầu được học lên của trẻ có khả năng sẽ không được đáp ứng nếu không có sự hỗ trợ nhiều hơn nữa và sự chung tay góp sức từ các ban ngành chính quyền đoàn thể như gia đình, nhà nước cần có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện tốt việc học tập, học hết chương trình phổ cập giáo dục và cần tạo điều kiện cho trẻ em, đặc biệt là trẻ nhập cư ở các lớp học tình thương có cơ hội được học ở trình độ cao hơn. Thứ ba, thực trạng trẻ nhập cư trong việc tiếp cận với vấn đề vui chơi giải trí. Thời gian dành cho hoạt động giải trí thường gắn liền với thời gian rỗi, là những khoảng thời gian mà cá nhân không bị bức bách bởi những nhu cầu sinh tồn, không bị chi phối bởi những nghĩa vụ cá nhân hoặc sự đòi hỏi bởi nhu cầu vật chất. Con người hoàn toàn tự do, thoát khỏi những băn khoăn, lo lắng thường nhật. Gắn vào lý thuyết nhu cầu của Maslow thì nhu cầu vui chơi giải trí thuộc tháp nhu cầu thứ 3 tức là nhu cầu về xã hội (nhu cầu cấp cao) nó thể hiện sự liên kết, chấp nhận, được tạo điều kiện để có cơ hội để mở rộng giao lưu, vui chơi, giải trí. Và vui chơi giải trí là một nhu cầu văn hóa không thể thiếu của con người, đặc biệt đối với trẻ em. Các hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh rèn luyện cho trẻ những phẩm chất cơ bản về trí tuệ, đạo đức, thể chất theo quy luật của cái đẹp. Trong quá trình phát triển của trẻ, hoạt động vui chơi giải trí đóng vai trò không kém phần quan trọng so với các hoạt động thiết yếu khác như bổ sung dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe cho trẻ…Thế nhưng trên thực tế ta có thể thấy được sân chơi miễn phí dành cho trẻ thì hầu như không có. Việc thiếu hụt sân chơi trầm trọng dễ dẫn đến tình trạng nhiều trẻ chọn quán Internet, những tụ điểm phức tạp làm “sân chơi”. Và đó cũng là nguyên nhân vì sao nhiều trẻ em nhập cư mà có điều kiện hay những trẻ thường trú thường hư hỏng, bỏ học để đi chơi, tụ tập đánh nhau, hay có thể ngồi lì trong quán game online hết ngày này sang ngày khác…v.v. Tất cả những điều đó là do việc thiếu sân chơi lành mạnh gián tiếp gây nên. Đối với trẻ nhập cư thì cuộc sống của trẻ luôn phải cuốn theo những mưu sinh bộn bề của cuộc sống, việc trẻ nhập cư bị cuốn vào vòng xoáy thường ngày mà quên đi những nhu cầu giải trí lành mạnh cần có trong một xã hội đang phát triển hiện đại như ngày nay, thứ mà con người luôn muốn có và sở hữu chúng và đặc biệt là đối với các trẻ em nhập cư. 5. Đóng góp về mặt kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, an ninh, quốc phòng và khả năng áp dụng của đề tài: Dựa vào kết quả từ đề tài, có thể đưa ra các biện pháp nhằm hỗ trợ và nâng cao cơ hội cho trẻ nhập cư được tiếp cận với các dịch vụ về y tế, giáo dục và vui chơi giải trí. Kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ nâng cao sự hiểu biết về người nhập cư nói chung và trẻ nhập cư ở lớp học tình thương phường Phú Cường nói riêng. Thông qua kết quả nghiên cứu này sẽ là nguồn tài liệu cho các nghiên cứu sau nhằm giúp người nhập cư có cơ hội dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các dịch vụ về y tế, giáo dục và vui chơi giải trí. 6. Công bố khoa học của sinh viên từ kết quả nghiên cứu của đề tài (ghi rõ họ tên tác giả, nhan đề và các yếu tố về xuất bản nếu có) hoặc nhận xét, đánh giá của cơ sở đã áp dụng các kết quả nghiên cứu (nếu có): Ngày 27 tháng 03 năm 2016 Sinh viên chịu trách nhiệm chính thực hiện đề tài (ký, họ và tên) UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI I. SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN: Họ và tên: Ngô Thị Thanh Trúc Sinh ngày: 03 tháng 10 năm 1994 Ảnh 4x6 Nơi sinh: phường Phú Cường, TP. Thủ Dầu Một, T. Bình Dương. Lớp: D12XH01, Khóa: 2012 - 2016 Khoa: Công tác xã hội. Địa chỉ liên hệ: Số 54/36, đường Hai Bà Trưng, Khu 10, phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Điện thoại: 0979031094, Email: [email protected]. II. