i
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn xin cam đoan:
- Luận văn “Kết cấu nghệ thuật trong “Người đàn bà trong cồn cát” của Abe
Kobo”là kết quả nghiên cứu của cá nhân tác giả.
- Những trích dẫn trong luận văn là trung thực.
- Nghiên cứu này không trùng với bất cứ nghiên cứu nào đã đƣợc công bố từ
trƣớc đến thời điểm này.
Phú Thọ, tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Tiến Hƣng
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới ngƣời cô của tôi, TS.
Đào Thị Thúy Hằng. Nhờ sự động viên, giúp đỡ của cô tôi mới có thể hoàn
thành nghiên cứu về Kết cấu nghệ thuật trong “Người đàn bà trong cồn cát”
của Abe Kobo. Một lần nữa, xin gửi lời cảm ơn đến cô.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô trƣờng Đại học Hùng Vƣơng;
các cán bộ công nhân viên trƣờng Đại học Hùng Vƣơng đã tạo điều kiện
thuận lợi để tôi có thể hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã chia sẻ với tôi trong quá
trình viết luận văn.
Đặc biệt, tôi cảm ơn mọi ngƣời gia đình vì đã trở thành nguồn động lực tinh
thần cho tôi trong suốt thời gian qua.
Phú Thọ, tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Tiến Hƣng
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2.Tổng quan vấn đề nghiên cứu ........................................................................ 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 12
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 13
CHƢƠNG 1. KẾT CẤU CỐT TRUYỆN VÀ NGƢỜI KỂ CHUYỆN NƠI
CỒN CÁT .................................................................................................................................. 14
1.1. Cốt truyện kiểu cồn cát ............................................................................ 14
1.2.Ngƣời kể chuyện nơi cồn cát .................................................................... 17
1.2.1. Khái niệm “Ngƣời kể chuyện” .............................................................. 17
1.2.2. Ngôi kể – truyền thống và hiện đại của Abe Kobo ............................... 20
1.2.3. Điểm nhìn .............................................................................................. 21
1.2.4. Giọng điệu ............................................................................................. 23
Tiểu kết chƣơng I ............................................................................................ 28
CHƢƠNG 2. NHÂN VẬT – CON NGƢỜI NHỎ BÉ NƠI CỒN CÁT............ 30
2.1. Khái niệm “nhân vật” ............................................................................... 30
2.2. Nhân vật tha hóa....................................................................................... 31
2.2.1. Cảm thức nhân vật lẩn trốn ................................................................... 31
2.2.2. Ngoại diện nghịch dị ............................................................................. 36
2.2.3. Nhân tính biến đổi ................................................................................. 41
2.3. Kiểu nhân vật cô đơn - sự vô nghĩa của hiện tồn ..................................... 48
Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................ 51
CHƢƠNG 3. KHÔNG GIAN THỜI GIAN TRONG CỒN CÁT ................. 53
3.1. Không gian nghệ thuật ............................................................................. 53
3.1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật ......................................................... 53
3.1.2. Không gian bối cảnh ngôi nhà khép kín dƣới đáy sâu cồn cát ............. 55
iv
3.1.3. Không gian tâm tƣởng mang tính triết lí............................................... 64
3.2. Thời gian nghệ thuật ................................................................................ 71
3.2.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật ............................................................. 71
3.2.2. Thời gian cốt truyện – thời gian kịch tính............................................. 72
3.2.3. Thời gian ngƣng đọng của hiện tại ....................................................... 75
Tiểu kết chƣơng 3............................................................................................ 79
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 85
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1 Văn học Nhật Bản, dù trong nhà trƣờng hay trong đời sống, thì đến
thời điểm hiện tại, vẫn còn khá mới mẻ mặc dù đây là một nền văn học lớn.
Nhìn từ cổ đến cận – hiện đại, có thể thấy, các gƣơng mặt làm nên văn
chƣơng Nhật Bản cũng là những gƣơng mặt làm nên văn chƣơng thế giới. Mở
đầu với Ryunosuke Akutagawa (1892 – 1927), nhà văn đƣợc coi là bậc thầy
truyện ngắn, một trong những ngƣời khởi xƣớng phong trào hiện đại văn học
Nhật Bản, góp phần quan trọng đƣa nền văn học ấy hòa vào dòng chảy chung
của văn học thế giới. Thế hệ tiếp sau Akutagawa là những tên tuổi cũng nổi
bật không kém. Đó là Mori Ogai (1862-1922), là nhà văn lớn đầu tiên đã trực
tiếp thể nghiệm cuộc sống, tƣ duy và tình cảm Châu Âu; là Natsume Soseki
(1867-1916) với nỗi cô đơn của ngƣời trí thức trong một xã hội tƣ sản mang
nhiều tàn tích phong kiến, cũng nhƣ sự bế tắc của cá nhân và tƣ tƣởng hoài
nghi; là Tanizaki Junichiro (1886-1965) - cây bút xuất sắc viết về những xung
đột nội tâm giữa Đông và Tây với sắc thái duy mỹ mà không bận tâm đến cái
đạo lý đi cùng cái đẹp; là Kawabata Yasunari (1899-1972), ngƣời Nhật đầu
tiên đoạt giải thƣởng Nobel Văn học (1968) với các tác phẩm mang đậm các
yếu tố truyền thống Nhật Bản, tôn vinh vẻ đẹp huyền diệu của đời sống thiên
nhiên và định mệnh con ngƣời; là Mishima Yukio (1925-1970) - nhà văn duy
mỹ phản ánh cuộc xung đột giữa ảnh hƣởng phƣơng Tây và các giá trị truyền
thống; và khá xa sau này là Kenzaburo Oe (1935-) là nhà văn Nhật Bản thứ 2
đƣợc nhận giải thƣởng Nobel Văn học cao quý.