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP (kê khai thành tích của sinh viên từ năm thứ 1 đến năm đang học): * Năm thứ 1: Ngành học: Công tác Xã hội Khoa: Khoa học Xã hội và Nhân văn. Kết quả xếp loại học tập: Khá Sơ lược thành tích: * Năm thứ 2: Ngành học: Công tác Xã hội Khoa: Công tác xã hội Kết quả xếp loại học tập: Trung Bình Khá Sơ lợc thành tích: * Năm thứ 3: Ngành học: Công tác Xã hội Khoa: Công tác xã hội Kếtquả xếp loại học tập: Khá Sơ ược thành tích: * Năm thứ 4: Ngành học: Công tác Xã hội Khoa: Công tác xã hội Kết quả xếp loại học tập: Khá Sơ lược thành tích: Ngày 27 tháng 03 năm 2016 Xác nhận của lãnh đạo khoa Sinh viên chịu trách nhiệm chính (ký, họ và tên) thực hiện đề tài (ký, họ và tên) MỤC LỤC PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1 LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 2 Ý NGHĨA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN a) Ý nghĩa lí luận b) Ý nghĩa thực tiễn 3 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ a) Nghiên cứu ngoài nước b) Nghiên cứu trong nước 4 MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU a) Mục tiêu tổng quát b) Mục tiêu cụ thể 5 ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU a) Đối tượng, khách thể nghiên cứu b) Phạm vi nghiên cứu 6 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU 8 CẤU TRÚC ĐỀ TÀI PHẦN 2: NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 Các khái niệm cơ bản 1.1.1 Di cư- Nhập cư 1.1.2 Trẻ em 1.1.3 Trẻ em di cư 1.1.4 Dịch vụ xã hội 1.1.5 Nhu cầu 1.1.6 Khái niệm KT3- KT4 1.2 Cách tiếp cận trong nghiên cứu 1.2.1 Thuyết nhu cầu 1.2.2 Ứng dụng của lý thuyết CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TIẾP CẬN DỊCH VỤ Y TẾ, GIÁO DỤC VÀ VUI CHƠI GIẢI TRÍ CỦA TRẺ NHẬP CƯ QUA BA TRƯỜNG HỢP ĐIỂN CỨU CA 2.1 Tổng quan địa bàn nghiên cứu phường Phú Cường 2.2 Lớp học tình thương phường Phú Cường 2.3 Tổng quan về chính sách 2.3.1 Chính sách và những văn bản có liên quan đến Chương trình BVCS&GDTE ở phường Phú Cường 2.3.2 Chương trình hành động vì trẻ em Bình Dương GĐ 2013-2020 2.3.3 Chương trình BVTE tỉnh Bình Dương GĐ 2011-2015 2.3.4 Kế hoạch liên ngành về công tác BVCS&GDTE giữa Sở Lao động Thương Binh- xã hội và Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh BD GĐ 2014 – 2020 2.3.5 Quyết định phê duyệt đề án CSTE mồ côi không nơi nương tựa, TE bị bỏ rơi, TE bị nhiễm HIV/AID, TE là nạn nhân của chất độc hóa học, TE khuyết tật nặng và TE bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa dựa vào cộng đồng trên địa bàn tình BD GĐ 2014 – 2020 2.4 Trường hợp gia đình nhập cư 1 2.5 Trường hợp gia đình nhập cư 2 2.6 Trường hợp gia đình nhập cư 3 CHƯƠNG 3: THẢO LUẬN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1 Tiếp cận về dịch vụ y tế của trẻ nhập cư 3.2 Tiếp cận về dịch vụ giáo dục của trẻ nhập cư 3.3 Tiếp cận về dịch vụ vui chơi giải trí của trẻ nhập cư Các phát hiện chính của đề tài Hạn chế của đề tài và gợi ý các hướng nghiên cứu tiếp theo Khuyến nghị Tài liệu tham khảo Phụ lục DANH MỤC NHỮNG TỪ ĐƯỢC VIẾT TẮT  HCĐB: hoàn cảnh đặc biệt  BVCS & GD: Bảo vệ chăm sóc và giáo dục.  GDTE: giáo dục trẻ em.  TECHCĐB: trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.  BVCSTE: bảo vệ chăm trẻ em.  LĐ TBXH: lao động thương binh xã hội.  TP. HCM: Thành Phố Hồ Chí Minh.  BHYT, BHXH: Bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội.  CSSK: chăm sóc sức khỏe.  TNXH: Tệ nạn xã hội. PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1 LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Cùng với sự phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã góp phần làm thay đổi đời sống của con người kéo theo sự di cư từ nông thôn lên các trung tâm, thành thị chiếm tỉ lệ khá đông và tăng dần theo các năm 2,36% năm 1989 và 3,60% năm 2004, theo dự báo cục thống kê Thành Phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó di cư kéo theo việc cha mẹ mang con cái đi cùng để chăm sóc nuôi dưỡng nhưng trên thực tế trẻ di cư rất khó tiếp cận về các dịch vụ giáo dục, y tế, sức khỏe, xã hội, vui chơi giải trí…v.v. Việt Nam là nước đầu tiên khu vực châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là mối quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước, gia đình và xã hội. Nó trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, dành mọi sự yêu thương cho trẻ, luôn đặt lợi ích của trẻ lên hàng đầu với phương châm “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Đi kèm với phương châm này thì nước ta cũng đã đầu tư nhiều vào việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em để mỗi trẻ đều có được cuộc sống an toàn và hạnh phúc nhất. Với tốc độ phát triển nhanh như hiện nay ở đất nước ta những năm gần đây tỉ lệ nghèo đang được giảm xuống, đời sống người dân được cải thiện một cách rõ rệt dẫn đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng được cải thiện hơn thông qua việc người dân sử dụng các dịch vụ BHYT, BHXH với trên 70% vào năm 2014, tỉ lệ biết chữ người lớn trên 90% vào năm 2009 và trẻ em là 88% năm 2005 theo cục thống kê năm 2010. Tuy vậy không phải sự phát triển này đều giúp tất cả mọi người nhất là với những người nhập cư đặc biệt là trẻ em chưa hoàn toàn hưởng được hết các dịch vụ về y tế, giáo dục và vui chơi giải trí… Là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của khu vực phía Nam, Bình Dương cũng đã có sự phát triển vượt bậc đáng kể trong những năm gần đây về mọi mặt. Có thể nói Bình Dương hôm nay đang là một điểm sáng trên bản đồ kinh tế Việt Nam với những thành tựu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế như việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Bên cạnh đó Bình Dương còn là một trong những tỉnh có nhiều khu công nghiệp nổi tiếng như: khu công nghiệp Sóng Thần, VISIP, Việt Nam Singapore….v.v. Chính vì điều đó mà nơi đây đã thu hút được một lượng lớn người dân từ các tỉnh lân cận nhập cư vào địa bàn nhằm tìm kiếm cơ hội việc làm và định cư sinh sống nên Bình Dương đã trở thành một tỉnh có tốc độ tăng dân số cao, theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2009 là 7.3%. Thủ Dầu Một là một trong những trung tâm thành phố của tỉnh Bình Dương có tỉ lệ dân nhập cư cao do gần các khu công nghiệp, trung tâm hành chính, chợ đầu mối lớn trong đó có chợ Phú Cường. Và Phú Cường cũng là trung tâm của Thành Phố Thủ Dầu Một nên dân nhập cư chiếm số lượng khá đông trên 1.000 hộ (hơn 3.000 nhân khẩu) so với tổng số hộ 5,639 hộ dân, theo tài liệu báo cáo dân số của phường Phú Cường năm 2014. Những hệ lụy kéo theo từ dòng di cư đến phường Phú Cường là rất lớn cho chính bản thân những người di cư, mà hơn hết đó là trẻ em- những đứa trẻ phải theo gia đình đi làm kinh tế. Chính vì thế mà tôi chọn đề tài “Khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục và vui chơi giải trí của trẻ nhập cư Thành Phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình DươngNghiên cứu trường hợp tại lớp học tình thương phường Phú Cường TP Thủ Dầu Một“ để có một cách nhìn khác về việc tiếp cận các dịch vụ của trẻ nhập cư nơi đây, bên cạnh đó cung cấp thêm những thông tin, số liệu cho chính quyền địa phương để giúp đỡ trẻ phần nào vơi bớt khó khăn trong cuộc sống. 2 Ý