1.2. Trong lĩnh vực quan hệ văn hóa – kinh tế - xã hội, những năm gần
đây, Nhật Bản trở thành một trong những đối tác quan trọng bậc nhất với
chính phủ Việt Nam. Lƣợng vốn ODA và số lƣợng giao lƣu văn hóa xã hội
ngày một tăng cƣờng là cơ sở vững chắc để giới trí thức tự tin thúc đẩy các
2
hoạt động nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay, công tác nghiên cứu và dịch
thuật văn học Nhật Bản – dù đã và đang đƣợc chú trọng – thì vẫn là một
khoảng trống chƣa đƣợc lấp đầy. Văn học hiện đại quá chú trọng đến
Kawabata, tƣơng tự nhƣ vậy với Murakami và Banana với thời kì đƣơng đại.
1.3. Sẽ thật là thiếu xót lớn lao cho nền văn chƣơng Nhật nếu không kể
đến Abe Kobo (1924-1993), nhà văn viết về nỗi cô đơn của con ngƣời hiện
đại, những “thảm kịch nhân sinh” giữa đời thƣờng.
Cùng với Mishima, Abe Kobo đã từng lọt vào danh sách các tác giả
đƣợc đề cử giải Nobel. Chỉ một chi tiết ấy, đã khẳng định đƣợc vị trí của Abe
trên văn đàn thế giới.
Văn học Nhật Bản nói chung và Abe Kobo nói riêng cùng với Người
đàn bà trong cồn cát, đọc đi đọc lại, vẫn là một bí ẩn cần khám phá.
Kenzaburo Oe đã từng nhận định Abe Kobo là “một trong những gƣơng mặt
quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách
khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tƣởng,
nhƣng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tƣ mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”.
Với tất cả những lí do trên chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài Kết cấu
nghệ thuật trong “Người đàn bà trong cồn cát” của Abe Kobo để lí giải một
hiện tƣợng văn học độc đáo của nhân loại, mang lại một góc nhìn mới cho
độc giả bƣớc đầu tiếp cận với văn học Nhật Bản.
2.Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1.Abe Kobo tên thật là Abe Kimifusa. Cha ông là một y sĩ làm việc
trong quân đội và ông theo cha sang Mukden, lãnh thổ Mãn Châu lúc đó đang
bị Nhật chiếm đóng. Từ nhỏ, Abe đã thể hiện niềm say mê với môn Toán học
và thú sƣu tập côn trùng. Năm 1941 ông quay về Nhật, đến năm 1943 thì nhập
học ngành Y khoa tại Đại học Đế quốc Tokyo. Ông cũng sáng tác vào năm
cuối khi còn là sinh viên y khoa, và thật ngờ, ông nhận giải thƣởng
3
Akutagawa vào năm 1951. Về mặt danh tiếng mà nói, giải thƣởng này, với
bất kì nhà văn trẻ nào, đều là một ƣớc vọng, vì nó đƣợc coi là một “Nobel của
Nhật Bản”. Văn nghiệp của Abe Kobo càng trở nên hứng khởi khi ông gặp,
yêu và kết hôn với Machi Yamada (khi chƣa tốt nghiệp đại học – quãng năm
1945). Machi là một sinh viên chuyên ngành Nghệ thuật học cũng rất thành
công trong sự nghiệp – vừa với vai trò một nghệ sĩ và một giám đốc sân khấu.
Abe và Machi có thể đƣợc coi là một cặp đôi tài sắc của văn đàn Nhật Bản
thời bấy giờ - dù khởi nghiệp của họ khá vất vả. Tốt nghiệp năm 1948 song
Abe không theo nghề y sĩ mà khởi nghiệp với cây viết trong nhóm văn học do
Hamada Kiyoteru đứng đầu.
Trong quá trình phát triển sự nghiệp, văn chƣơng Abe gắn bó khá mật
thiết với chính trị. Ông từng nhiệt liệt ủng hộ hoạt động của Đảng Cộng sản
Nhật Bản nhƣng càng về sau càng bị “vỡ mộng” với các hoạt động của Đảng,
đặc biệt là các hoạt động liên quan đến văn nghệ. Ông từng nhiều lần từ chối
và từ chức các chức vụ liên quan đến Đảng cộng sản nhƣng không đƣợc chấp
nhận. Chỉ đến năm 1962, khi ông bị trục xuất khỏi đảng, và đến năm 1967,
bằng một tuyên bố đƣợc xuất bản của ông và vợ, cùng với Yasunari
Kawabata, và Kenzaburo Oe, phản đối chính quyền đối xử với các nhà văn,
nghệ sĩ và trí thức, thì hoạt động chính trị của ông mới chính thức chấm dứt.
Bắt đầu sáng tác từ 1943 nhƣng đến 1947 Abe Kobo mới trình làng tập
thơ đầu tay là Mumei Shishu (Tập thơ vô danh). Tuy nhiên, chỉ một năm sau
đó, ông đã đƣợc biết tiếng khi cho ra đời Owarishi michi no shirube ni (Trên
cột mốc ở đường cùng). Sáng tác của Abe chịu ảnh hƣởng sâu sắc của Samuel
Beckett, Fyodor Dostoyevsky và nhất là Franz Kafka.