NGHĨA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN. a) Ý nghĩa lí luận. Đề tài góp phần tìm hiểu việc tiếp cận các dịch vụ của trẻ nhập cư và sử dụng cách tiếp cận của phương pháp nghiên cứu định tính để vận dụng và lý giải về khả năng tiếp cận các dịch vụ về y tế, giáo dục, vui chơi giải trí của trẻ nhập cư tại lớp học tình thương phường Phú Cường TP Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. b) Ý nghĩa thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ làm sáng tỏ khả năng tiếp cận các dịch vụ về y tế, giáo dục, vui chơi giải trí của trẻ nhập cư tại lớp học tình thương phường Phú Cường TP Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo cho các bạn sau này về đề tài trẻ nhập cư nói chung và trẻ nhập cư tại địa bàn phường Phú Cường nói riêng. Bên cạnh đó có thể làm nguồn tài liệu thêm cho ủy ban, chính quyền địa phương trong các lĩnh vực về tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, vui chơi giải trí của trẻ nhập cư. 3 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ. a) Nghiên cứu ngoài nước Theo công ước của LHQ về quyền trẻ em thì trẻ em có 4 nhóm quyền cơ bản như quyền được sống còn, quyền được phát triển, quyền được bảo vệ, quyền được tham gia. Chính vì thế quyền của trẻ em luôn được Nhà nước Việt Nam quan tâm và bảo vệ. Tùy theo mỗi quốc gia mà áp dụng độ tuổi quy định của trẻ thì được gọi là trẻ em nhưng nhìn chung trẻ em trên tất cả các nước đều cần sự quan tâm và hỗ trợ của chính phủ, bộ máy nhà nước trực thuộc nơi trẻ sống bảo vệ trẻ, đặc biệt là đối với trẻ nhập cư để trẻ có thể tránh khỏi các nguy cơ rủi ro không đáng có. Một số tài liệu nghiên cứu ngoài nước, công trình khoa học mà tôi đã nghiên cứu và tham khảo để rút ra được những quan điểm, cái nhìn của mỗi tác giả về đề tài trẻ em nhập cư ngoài nước như sau. Về vấn đề trẻ em di cư nói chung, có tài liệu nghiên cứu D. Lange-FSA, Oklahoma, “Children youth and migration”, Unicef 2002 nói về những khó khăn mà trẻ di cư ở các nước Châu Âu đang phải gánh chịu, theo nghiên cứu thì Trung Quốc có 19.810.000 trẻ em di cư , gần 20% của tổng số dân nhập cư. Con số không nhỏ này cho thấy tình trạng trẻ nhập cư đang ngày một tăng nhanh không những ở Châu Âu mà còn ở Châu Á và trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu này nhấn mạnh vào cách tiếp cận các quyền của trẻ trong đó có việc không phân biệt đối xử với trẻ di cư. Và trẻ di cư cần được hưởng đầy đủ các quyền như trong công ước LHQ đã nêu, nghiên cứu phân chia loại trẻ em di cư theo gia đình và trẻ di cư một mình để thấy được những thuận lợi và khó khăn của trẻ di cư đang gặp phải. Về thuận lợi đối với cuộc sống như kinh tế phát triển hơn so với lúc chưa di cư, ngoài ra di cư như một “chiến lược sống sót” đối với họ, giúp họ thể hiện tinh thần đoàn kết hơn với gia đình, nâng cao sự sẻ chia đùm bọc yêu thương gia đình hơn. Bên cạnh đó di cư cũng mang đến rất nhiều vấn đề khó khăn như: bị phân biệt đối xử, thiếu các giấy tờ khai sinh, quốc tịch, thiếu các dịch vụ y tế, giáo dục, vui chơi giải trí cho trẻ nhập cư, trẻ nhập cư phải lao động sớm…Ngoài ra ngôn ngữ giao tiếp cũng là một vấn đề đáng quan tâm khi mà nó vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức đối với người nhập cư nói chung và trẻ nhập cư nói riêng. Về mảng chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhập cư, tác giả đã tiếp cận được công trình nghiên cứu của Jill F. N. Kilanowski, MSN, RN, CPNP, “health disparities: carnival and migrant worker children ” Jill F. N. Kilanowski, MSN, RN, CPNP The Ohio State University 2006, theo đó bài viết nói về việc đánh giá tình trạng sức khỏe của trẻ di cư trong độ tuổi từ 0 đến 12 tuổi để thấy được sự chênh lệch giữa hai nhóm trẻ di cư và trẻ tại địa phương. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính để thống kê số liệu kết hợp quan sát phỏng vấn nhóm trẻ di cư trong độ tuổi từ 0 đến 12 để qua đó thấy được tình trạng sức khỏe của trẻ di cư và trẻ thường trú. Nghiên cứu cho rằng có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề sức khỏe của trẻ di cư như: trình độ học vấn, phân biệt giới, tình hình kinh tế xã hội thấp, không có nhà ở, thiếu các giấy tờ…v.v tác động qua lại lẫn nhau làm cho dân di cư luôn bị phân biệt trong đời sống xã hội dẫn đến tình trạng sức khỏe của trẻ nhập cư cũng không đảm bảo. Điểm mạnh của bài viết là có thể chỉ ra cụ thể sự chênh lệch về các về đề sức khỏe như (chiều cao, cân nặng, độ tuổi, giới tính…) của hai nhóm trẻ di cư và trẻ ở tại địa phương. Tác giả cũng nêu ra phát hiện mới cho bài viết của mình như trẻ có điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt hơn so với lúc trước khi di cư, tuy nhiên trẻ di cư vẫn không được chăm sóc sức khỏe tốt như những trẻ cư trú tại địa phương về các vấn đề như: tiêm chủng phòng ngừa, bệnh răng miệng, chăm sóc da, chế độ dinh dưỡng….. Qua đó cho thấy trẻ di cư theo gia đình phải đối mặt với rất nhiều mối nguy hiểm như môi trường sống, vốn văn hóa, trình độ giáo dục, phân biệt giới là các yếu tố tác động không nhỏ đến tình trạng sức khỏe của trẻ nhập cư. Tuy nhiên, bài viết lại chưa đưa ra những lí giải về những số liệu khảo sát được mà chỉ dừng lại ở việc mô tả, nhận xét số liệu. Về mảng nghiên cứu vấn đề giáo dục cho người nhập cư là nghiên cứu mang tính toàn quốc của Friedrich Heckmann và các cộng sự (2008), “EDUCATION AND MIGRATION strategies for integrating migrant children in European schools and societies”, European Commission's Directorate-General for Education and Culture, 2008 nói về việc góp phần thúc đẩy chất lượng và công bằng trong nền giáo dục Châu Âu. Nghiên cứu đề cập đến bản chất, nguyên nhân và biện pháp khắc phục cho nền giáo dục đối với trẻ em (di cư hay dân tộc thiểu số) bị thiệt thòi về tuyển sinh trong loại hình trường học, thời gian đi học, các chỉ số thành tích, tỷ lệ bỏ học, các nền văn hóa…v.v. Ngoài ra nghiên cứu còn nêu cao các chính sách, chương trình và các biện pháp để cải thiện tình hình khó khăn của trẻ nhập cư. Bài viết đánh mạnh vào các chính sách, chống phân biệt đối xử với người nhập cư, chú ý nhiều hơn đến từng vấn đề của trẻ, cho học ngôn ngữ thứ hai sao cho phù hợp với nơi nhập cư để có thể phát triển một cách tốt nhất. Nghiên cứu cho thấy tình hình trẻ em nhập cư khi đi học với thời gian ngắn và ít hơn nhiều so với trẻ ở bản xứ. Bên cạnh đó, tình trạng quá tải của các em ở các lớp học “đặc biệt” này ngày càng nhiều, tỷ lệ các em đi đến trường thì ít do không đủ điều kiện nhập học đồng nghĩa với việc trẻ càng có nhu cầu học ở những lớp “đặc biệt” này càng cao hơn. Nghiên cứu nêu cao tinh thần chống phân biệt đối xử trẻ (di cư, nhập cư) để từ đó nâng cao cơ hội của trẻ nhập cư trong việc tiếp cận nền giáo dục. Nhìn chung nghiên cứu về trẻ nhập cư ngoài nước nhấn mạnh vào việc tìm ra các chính sách để giúp đỡ cho trẻ được thể hiện cụ thể qua từng nhóm trẻ, độ tuổi của trẻ... Bên cạnh đó các tác giả luôn xem trọng vấn đề trẻ bị phân biệt đối xử bởi nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng với mục đích cuối cùng là mọi tác giả đều muốn đem lại quyền bình đẳng cho trẻ em nói chung và trẻ nhập cư nói riêng. b) Nghiên cứu trong nước. Trẻ em là tương lai của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và là tương lai cho toàn thế giới, vì thế sự phát triển toàn diện và tốt nhất của trẻ luôn là sự quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia. Cũng chính vì thế có rất nhiều công trình nghiên cứu về trẻ cũng như về những nhu cầu, đời sống (giáo dục, chăm sóc, sức khỏe, dinh dưỡng, vui chơi- giải trí, lao động sớm…) của trẻ. Dưới đây là một số công trình nghiên cứu,tài liệu, tạp chí khoa học, tiểu luận và mà tôi đã tham khảo và rút ra được những quan điểm, cái nhìn của mỗi tác giả về đề tài trẻ em nhập cư và đời sống của trẻ em nghèo nhập cư. Tại việt Nam tỷ lệ dân nhập cư đang tăng dần qua các năm, theo dự báo cục thống kê Thành Phố Hồ Chí Minh thì sự di cư từ nông thôn lên các trung tâm, thành thị chiếm tỉ lệ cào vào năm 1989 là 2,36% và 2004 là 3,60%, theo dự báo cục thống kê Thành Phố Hồ Chí Minh. Trong đó tỷ lệ trẻ em di cư theo cha mẹ chiếm tới 2/3 là trẻ có độ tuổi 15 đến 19 đang tham gia lao động và đa số trẻ không được tham gia tiếp cận các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục và vui chơi giải trí. Vì thế Đảng và Nhà nước ta cũng đã có nhiều chính sách quan tâm, hỗ trợ nhằm cải thiện đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần cho trẻ em nói chung và trẻ di cư nói riêng. Đầu tiên phải kể đến đó là công trình nghiên cứu có quy mô trên toàn quốc của tác giả Đặng Bích Thủy (2010), “Hội nhập kinh tế và những tác động đến thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam”, tạp chí xã hội học, số 1 (109), năm 2010 cho ta thấy được sự khác nhau cơ bản của trẻ em và trẻ có hoàn cảnh khó khăn tại Việt Nam về các dịch vụ y tế, dinh dưỡng, sức khỏe, giáo dục…Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính để nghiên cứu nhóm trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn để thống kê các biến số, thu thập số liệu từ các nguồn và bảng hỏi điều tra về trẻ tại Việt Nam. Bài viết nhấn mạnh sự bất bình đẳng xã hội, nghèo đói, di cư và các tệ nạn xã hội…tất cả là đều liên quan đến việc mở cửa và hội nhập của đất nước. Bài viết cũng trình bày rõ những thuận lợi và thách thức của trẻ em và trẻ em nghèo ở Việt Nam về các dịch vụ như y tế: tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 42% năm 1991 còn 25,2% năm 2005 (Theo báo cáo của viện dinh dưỡng tại Hội nghị Quốc Tế về dinh dưỡng Hà Nội năm 2008). Về giáo dục: chi tiêu ngân sách cho giáo dục ở Việt Nam tăng gấp 3 lần trong giai đoạn từ 1991 đến 2002. Bên cạnh đó bài viết cũng nêu lên những thách thức từ quá trình toàn cầu ảnh hưởng đến quyền của trẻ gay gắt là những rủi ro xuất phát từ sự nghèo đói-nguyên nhân dẫn đến sự thất học và suy dinh dưỡng và các rủi ro về sức khỏe đã ảnh hưởng nghiên trọng đến đời sống của trẻ nghèo và trẻ nhập cư. Điển hình như trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe gánh nặng tài chính đã chuyển từ Nhà nước sang cho người sử dụng. Ước tính khoảng 80% tổng chi phí y tế được chi trả trực tiếp bởi người sử dụng, còn ngân sách Nhà nước chỉ tài trợ dưới 15%, phần còn lại được trang trải bởi các tài trợ nước ngoài và các chính sách bảo hiểm khác (Số liệu của Bộ y tế. 2002. Dẫn theo Ari Kokko và cộng sự. 2008). Ngoài ra bài viết còn nêu điểm mới ở những thách thức cho tương lai của trẻ em đứng trước nguy cơ toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng nhanh. Bài viết đưa ra khá nhiều khía cạnh về trẻ em tuy nhiên vẫn chưa đưa ra những lí giải về những số liệu khảo sát được mà chỉ dừng lại ở việc mô tả, nhận xét số liệu. Cũng với đề tài nghiên cứu tình hình trẻ em tại Việt Nam ta cần phải nhắc đến công trình nghiên cứu có quy mô toàn quốc của UNICEF Việt Nam (2003), “Báo Cáo Phân Tích Tình Hình Trẻ Em Tại Việt Nam 2010” Báo cáo UNICEF Việt Nam, nghiên cứu được viết dựa trên việc phân tích số liệu điều tra trẻ em Việt Nam vào năm 2010. Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính để thống kê các biến số, điều tra bảng hỏi và phỏng vấn trẻ dưới 18 tuổi ở Việt Nam và chỉ tập trung vào trẻ có HCĐB. Với bài viết này tác giả đã đưa ra rất nhiều số liệu để chứng minh những tình trạng khó khăn mà trẻ di cư đang gặp phải. Trong chương 5 trang 230 có nêu “trẻ em nhập cư phải đối mặt với nguy cơ bị gạt ra ngoài cuộc sống xã hội do các em không được đăng ký cư trú tại nơi ở mới. Thiếu giấy tờ chứng minh tình trạng cư trú khiến cho những trẻ này không tiếp cận được với các dịch vụ công thiết yếu như y tế, giáo dục và thường phải đối mặt với nguy cơ bị bóc lột và xâm hại cao” mục tiêu của nghiên cứu này là kêu gọi giảm sự bất bình đẳng về khả năng tiếp cận các dịch vụ của trẻ có HCĐB. Nghiên cứu tìm hiểu những nguyên nhân có ảnh hưởng đến quyền của trẻ như các hành vi và giá trị liên quan đến gia đình, truyền thống và văn hóa Việt Nam. Nghiên cứu mang tính kế thừa nguồn dữ liệu sẵn qua việc phân tích thực trạng của trẻ en Việt Nam và phát huy tối đa hơn thông qua việc lí giải về những số liệu đã khảo sát được. Tuy nhiên, các chính sách được nêu ra trong bài viết chưa đồng bộ và nhất quán gây khó khăn cho công tác giải quyết vấn đề và cần thời gian về lâu về dài. Cùng với các nghiên cứu trẻ em di cư về đăng ký cư trú, hộ khẩu cho người nhập cư có bài viết của tác giả Trần Đan Tâm (2007) “Vấn đề của người nhập cư vào TPHCM”, tạp chí khoa học và xã hội số 04 (104) năm 2007 cho ta một cách nhìn khác hơn về người di cư dưới góc độ chính sách về đăng ký hộ khẩu. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính tập trung khảo sát, thống kê số liệu ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TPHCM kết hợp với quan sát và phỏng vấn dân nhập cư các vấn đề về y tế, giáo dục, vui chơi giải trí và điều kiện hạ tầng… v.v để cho người đọc có thể hình dung rõ hơn về người nhập cư khi nói về những khó khăn của họ trong đó không thể không nhắc đến vấn đề về đăng ký hộ khẩu tạm trú. Điểm mạnh của bài viết này là tác giả đã nêu ra những thực trạng khó khăn của người nhập cư mà họ đang phải gánh chịu với khó khăn trước mắt là việc giải quyết hộ khẩu cho dân nhập cư thì cuộc sống của họ sẽ phần nào ổn định hơn. Tuy nhiên bài viết cũng còn một số điểm hạn chế như chỉ chú trọng vào việc đăng ký hổ khẩu cho dân nhập cư (khó khăn trước mắt) nhưng về lâu dài còn có nhiều vấn đề khác chưa được quan tâm. Bên cạnh đó các chính sách pháp luật chưa đồng bộ, ảnh hưởng kinh tế phát triền không đồng đều khiến cho dân nhập cư chịu rất nhiều khó khăn như việc tiếp cận các dịch vụ giáo dục: khảo sát cho thấy tỷ lệ trẻ nghỉ học sớm trong nhóm nhập cư tăng nhanh hơn nhóm khác theo cấp lớp, với lý do nghỉ học được nêu ra nhiều nhất là khó khăn về kinh tế, tiếp theo đó là vì không có hộ khẩu…Về y tế: dân nhập cư quan niệm rằng họ là những người trẻ, khỏe, có sức lao động tốt mới đến thành phố làm việc nên vấn đề sức khỏe không là khó khăn đối với họ, mặt khác với phương châm tiết kiệm tối đa thời gian cho việc chi cho y tế (cả thời gian và tiền bạc) là “xa xỉ” đối với người nhập cư. Về tiếp cận các dịch vụ đô thị: chính sách nhà nước đã tạo điều kiện tối đa cho người dân nhập cư KT3 về 6 lĩnh vực như học hành, xin cấp điện nước, làm giấy khai sinh, làm giấy tờ nhà đất và xin việc. Một ví dụ minh họa là họ cũng còn phải chịu khó khăn không khác gì KT4 như để ngăn chặn tình trạng quá tải xe máy, cấp quản lý nghỉ ngay đến việc không cho KT3 đăng ký chủ quyền xe, trong khi trước đó quy định này đã có lần xóa bỏ. Hạn chế này đã mang lại không ít phiền toái cho người nhập cư nói chung và KT3 nói riêng. Nhìn chung dưới góc độ chính sách về đăng ký hộ khẩu thì Nhà nước nên tạo điều kiện dễ dàng cho dân di cư trong việc đăng ký hộ khẩu, cần