Các
tác
phẩm
có
tiếng
tăm
của
ông
có
thể
kể
đến
là: Dendrocacalia (Cây dendrocacalia, 1949); Akai mayu (Cái kén đỏ,
1950); Kabe—Esu Karuma shi no hanzai (Bức tường—Tội của S. Karma,
4
1951); Maho no choku(Viên phấn phù thuỷ, 1950). Đây là những sáng tác
cùng lấy đề tài “hoá thân”, biến hình theo kiểu Kafka, trong đó Bức
tường—Tội của S. Karma đƣợc Giải Akutagawa, giải thƣởng văn học cao
quý nhất ở Nhật.
Abe Kobo còn đƣợc biết đến bởi Daiyon kampyōki (Inter Ice Age
4 / Thời kỳ băng hà thứ tư), đăng thành nhiều kỳ trên tạp chí Sekai (Thế giới)
từ 1958 đến 1959. Đây là câu chuyện đặt vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
khoa học, và khái niệm ý chí tự do của con ngƣời. Bối cảnh của truyện là
nƣớc Nhật bị đe doạ chìm ngập dƣới nƣớc tan chảy từ băng sơn Bắc cực.Nhân
vật chính nghiên cứu một chƣơng trình máy tính dự đoán việc chế tạo những
đứa trẻ có cơ thể đƣợc thiết kế thích ứng với đời sống trong nƣớc biển. Ông
chống đối việc này nhƣng đứa con sắp sinh của ông lại bị chọn vào kế hoạch
thay đổi cấu tạo ấy.
Không thể không kể đến Suna no onna (Người đàn bà trong cồn cát;
bản Anh ngữ: Woman in the Dunes), tiểu thuyết đƣợc xuất bản năm 1962, đạt
giải Yomiuri. Giải thƣởng này giúp ông xác lập chỗ đứng đặc biệt trên văn
đàn Nhật Bản. Suna no onna về sau đƣợc dịch ra hơn 20 thứ tiếng khác nhau
(một con số kỉ lục), đƣợc giải thƣởng Văn học Nƣớc ngoài của Pháp, và quay
thành phim đƣợc giải thƣởng ở Liên hoan điện ảnh Cannes năm 1963, giúp
Abe Kobo đƣợc chú ý và hâm mộ trên khắp thế giới. Trong tác phẩm này,
chúng ta cũng thấy hình bóng Hang ổ của Kafka với không gian là căn nhà
bị vùi sâu trong cát với hai con ngƣời lầm lũi ngày ngày xúc cát để tránh bị
chôn vùi.
Kịch bản Tomodachi (Friends / Bạn bè, 1967), tác phẩm đƣợc giải
Tanizaki Junichiro) tạo ấn tƣợng từ phòng trọ của một tƣ chức bị một gia đình
không quen biết chiếm đóng. Mọi sinh hoạt của tƣ chức này bị những kẻ lạ
mặt chi phối và chính anh cuối cùng bị cô con gái của gia đình ấy giết chết.
5
Những ngƣời lạ mặt nọ rêu rao tinh thần dân chủ, tự xƣng là những ngƣời
thiện nguyện cho xã hội, song thực chất đó là những kẻ bóc lột tàn nhẫn. Vở
kịch này đƣợc xem là ngụ ngôn về sự can thiệp của Mỹ vào Đông Nam Á bởi
đã trình diễn vào đúng thời điểm cao trào của chiến tranh Việt Nam.
Tác phẩm Tanin no kao (The Face of Another / Khuôn mặt kẻ
khác, 1964) có thể coi là một tiểu thuyết xuất sắc nữa của Abe Kobo, cũng đã
đƣợc dịch ra tiếng Việt. Câu chuyện kể về một ngƣời đàn ông có gƣơng mặt
bị hủy hoại do tai nạn trong phòng thí nghiệm. Ông ta bí mật nhờ phẫu thuật
sửa lại mặt theo khuôn mẫu mà vợ mình cho là lý tƣởng. Không cho vợ biết
chuyện này, rồi thử quyến rũ chính vợ mình bằng gƣơng mặt mới, ngƣời đàn
ông nhận đƣợc cái kết đầy đau xót. Đây có thể coi là một ngụ ngôn tân thời về
ƣớc vọng kiếm tìm một bản thể của con ngƣời.
Năm 1974, Anbe cho ra đời cuốn Hako otoko (The Box Man / Người
đàn ông trong hộp giấy).Truyện gây ấn tƣợng về một nhân vật bất thƣờng
tách khỏi sinh hoạt thƣờng ngày, quan sát thế giới quái kỳ ở Tokyo qua lỗ
dòm cắt trên hộp giấy mà ông ta đội lên đầu.
Trong hệ thống tác phẩm của ông không thể không kể đến Kangaruu
no-to (Kangaroo Notebook / Sổ tay Kangaroo, 1991). Nhân vật chính trong
truyện vốn là một tƣ chức. Phát hiện mình đột nhiên có mầm cây mọc ra từ
chân, ông ta vào bệnh viện chữa trị. Cuộc du hành quanhiều chốn siêu thực
ngay trên chiếc giƣờng biết nghĩ tại bệnh viện đã cho thấy cảnh con ngƣời bị
cô lập và đánh mất bản ngã. (Tƣơng truyền rằng với tác phẩm Kangaruu noto, Abe Kobo là tác gia Nhật Bản đầu tiên viết văn trên máy tính, đánh dấu
cho một thế hệ nhà văn mới cập nhật với khoa học công nghệ hiện đại thời
bất giờ).
Có thể nói, các sáng tác của Abe có ảnh hƣởng sâu rộng, vƣợt khỏi biên
giới nƣớc Nhật. Nhiều tác phẩm của ông đƣợc dịch ra tiếng Anh (Inter Ice
6
Age 4 (Daiyon kampyōki / Thời kỳ băng hà thứ tư), E. Dale Saunders, 1959;
Woman in the Dunes (Suna no onna / Người đàn bà trong cồn cát), E. Dale
Saunders, 1962; The Face of Another (Tanin no kao / Khuôn mặt kẻ khác), E.
Dale Saunders, 1964; The Ruined Map (Moetsukita chizu / Bản đồ bị thiêu
rụi), E. Dale Saunders, 1967; The Box Man (Hako otoko / Người đàn ông
trong hộp giấy), E. Dale Saunders, 1973; Kangaroo Notebook (Kangaruu noto / Sổ tay Kangaroo), Maryellen Toman Mori, 1973-1977; Secret
Rendezvous (Mikkai / Hò hẹn bí mật), Juliet Winters Carpenter, 1977; The Ark
Sakura (Hakobune Sakura-maru / Thuyền cứu thế Sakura), Juliet Winters
Carpenter, 1984; Beyond the Curve and Other Stories (“Qua khỏi khúc
ngoặt‖ và những truyện khác, tập truyện), Juliet Winters Carpenter, 1990;
Three Plays by Abe Kobo (Ba vở kịch của Abe Kobo, kịch bản), Donald
Keene, 1993; Friends (Tomodachi / Bạn bè, kịch bản), Donald Keene, 1967.
Abe Kobo đƣợc biết đến không chỉ với danh tiếng là tiểu thuyết
gia.Ông còn là nhà soạn kịch, nhà đạo diễn kịch. Những năm 60 của thế kỉ
trƣớc, cùng với đạo diễn Teshigahara Hiroshi, Abe chuyển thành phim các tác
phẩm văn học của ông, nhƣ Otoshi ana (The Pitfall / Lỗ hổng, 1962), Suna no
onna (Woman in the Dunes / Người đàn bà nơi cồn cát, 1962), Tanin no
kao (The Face of Another / Khuôn mặt kẻ khác, 1966),... Năm 1973, trƣờng
dạy diễn xuất ở Tokyo do Abe sáng lập đã tập trung dạy các phƣơng pháp
trình diễn độc sáng của ông. Nơi này đồng thời là địa điểm để Abe đạo diễn
kịch.Năm 1977 ông đƣợc đề cử vào Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật
Mỹ.Ban kịch mang tên “Abe Kobo Studio” của ông đã sang Mỹ lƣu diễn năm
1979. Mất năm 1993 vì bệnh tim tại Nhật Bản, thọ 69 tuổi, Abe Kobo để lại
nhiều thƣơng tiếc cho công chúng và giới nghiên cứu nơi này.
7
2.2. Người đàn bà trong cồn cát
Người đàn bà trong cồn cát có nội dung hết sức đơn giản.Truyện kể về
Niki Jinpei, một giáo viên kiêm nhà côn trùng học nghiệp dƣ, trong lúc đi tìm
một mẫu côn trùng đã lạc bƣớc vào xứ cát.Lỡ chuyến xe buýt cuối cùng về
thành phố do mải mê tìm côn trùng, Niki đã ngỏ ý với ba ngƣời đàn ông anh
gặp trên đụn cát về ý định nghỉ qua đêm tại đây để sáng mai tiếp tục đi kiếm
côn trùng. Ba ngƣời đàn ông đƣa anh tới một căn nhà xiêu vẹo ở sâu trong
lòng một cái hố cát, phải leo xuống bằng thang giây. Tại căn nhà đó, Niki gặp
chủ nhà, một ngƣời đàn bà còn trẻ đã đón tiếp và cơm nƣớc cho anh. Tuy
nhiên, đó là một cái bẫy mà định mệnh mà Niki không hề ngờ tới.
Nguyên là ngôi làng này bị nạn bão cát đe dọa chôn vùi. Ngôi nhà của
ngƣời đàn bà ở bìa làng sát biểnnên đƣợc coi là căn cứ không thể bị cát chôn
vùi (vì nếu một khi cát chôn căn nhà đó thì sẽ tiến tới căn nhà kế và rồi dần dà
cả làng sẽ bị xóa sổ). Xúc cát là công việc hàng đêm - phải làm ban đêm vì
lúc đó cát ẩm, dễ xúc.Với sứ mệnh bảo vệ làng, ngƣời đàn bà đƣợc trả công
bằng thực phẩm, nƣớc và những vật dụng khác. Nhƣng từ ngày chồng và con
của chị ta bị bão cát chôn sống một năm về trƣớc, chị xúc cát một mình không
xuể. Niki chính là chỗ thế thân cho sự thiếu hụt đó.
Khi hiểu mọi chuyện, Niki đã tìm mọi cách để thoát thân.Lúc đầu anh
ta trói ngƣời đàn bà lại làm áp lực ép dân làng.Song, dân làng ngƣng cung cấp
nƣớc và thực phẩm cho hai ngƣời. Niki đành chấp nhận ở lại và âm thầm tìm
cách bỏ trốn. Đã có lần Niki leo lên đƣợc trên miệng hố nhƣng bị bắt lại và
buộc phải tiếp tục cái việc xúc cát ngày này qua ngày khác, giống nhƣ
Sisyphe trong huyền thoại Hy Lạp: Đẩy một hòn đá lên đồi, chờ nó lăn xuống
chân đồi, rồi lại đẩy lên, cứ thế, không đƣợc ngừng.
Tuy nhiên, Niki không khuất phục. Biết rằng nƣớc là vũ khí dân làng
dùng để khuất phục mình, Niki tìm cách triết nƣớc từ cát ẩm.Thời gian trôi
8
qua, Niki và ngƣời đàn bà, nhƣ lửa gần rơm đã trở nên gần gũi, sống với nhau
nhƣ vợ chồng. Không may, ngƣời đàn bà mang bầu ngoài dạ con, dân làng
phải thòng cái thang giây xuống để kéo chị ta lên đƣa đi cấp cứu. Cái thang
dây bị bỏ quên khiến Niki leo lên mà không gặp một trở ngại nào. Lần đầu
tiên từ khi bị bắt cóc Niki mới nhìn thấy biển. Anh lang thang trên miệng hố
rồi lại leo trở xuống hố cát. Xem xét công trình triết nƣớc, thấy nƣớc uống
đƣợc giữ lại trong thùng, anh thực sự hạnh phúc khi thấy công trình của mình
đã thành công. Niki không cảm thấy có nhu cầu phải thoát thân ngay, anh
muốn cho dân làng biết về việc này.
Cuốn truyện kết thúc bằng một án lệnh của tòa tuyên bố ngƣời đàn ông
đã chết sau bảy năm có tên trên danh sách ngƣời bị mất tích, để lại cho ngƣời
đọc một câu hỏi lớn “tại sao Niki chọn ở lại”!
Câu chuyện chỉ có vậy, nhƣng chỉ có vậy là thế nào? Những tình tiết
đơn giản mở ngỏ ra vô vàn các khả năng trong suy tƣởng của độc giả. Bằng
lối kể chuyện tƣởng nhƣ đơn giản, khô khan, tác giả đã đƣa ngƣời đọc đến với
một thế giới khác, một thế giới hầu nhƣ chỉ có trong suy tƣởng, cùng những
thông điệp nhân văn về con ngƣời mang tầm triết học, bởi Abe Kobo đã cho
nhân vật của ông trải qua đủ thứ tình cảm, từ lòng tự hào, sợ hãi cho đến dục
vọng và thất vọng, để thấm thía sự phi lý của thân phận con ngƣời.
Các tác phẩm của Abe Kobo đã đƣợc phổ biến khắp nƣớc Nhật và dịch
ra nhiều nƣớc trên thế giới. Chúng nhận đƣợc nhiều sự quan tâm đánh giá của
giới nghiên cứu phê bình.
Ở nƣớc ngoài, văn học Nhật Bản cùng với Abe Kobo đã đƣợc giới
thiệu và nghiên cứu rộng rãi trong nhiều thập kỉ gần đây, và Donald Keene nhà Đông Phƣơng học ngƣời Mỹ, có thể đƣợc coi là ngƣời tiên phong và có
nhiều thành tựu nhất trong lĩnh vực này. Trong nhiều năm, ông cho ra đời
nhiều chuyên luận về văn học Nhật Bản nhƣ Japanese Literature (Văn học
9
Nhật Bản, 1955), Anthology of Japanese Literature (Tuyển tập văn học Nhật
Bản, 1964), Morden Japanese Literature: from 1868 to present day (Văn học
Nhật Bản hiện đại từ 1868 đến nay, 1994) và bộ chuyên luận đồ sộ rất có ý
nghĩa khoa học dày hơn 1000 trang: Dawn to the West: Japanese Literature of
the Modern Era (Bình minh sang Tây phƣơng: văn học Nhật Bản thời kì hiện
đại, 1984).
Trong tất cả các công trình này, Donald Keene đều có nhắc tới Abe
Kobo, và coi ông là một phần không thể thiếu của văn học Nhật Bản cũng
nhƣ thế giới: “Các tác phẩm tiên phong thời kì hậu chiến, nhƣ của Ishikawa
hay Abe Kobo, dù họ có ý thức theo bƣớc chân của thời kỳ hiện đại, thì thực
tế vẫn cho thấy một sức mạnh trong nỗ lực làm cho văn học Nhật Bản trở
thành một phần của văn học thế giới” [17;708].
Thomas Rimer cũng là một nhà nghiên cứu Nhật Bản học. Trong cuốn
A reader's guide to Japan's literature (Cách đọc văn học Nhật Bản, 1991),
ông đã cung cấp cho chúng ta một cách tiếp cận khá độc đáo về Abe Kobo:
“Trong những năm gần đây đã có nhiều bài viết về lối kể chuyện của
Marquez ở Trăm năm cô đơn, lối viết mà một số ngƣời gọi là "hiện thực kì
diệu". Marquez có thể tạo dựng các sự kiện vô lí đến tuyệt vời dù nó hoàn
toàn không thể xảy ra, và mô tả chúng một cách chính xác và giản dị, làm cho
chúng trở nên đáng tin cậy, giống nhƣ các cảnh "siêu hiện thực" của một họa
sĩ đƣơng đại là Richard Estes với đặc trƣng “làn sóng”. Abe sử dụng một số
kỹ thuật tƣơng tự. Mỗi cử chỉ, mỗi tƣ tƣởng, mỗi mô tả đều theo một cách tự
nhiên, chắc chắn. Tuy nhiên, sự hiểu biết đặc biệt này làm cho thế giới kì lạ
của những cồn cát trở nên không thể thực tế hơn. Ngƣời đọc, đơn giản nhƣ
Junpei, có thể nắm bắt một cách tự nhiên và theo thứ tự từng cảm giác, từng
sự kiện, nhƣng ý nghĩa lớn hơn vẫn không thể giải thích đƣợc một cách khó
hiểu. Theo một nghĩa, tất nhiên, đây là thông điệp của tiểu thuyết” [71;180].
10
Shuichi Kato trong bộ A history of Japanese Literature (Lịch sử văn
học Nhật Bản, ba tập, 1990) đồ sộ cũng đã dành nhiều trang đánh giá về Abe
Kobo cũng nhƣ tiểu thuyết Người đàn bà trong cồn cát – nhƣ một phần không
thể thiếu trong nền văn chƣơng xứ Phù Tang [63].
Trong số những tài liệu nƣớc ngoài gần đây mà chúng tôi có đƣợc, có
thể kể đến David Mitchell với Rereading: The women in the dunes by Abe
Kobo (Đọc lại “Ngƣời đàn bà trong cồn cát” của Abe Kobo, 2006). David cho
rằng đây là “một dụ ngôn về sự oán trách hoặc cứu rỗi”, “là một ẩn dụ cho
tình trạng vô phƣơng của con ngƣời” [11].
Tuy nhiên, tại Việt Nam, các công trình viết về ông và tác phẩm này
khá ít ỏi. Đây thực sự là một khó khăn và thách thức không nhỏ với chúng tôi
trong quá trình nghiên cứu.
Lời giới thiệu của bản dịch tác phẩm Người đàn bà trong cồn cát,
ngƣời dịch đã phác họa nhân sinh quan sáng tác khá rõ ràng của Abe Kobo
khi cho rằng “ông tiếp thu và chịu ảnh hƣởng sâu sắc các nhà tƣ tƣởng bậc
thầy của phƣơng Tây, có lẽ nhiều năm sống ở nƣớc ngoài và đời sống văn hóa
đƣơng đại của nó đã thôi thúc ông nghiên cứu các nhà triết học phƣơng Tây
nhƣ Heidegger, Jaspers và Nietzches…” [1]. Điều này phần nào đã định hình
cho chúng tôi cách tiếp cận tác phẩm này.
Năm 2011, tác giả Nguyễn Tuấn Khanh với bài viết Tình dục và nỗi cô
đơn qua các tiểu thuyết Nhật Bản in trên Tạp chí Nhà văn Tp. Hồ Chí Minh
đã điểm danh một số tác giả tên tuổi nhƣ Tanizaki, Mishima, Banana,
Murakami,… Về Abe Kobo (và Người đàn bà trong cồn cát), ông cho rằng
“Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe Kobo là nỗi lạc lõng về
thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế
giới kỳ quặc, và những con ngƣời gặp khó khăn trong việc hoà nhập với cộng
đồng (...) Abe Kobo không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tƣ tƣởng
11
mới lạ, kể cả khoa học viễn tƣởng và triết lý hiện sinh, chủ nghĩa siêu thực.
(...) Ông đã giải thích những vấn đề tâm sinh lý, ý thức và tiềm thức... để cố
gắng truyền đạt đến ngƣời đọc một cách cụ thể những bƣớc dấn thân vào cõi
nhục thể ở vùng sâu kín trong hay dƣới tầng ý thức. Ông đã sử dụng mọi dạng
cảm xúc của con ngƣời, từ niềm tự hào và nỗi sợ hãi, tới những khát khao tình
dục và cả những nỗi thất bại ê chề - tất cả, tất cả đều dồn vào nhân vật chính
trong câu chuyện, rồi thì qua đó mặc cho bạn đọc tiến hành một sự tự nhận
thức về sự phi lý của thân phận con ngƣời” [44]. Nguyễn Tuấn Khanh cũng
đồng thời ngợi ca ông nhƣ một trong những cây bút kiệt xuất của văn chƣơng
Nhật Bản trong chuyên luận xuất bản cùng năm có tên Những cây bút kiệt
xuất trong văn học Nhật Bản hiện đại [45].
Tác giả Mộc Các trong bài nghiên cứu “Người đàn bà trong cồn cát
hay là thảm kịch nhân sinh” cũng đã gặp gỡ nhiều nhà nghiên cứu khác khi
soi chiếu tác phẩm bằng triết học: “Ngƣời đọc sẽ trách cứ ngƣời viết là tại sao
phải dùng Martin Heidegger để soi chiếu với Abe Kobo. Thƣa rằng từ Abe
Kobo đến Oe Kenzaburo đều trải qua những tháng năm của chiến tranh thế
giới thứ hai nên dễ dàng thấm thía vị cay đắng giòn mỏng của thân phận con
ngƣời trong guồng quay của lịch sử. Và vì thế mà trong tác phẩm của mình,
họ xoáy sâu vào sự hiện sinh của con ngƣời là điều tất nhiên thôi” [3].
Từ một góc nhìn khác, Nguyễn Thái Dƣơng trong Sự gặp gỡ của một
số motip trong tiểu thuyết ―Giữa vòng vây trần gian‖ của Nguyễn Danh Lam
và ―người đàn bà trong cồn cát‖ của Abe Kobo, lại xem xét tác phẩm dƣới
góc độ mô típ nhân vật [21]. Đây là góc nhìn khá mới so với các bài nghiên
cứu khác.
Phạm Vũ Thịnh là một dịch giả ngƣời Việt Nam sống ở nƣớc ngoài.
Trong những năm gần đây, ngoài các tác phẩm dịch văn học Nhật Bản (đặc
biệt là các truyện ngắn của Murakami), thì những nghiên cứu, những bài giới
12
thiệu của ông về các tác giả đã góp phần không nhỏ tạo dựng nên một diện
mạo văn chƣơng Nhật ở Việt Nam. Với bài viết Abe Kobe: tác giả Nhật Bản
đương đại, ông là ngƣời đã bƣớc đầu chạm đến địa hạt trần thuật trong tác
phẩm của nhà văn khi khẳng định: “Abe Kobo chuộng lối văn khô khan
nhƣng hàm súc và khoa học, đối lập với lối văn ƣớt át, thấm đẫm tình cảm và
chủ quan vẫn tiếp tục đƣợc ƣa chuộng thời bấy giờ. Ông không ngừng thử
nghiệm những thủ pháp và tƣ tƣởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tƣởng, triết lý
hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực thần kỳ” [84]. Đây là những gợi mở rất quan
trọng với chúng tôi khi triển khai đề tài.
Ngoài những nghiên cứu trực tiếp nhƣ vừa kể trên, thì các bài viết nói
chung về văn học Nhật Bản từ cổ đến cận – hiện đại của các tác giả Lƣu Đức
Trung, Nhật Chiêu, Hà Văn Lƣỡng, Đào Thị Thu Hằng,… cũng đã cung cấp
cho chúng tôi một nhân sinh quan toàn diện về văn học Nhật Bản nói chung
và Abe Kobo nói riêng, sẽ là những gợi mở tích cực khi chúng tôi triển khai
đề tài này.
Nhƣ vậy, số lƣợng bài nghiên cứu, nhận định về tác giả Abe
Kobo và tác phẩm Người đàn bà trong cồn cát là khá hạn chế. Điều này vừa
bất lợi, lại vừa nhƣ chất men kích thích chúng tôi trong quá trình nghiên cứu,
nhằm hƣớng đến những miền đất chƣa đƣợc khai phá.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát những nét cơ bản về kết cấu nghệ thuật của một văn bản văn
học nhằm tạo cơ sở nghiên cứu kết cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết Người
đàn bà trong cồn cát.
Trên cơ sở khái niệm về ngƣời kể chuyện, cốt truyện, điểm nhìn và
giọng điệu, nhân vật nhƣ một phƣơng thức tự sự, không gian, thời gian trong
văn bản văn học; chúng tôi nghiên cứu các phƣơng diện trên trong tiểu thuyết
Người đàn bà trong cồn cát.
13
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là kết cấu nghệ thuật trong tiểu
thuyết Người đàn bà trong cồn cát của Abe Kobo biểu hiện ở ngƣời kể
chuyện, cốt truyện, điểm nhìn, giọng điệu, cách thức xây dựng nhân vật và
không gian, thời gian của tác phẩm. Xem xét điểm gặp gỡ và sáng tạo của ông
so với một số sáng tác khác đƣơng thời của cả Nhật Bản và trên thế giới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, luận văn dành sự quan tâm đến tiểu thuyết Người
đàn bà trong cồn cát do Nguyễn Tuấn Khanh dịch, NXB Văn học xuất bản
năm 2010. Đây là bản dịch mà theo chúng tôi là lột tả đƣợc một “tinh thần
Abe Kobo”. Bên cạnh đó chúng tôi đầu tƣ công sức cho các nghiên cứu về lí
thuyết ngƣời kể chuyện nhằm làm sáng tỏ những luận đểm mà chúng tôi đƣa
ra trong quá trình triển khai đề tài này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp cơ bản
sau:
- Phƣơng pháp thống kê phân loại.
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp.
- Phƣơng pháp so sánh văn học.
- Phƣơng pháp loại hình.
6. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
của chúng tôi gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Cốt truyện và Ngƣời kể chuyện nơi cồn cát.
Chƣơng 2: Nhân vật – con ngƣời nhỏ bé nơi cồn cát.
Chƣơng 3: Không gian, thời gian trong cồn cát.
14
CHƢƠNG 1. KẾT CẤU CỐT TRUYỆN VÀ NGƢỜI KỂ CHUYỆN
NƠI CỒN CÁT
Kết cấu nghệ thuật của tác phẩm văn học là cách tổ chức sắp xếp các
yếu tố trong tác phẩm thành một chỉnh thể nghệ thuật. Các yếu tố đó bao
gồm: Không gian, thời gian nghệ thuật, điểm nhìn, phƣơng thức xây dựng
nhân vật…Chính vì thế trong luận văn này chúng tôi tập trung khai thác các
yếu tố ấy để tìm ra giá trị nghệ thuật trong ngƣời đàn bà trong cồn cát của
Abe Kobo.
1.1. Cốt truyện kiểu cồn cát
Cốt truyện của Người đàn bà trong cồn cát hết sức đơn giản, nhƣ cát
chảy gió thổi mỗi ngày.
Về nội dung cốt chuyện, nhƣ chúng tôi đã tóm tắt trong phần mở đầu, có
thể sơ lƣợc rất ngắn nhƣ sau: Niki Jinpei đến cồn cát tìm kiếm côn trùng, bị
lạc, bị lừa bắt và khống chế ở lại để xúc cát tránh cho ngôi làng bị vùi lấp.
Anh cứ xúc cát mỗi ngày – trong khi vẫn nuôi dƣỡng ý định bỏ trốn, gần kết
thúc câu chuyện, Niki phát minh ra công cụ tích nƣớc, ngƣời phụ nữ đi cấp
cứu vì chửa ngoài dạ con, cái thang dây treo lủng lẳng trƣớc mặt, mở ra một
cơ hội trở về thế giới văn minh của anh. Vậy mà anh đã không leo lên, mở ra
một kết thúc bỏ ngỏ nhiều suy đoán.
Cuốn truyện kết thúc bằng một án lệnh của tòa tuyên bố ngƣời đàn ông
đã chết sau bảy năm có tên trên danh sách ngƣời bị mất tích, để lại cho ngƣời
đọc một câu hỏi lớn “tại sao Niki chọn ở lại” - ở thời điểm đó. Và, liệu sau đó
anh có trở về với “thế giới văn minh” nơi anh có nghề nghiệp và đóng bảo
hiểm đàng hoàng hay không?
Đó là toàn bộ diễn biến câu chuyện là nhƣ vậy, còn chuyện hàng ngày là:
15
xúc cát và xúc cát.
Theo Christopher Booker, từ xƣa đến nay có bảy loại cốt truyện cơ bản
là: Chống lại quái vật (overcoming the monster), nghèo hóa giàu (rags to
riches), cuộc tìm kiếm (the quest), chu du và trở về (voyage and return), hài
kịch (comedy), bi kịch (tragedy), tái sinh (rebirth) [9].
Đọc lại Người đàn bà trong cồn cát, chúng ta không biết xếp cốt truyện
của Abe vào dạng nào? Thực ra có lẽ sắp xếp lại trật tự, ta có thể thấy cốt
truyện của Abe diễn tiến theo bảy trình tự - chứ không phải là một trong bảy
kiểu cốt truyện kể trên, nhƣ sau:
1. Cuộc tìm kiếm (the quest): Niki – vốn là một giáo viên dạy toán – đi
vào xứ cát để tìm côn trùng, thỏa mãn niềm đam mê của một tay sƣu tầm
nghiệp dƣ. Việc tìm kiếm này, mở đầu cho một hành trình nhiều hỉ nộ ái ố sau
này trong cuộc sống của anh.
2. Hài kịch (comedy): Bất ngờ bị lỡ chuyến xe buýt cuối cùng trong ngày
về thành phố, Niki lạc đƣờng. Một lí do tƣởng chừng nhƣ vớ vẩn, nhƣng lại
dẫn Niki đến bi kịch sau này.
3. Bi kịch (tragedy): Bị dân làng giả vờ đƣa đi tìm chỗ ngủ trọ nhƣng kì
thực là lừa xuống căn nhà dƣới sâu hố cát – với mục đích biến anh thành một
tù nhân lao động khổ sai vĩnh viễn với công việc hàng ngày là xúc cát. Chồng
của thiếu phụ chủ căn nhà ấy mới chết, vì vậy, anh là một nhân công thay thế
bất đắc dĩ. Căn nhà đó đƣợc coi là tiền đồn của ngôi làng, nếu nó bị cát vùi
lấp thì cả làng sẽ bị vùi theo.
4. Chống lại quái vật (overcoming the monster): Cát là một con quái vật
theo đúng nghĩa đen, một con trằn tinh bảy đầu, chặt đầu này mọc đầu khác.
Cát theo gió không ngừng tuôn chảy, nuốt chửng mọi thứ mà nó đi qua. Niki
phải làm một công việc vô vọng là ngày ngủ, đêm đêm chờ cát ẩm để xúc và
đổ đi, để ngày hôm sau, lại một lƣợng cát nhƣ thế đổ về, xúc tiếp và xúc mãi.
16
5. Chu du và trở về (voyage and return): Trong chuyến chu du đến vùng
cát tìm bắt côn trùng, chính Niki bị bắt, cam chịu lao động khổ cực và phi lí
nhƣng chƣa bao giờ bế tắc và thôi nuôi hi vọng đƣợc trở về. Hàng ngày, vừa
lao động, anh vừa lên kế hoạch bỏ trốn, thoát khỏi sự phi lí cùng cực mà anh
ngẫu nhiên vƣớng phải.
6. Nghèo hóa giàu (rags to riches): Khái niệm giàu nghèo ở đây mang ý
nghĩa tinh thần nhiều hơn. Sống cuộc đời vô nghĩa của một con dã tràng xe
cát, anh vẫn không ngừng suy nghĩ, tìm hiểu và đã trải nghiệm đƣợc nhiều
điều về nhân sinh quan, về sự tồn tại vô nghĩa của kiếp ngƣời, và đỉnh cao của
sáng tạo trong những ngày sống trong nghèo đói cả về vật chất lẫn tinh thần
ấy là anh phát minh ra cái bẫy nƣớc. Với dân vùng cát, vàng hay kim cƣơng
cũng không thể so với nƣớc. Nƣớc là nguồn sống của con ngƣời nhƣng lại là
thứ cực kì hiếm hoi nơi cát bỏng này. Việc phát minh ra cái bẫy nƣớc mang
lại cho anh giá trị tinh thần về sự chiến thắng chính bản thân và vƣợt lên hoàn
cảnh, nhƣng có thể mang lại ý nghĩa tái sinh và giàu có theo nghĩa đen của
ngƣời dân vùng cát.
7. Tái sinh (rebirth): Kết thúc câu chuyện để ngỏ ra một khả năng trở về
của Niki khi ngƣời thiếu phụ đi cấp cứu và cái thang dây không đƣợc rút lên
nhƣ mọi khi. Nhƣng anh lại không có ý định vội vàng chạy trốn. Anh nghĩ về
cái bẫy nƣớc, về một khả năng tái sinh cho vùng đất cát khô cằn này. Và tái
sinh một con ngƣời mới trong anh với suy nghĩ mới, quan niệm mới và kì
vọng mới.
Nhƣ vậy cốt truyện của Người đàn bà trong cồn cát là sự giao thoa của
cả bảy kiểu cốt truyện, từ truyền thống đến hiện đại, theo nhƣ quan niệm của
Christopher Booker. Sự giao thoa này đặc trƣng cho kiểu cốt truyện mà chủ
nghĩa hiện sinh nhân văn theo đuổi. Nhiều thập kỉ sau, ta có thể thấy điều này
trong sáng tác của nhà văn đồng hƣơng đƣợc giải Nobel năm 1994 Oe
- Xem thêm -