có các tiêu chí rõ ràng, dễ hiểu để phần nào giúp cho người di cư có thể nhanh chóng hơn trong việc đăng ký. Bên cạnh đó việc đăng ký hổ khẩu cho dân nhập cư (khó khăn trước mắt) nếu được giải quyết thì về lâu dài còn có nhiều vấn đề khác cũng cần được quan tâm như chính sách pháp luật cần được đồng bộ để không làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế giữa thành thị và nông thôn thì người di cư sẽ không cần phải chịu nhiều khó khăn thêm nữa. Bên cạnh những việc về đăng ký hộ khẩu, các giấy tờ cho trẻ nhập cư thì việc cần phải đảm bảo cho trẻ nhập cư được hưởng các quyền lợi là rất quan trọng . Chính vì thế cần có những nghiên cứu về đảm bảo quyền lợi cho trẻ ở từng khu vực để có cách nhìn chính xác hơn về trẻ nhập cư tại khu vực đó. Đối với việc nghiên cứu về đảm bảo quyền lợi cho trẻ nhập cư phải kể đến bài viết của tác giả Trần Minh Tuấn (2010) “Đảm bảo quyền lợi lao động di cư hiện nay”, trên tạp chí khoa học -kinh tế xã hội số 7 năm 2010 trang 24 -27 cho ta thấy được những hạn chế trong việc tiếp cận các dịch vụ của người dân di cư. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để thống kê và thu thập dữ liệu về lao động di cư tại TP. HCM. Bài viết nêu có khoảng 30% dân số của TP. HCM là người di cư, trong đó có tới 2/3 là lao động trẻ từ 15 đến 19 tuổi chiếm khoảng 70% người di cư vì lý do kinh tế, 41% thay đổi việc làm, 30% mong muốn cải thiện điều kiện sống. Bài viết trình bày rất nhiều số liệu nghiên cứu về lao động di cư tại TP.HCM nhằm làm tăng tính thuyết phục hơn, bên cạnh đó còn nêu ra được những vấn đề cơ bản đặt ra trong việc đảm bảo quyền lợi của người lao động di cư như: thu nhập thấp không được đảm bảo, hạn chế trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội y tế, giáo dục, vui chơi giải trí, điều kiện nhà ở chật chội, thiếu thốn và chưa được sự quan tâm của chính quyền sở tại… đã cho ta thấy được phần nào những khó khăn mà người di cư đang phải gánh chịu. Theo thống kê kết quả khảo sát của Bộ Văn hóa -Thể thao và Du lịch về đời sống văn hóa công nhân tại 45 doanh nghiệp ở 13 tỉnh, thành phố cho thấy: 60% công nhân không xem tivi, nghe đài, 85% không đọc sách báo, 80% không tập thể dục thể thao thường xuyên, 65% không có nhu cầu về văn hóa, 65% công nhân không tham gia vào các hoạt động tuyên truyền và 65% không tham gia vào các hoạt động văn nghệ quần chúng. Di cư chẳng những không bảo đảm được quyền lợi cho bản thân người di cư mà còn ảnh hưởng đến gia đình và con cái của họ. Trẻ di cư không được hưởng các quyền lợi để tiếp cận các dịch vụ xã hội mà cũng không có các dịch vụ về đời sống như vui chơi giải trí để trẻ có được một sân chơi lành mạnh. Bài viết đề cập đến khá nhiều khía cạnh nhưng chưa đưa ra những lí giải về những số liệu khảo sát được mà chỉ dừng lại ở việc mô tả, nhận xét số liệu. Bên cạnh đó để hiểu rõ hơn về đời sống của dân di cư khác với dân địa phương như thế nào thì ta cần biết được những đặc điểm của người dân di cư. Bài viết của tác giả Đỗ Ngọc Khải nói về những đặc điểm cơ bản của dân di cư sẽ cho ta một cái nhìn sơ nét về cuộc sống với rất nhiều khó khăn mà dân di cư đang gặp phải và đặc biệt là trẻ em di cư. Theo tác giả Đỗ Ngọc Khải (2009) ”kết quả khảo sát nghèo đô thị tại Hà Nội và TP HCM năm 2009: Những đặc điểm cơ bản của nhóm di cư”, trên tạp chí khoa hoc -kinh tế xã hội số 12 năm 2010 trang 15 -18 nêu về sự khác nhau của việc tiếp cận các dịch vụ của dân di cư và dân thường trú. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính để thống kê, thu thập thập số liệu dân di cư tại Hà Nội và TP. HCM kết hợp với quan sát và phỏng vấn dân di cư về các dịch vụ tiếp cận
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng