Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Hồ chí minh với cách mạng trung quốc giai đoạn 1920 1945...

Tài liệu Hồ chí minh với cách mạng trung quốc giai đoạn 1920 1945

.PDF
94
1
94

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ NGỌC NGÂN HỒ CHÍ MINH VỚI CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN 1920 - 1945 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành: Đại học Sư phạm Lịch sử - GDCD Phú Thọ, năm 2018 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ NGỌC NGÂN HỒ CHÍ MINH VỚI CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN 1920 - 1945 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành: Đại học Sư phạm Lịch sử - GDCD Giảng viên hướng dẫn: TS. TRẦN VĂN HÙNG Phú Thọ, năm 2018 3 LỜI CAM KẾT “Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm đạo đức trong học thuật tôi cam kết rằng nghiên cứu này do tôi thực hiện bảo đảm bảo trung thực và không vi phạm về đạo đức trong học thuật”. 4 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu Trường Đại học Hùng Vương, các phòng ban trong trường đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy, cô giáo trong khoa Khoa học xã hội và nhân văn Trường Đại học Hùng Vương đã tạo điều kiện thuận lợi và trang bị kiến thức cho em trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng thành kính và biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn TS. Trần Văn Hùng đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo tận tình em trong suốt thời gian thực hiện khóa luận. Em xin trân thành cảm ơn Thư viện quốc gia Việt Nam, Thư viện tỉnh Phú Thọ, Thư viện Trường Đại học Hùng Vương đã tạo điều kiện cho em tìm kiếm tài liệu phục vụ cho việc hoàn thiện khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn! Phú Thọ, tháng 5 năm 2018 Sinh viên Nguyễn Thị Ngọc Ngân i MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết ................................................................................................. 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..................................................................... 2 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................... 5 3.1. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................... 5 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 5 4.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................. 5 4.2 Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 5 6. Cấu trúc khóa luận.......................................................................................... 6 NỘI DUNG ........................................................................................................ 7 Chương 1. HỒ CHÍ MINH VỚI CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC THÔNG QUA CÁC TÁC PHẨM LÝ LUẬN GIAI ĐOẠN 1920-1945 ..................................... 7 1.1. Khái quát về tiểu sử và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh .................. 7 1.1.1. Quê hương, gia đình, thời niên thiếu và những hoạt động yêu nước đầu tiên (1890-1911)................................................................................................. 7 1.1.2. Sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh trong giai đoạn (1911-1945)..... 11 1.2. Khái quát tình hình cách mạng Trung Quốc đầu thế kỷ XX....................... 13 1.2.1 Khái quát về đất nước Trung Quốc .......................................................... 13 1.2.2. Tình hình cách mạng Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX ........................... 14 1.3. Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc thông qua các tác phẩm lý luận giai đoạn 1920-1945 ......................................................................................... 16 1.3.1. Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc thông qua các tác phẩm lý luận giai đoạn 1920-1930 ......................................................................................... 16 1.3.2. Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc thông qua các tác phẩm lý luận giai đoạn 1930-1945 ......................................................................................... 23 ii 1.3.3.Giá trị các tác phẩm lý luận của Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc giai đoạn 1920-1945 ......................................................................................... 28 * Tiểu kết chương 1.......................................................................................... 32 Chương 2. HỒ CHÍ MINH VỚI CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC THÔNG QUA CÁC HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN GIAI ĐOẠN 1920-1945 ............................ 34 2.1. Nguyễn Ái Quốc với cách mạng Trung Quốc giai đoạn 1924 -1927 .......... 34 2.1.1. Con đường đến Quảng Châu (Trung Quốc) của Nguyễn Ái Quốc .......... 34 2.1.2. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong phong trào nông dân Trung Quốc ... 36 2.1.3. Tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ........................... 40 2.1.4. Sát cánh chiến đấu cùng với giai cấp công nhân Trung Quốc ................. 42 2.1.5. Kêu gọi Quốc dân đảng thực hiện chính sách của Tôn Trung Sơn, ủng hộ các dân tộc nhược tiểu, chống chủ nghĩa đế quốc ............................................. 44 2.2. Nguyễn Ái Quốc với cách mạng Trung Quốc thời kỳ 1938-1941 .............. 46 2.2.1. Cuộc vận động giúp nhân dân Trung Quốc kháng chiến chống phát xít Nhật xâm lược .................................................................................................. 46 2.2.2. Ủng hộ phong trào công nhân Trung Quốc trong chiến tranh chống Nhật... 48 2.2.3. Nguyễn Ái Quốc tham gia Bát lộ quân của Giải phóng quân Trung Quốc .. 49 * Tiểu kết chương 2.......................................................................................... 52 Chương 3. Ý NGHĨA NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỒ CHÍ MINH Ở TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN 1920-1945....................................................................... 54 3.1. Bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin ............................................... 54 3.2. Đối với cách mạng Trung Quốc................................................................. 56 3.2.1. Thức tỉnh, cổ vũ phong trào cách mạng Trung Quốc .............................. 56 3.2.2. Phát huy vai trò của Quốc tế cộng sản đối với cách mạng Trung Quốc... 57 3.2.3. Xây đắp tình hữu nghị thân thiết giữa những người đồng chí quốc tế ..... 60 3.3. Đối với cách mạng Việt Nam .................................................................... 64 3.3.1. Vận dụng những kinh nghiệm từ thực tiễn cách mạng Trung Quốc vào cách mạng Việt Nam ........................................................................................ 64 3.3.2. Đoàn kết cách mạng Trung Quốc với cách mạng Việt Nam và thế giới .. 67 iii 3.4. Bảo tồn và phát huy giá trị những di tích lịch sử gắn với hoạt động của Hồ Chí Minh ở Trung Quốc giai đoạn 1920-1945 .................................................. 71 3.4.1. Những dấu tích hoạt động của Hồ Chí Minh trên đất Trung Quốc giai đoạn 1920-1945 ............................................................................................... 71 3.4.2. Phát huy giá trị các di tích, thúc đẩy đoàn kết Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn hiện nay ................................................................................................... 75 * Tiểu kết chương 3.......................................................................................... 79 KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ ................................................................................. 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 83 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19-5-1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Truyền thống quê hương và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, tháng 6 năm 1911, Người ra tìm tìm đường cứu nước cho dân tộc. Người đã đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa mình với những phong trào của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Người đã nhận rõ đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Kể từ đây Người đi theo con đường cách mạng vô sản, tích cực tham gia vào phong trào Quốc tế Cộng sản. Trong cuộc đời sự nghiệp cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm tại nhiều sự kiện quan trọng của thế giới, đấu tranh và giúp đỡ cách mạng của nhiều quốc gia, dân tộc bị áp bức trên thế giới. Đặc biệt là Trung Quốc, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và hoạt động lâu nhất, tổng số thời gian hơn 10 năm, không kể những lần đi thăm sau này. Người đã ở Trung Quốc trong những năm: 1924-1927; 1930-1934; 1938-1940. Với những đóng góp của Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam và thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu sưu tầm về cuộc đời và sự nghiệp của Người. Tuy nhiên, những nghiên cứu này đa số chỉ đi sâu tìm hiểu đến sự nghiệp và vai trò của Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam mà chưa chú trọng đến những đóng góp của Hồ Chí Minh với cách mạng của các quốc gia và dân tộc khác trong thời kỳ Người hoạt động ở nước ngoài, đặc biệt là đất nước Trung Quốc trong giai đoạn 1920-1945. Việc nghiên cứu vấn đề Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc giai đoạn 1920-1945 là rất quan trọng, góp 2 phần làm rõ những đóng góp của Người với cách mạng Trung Quốc thông qua các tác phẩm lý luận, các hoạt động thực tiễn. Từ đó đánh giá về những đóng góp của Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc trong giai đoạn 1920-1945. Xuất phát từ mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc hiện nay, hai nước không ngừng củng cố, phát triển quan hệ chính trị - ngoại giao hữu nghị, hợp tác nhưng không tránh khỏi những thách thức, đòi hỏi sự nỗ lực hợp tác giải quyết từ hai phía. Việc nghiên cứu những đóng góp của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Trung Quốc, phần nào khẳng định mối quan hệ lâu đời giữa cách mạng Việt Nam và Trung Quốc nói chung và cá nhân Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc nói riêng. Việc bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử gắn với hoạt động của Hồ Chí Minh trên đất nước Trung Quốc, tạo cơ sở đoàn kết, giữ vững tình hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, việc nghiên cứu vấn đề Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc trong giai đoạn 1920-1945 còn góp phần bổ sung tư liệu lịch sử về Chủ tịch Hồ Chí Minh, lịch sử Việt Nam hiện đại trong công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu. Với những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc giai đoạn 1920 - 1945” làm hướng nghiên cứu cho đề tài khóa luận của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Về cuộc đời và sự nghiệp của chủ tịch Hồ Minh là vô cùng lớn lao, được nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân thế giới nói chung rất kính trọng. Đã có nhiều công trình khoa học và nhiều tác phẩm đề cập đến những mức độ khác nhau của vấn đề: “Hồ Chí Minh toàn tập 1,2,3,4” đã sưu tầm tổng hợp những bài báo, thư từ, bài diễn văn, bản báo cáo, và các bài trả lời phỏng vấn truyền thông, báo chí trong và ngoài nước của Hồ Chí Minh, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản vào năm 1980. Với những tư liệu quý giá này về Hồ Chí Minh đã để lại ý nghĩa to lớn với các nhà nghiên cứu hiện nay. Bộ sách đã tập hợp được một số bài viết, bài báo của Hồ Chí Minh có đề cập đến cách mạng Trung Quốc, 3 tuy nhiên chưa hệ thống được một cách đầy đủ và đánh giá về giá trị những tác phẩm đó của Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc. “Hồ Chí Minh toàn tập 1,2” do nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội in ấn và phát hành năm 2000. Cuốn sách tập hợp phần lớn những tác phẩm, bài nói, bài viết quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1919 đến năm 1969 đã sưu tầm và xác minh được. Đây là một tài sản tinh thần vô giá của toàn Đảng, toàn dân ta, là sự phản ánh sinh động, sâu sắc cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Tác phẩm “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam” do Võ Nguyên Giáp chủ biên, xuất bản năm 2000, trình bày hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết lại. Trong Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng đã nêu rõ: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động". Giáo trình được biên soạn khá chi tiết, chính xác phục vụ cho học tập và các công trình nghiên cứu. Đối với vấn đề Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc, tác phẩm đã phần nào đề cập đến tư tưởng của người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng đoàn kết quốc tế,... tuy nhiên tác phẩm chưa đi sâu nghiên cứu những tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh có ý nghĩa như thế nào đối với cách mạng Trung Quốc, vì vậy cần phải làm sáng tỏ vấn đề này. “Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc” do nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật Hà Nội xuất bản năm 2015, cuốn sách đã cung cấp các tư liệu, hình ảnh chân thực và sinh động quan hệ mật thiết giữa chủ tịch Hồ Chí Minh với lãnh đao, nhân dân Trung Quốc. “Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh những tác phẩm tiêu biểu (từ 1919 đến 1945)” của Phong Lê và Trần Hữu Tá do Nhà xuất bản giáo dục in ấn và phát hành năm 2000, cuốn sách đã tuyển chọn, biên soạn, giới thiệu đến người đọc những tác phẩm, bài viết của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1919 đến 1945. “Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu (1924-1927)” của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn, nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội năm 4 1998, cung cấp các tư liệu, thông tin chi tiết về những hoạt động của Hồ Chí Minh thời kỳ sống và làm việc tại Quảng Châu. Dựa vào những tài liệu mới sưu tầm được, thừa hưởng những thành quả nghiên cứu trước đây các tác giả đã làm sống lại những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ 1924-1927. “Hành trình theo chân Bác (1911-1941)”, do Bảo tàng Hồ Chí Minh biên soạn và được Nhà xuất bản Thanh niên in ấn và phát hành năm 2015, cung cấp các thông tin sự kiện một cách chi tiết về các hoạt động của Hồ Chí Minh trên chặng đường bôn ba tìm đường cứu nước. Một tác phẩm “Hành trình theo chân Bác” nữa của Trần Đức Tuấn, do Nhà xuất bản trẻ hãng phim truyền hình thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2016, cung cấp các thông tin, sự kiện trên hành trình cứu nước của Người từ năm 1911 khi rời bến cảng Nhà Rồng cho đến năm 1945. “Hồ Chí Minh nhà văn hóa kiệt xuất” của giáo sư Song Thành do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật Hà Nội năm 2015, cung cấp các thông tin về các bài viết các tác phẩm tiêu biểu của chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp của Người. Thông qua các bài viết, các tác phẩm, tác giả đã có những đánh giá, nhận định xác đáng về tư tưởng, tầm nhìn của Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có các cuốn sách sau đây: Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành (1890-1911), Người đi tìm hình của nước (1911-1930), Đường về tổ quốc (1941-1945), Hồ Chí Minh hành trình 79 mùa xuân do các tác giả Nguyễn Văn Dương và Đỗ Hoàng Linh sưu tầm, biên soạn theo lối biên niên, thời gian khi Người sinh ra (1890), ra đi tìm đường cứu nước (1911) rồi trở về tổ quốc (1941)... Còn có rất nhiều công trình, tác phẩm nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của chủ tịch Hồ Chí Minh, tuy nhiên vấn đề Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc trong giai đoạn 1920 – 1945 thì chưa có công trình, tác giả nào nghiên cứu chuyên sâu đến. Vì vậy, để làm rõ những đóng góp của Hồ Chí Minh về lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Trung Quốc, ý nghĩa của những hoạt động đó đối với cách mạng Trung Quốc, Việt Nam và thế giới, tôi chọn vấn đề “Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc 1920 - 1945” làm đề tài nghiên cứu của mình. 5 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu của đề tài là làm rõ những đóng góp của Hồ Chí Minh về mặt lý luận và hoạt động thực tiễn đối với cách mạng trung Quốc. Qua đó, đánh giá giá trị những hoạt động đó của Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc, cách mạng Việt Nam và vấn đề bảo tồn phát huy giá trị các di tích lịch sử gắn li 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống, phân tích, đánh giá những đóng góp của Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc thông qua các tác phẩm lý luận. - Hệ thống, phân tích, đánh giá những đóng góp của Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc thông qua các hoạt động thực tiễn. - Đề xuất các giải pháp giải pháp bảo tồn những di tích gắn với hoạt động của Hồ Chí Minh ở Trung Quốc, phục vụ xây dựng mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu về những đóng góp của Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc thông qua các tác phẩm lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh giai đoạn 1920-1945. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi thời gian: 1920-1945 5. Phương pháp nghiên cứu *Phương pháp chuyên ngành Phương pháp lịch sử: Phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu nhìn nhận các sự kiện, hiện tượng, quá trình phát sinh, phát triển và kết thúc, đặt trong mối quan hệ với hoàn cảnh khi sự kiện hiện tượng xảy ra. Phương pháp lịch sử giúp phục dựng khách quan, chân thực sự kiện lịch sử, hiện tượng. Trong đề tài tôi sử dụng phương pháp lịch sử để khôi phục tình hình cách mạng Trung Quốc và những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc giai đoạn 1920-1945 6 Phương pháp logic: Đây là phương pháp nghiên cứu các sự kiện hiện tượng trong mối quan hệ trung nhằm rút ra bản chất, quy luật sự kiện, hiện tượng để đi đến nhận định đánh giá về sự kiện đó. Tôi sử dụng phương pháp này để tìm hiểu đóng góp về lý luận của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Trung Quốc, qua đó thấy được những đóng góp của Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc. Từ đó đề xuất những giải pháp bảo toàn và phát huy giá trị các di tích lích sử gắn với Hồ Chí Minh ở Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay. *Phương pháp liên ngành Bên cạnh đó tôi còn sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, so sánh, sưu tầm, chọn lọc tài liệu nhằm giải quyết các mục tiêu mà đề tài đặt ra. Trên cơ sở đó đưa ra kết luận khoa học chính xác về nội dung nghiên cứu. 6. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận được trình bày theo ba chương: Chương 1: Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc thông qua các tác phẩm lý luận giai đoạn 1920-1945 Chương 2: Hồ Chí Minh với cách mạng Trung Quốc thông qua các hoạt động thực tiễn giai đoạn 1920-1945 Chương 3: Ý nghĩa những hoạt động của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Trung Quốc giai đoạn 1920-1945 7 NỘI DUNG Chương 1 HỒ CHÍ MINH VỚI CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC THÔNG QUA CÁC TÁC PHẨM LÝ LUẬN GIAI ĐOẠN 1920-1945 1.1. Khái quát về tiểu sử và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh 1.1.1. Quê hương, gia đình, thời niên thiếu và những hoạt động yêu nước đầu tiên (1890-1911) Hồ Chí Minh (tên tự là Nguyễn Sinh Cung), sinh ngày 19-5-1890, tại làng Hoàng Trù (còn gọi là làng Trùa), thuộc xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Phụ thân của Nguyễn Sinh Cung là ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh năm 1862. Do cha mẹ mất sớm, từ nhỏ Nguyễn Sinh Sắc đã phải chăn trâu cắt cỏ giúp anh. Mặc dù cuộc sống khó khăn, vất vả nhưng Nguyễn Sinh Sắc rất ham mê học tập trong làng ai cũng khen. Tiếng đồn lan khắp xã, cụ Hoàng Xuân Đường thương một thiếu niên mồ côi, quí đức tính cần cù, ham học, lại hiểu rõ gia cảnh của Nguyễn Sinh Sắc, xin đem về nuôi, cho ăn học. Thấy Nguyễn Sinh Sắc say mê học hành, chăm chỉ lao động, năm 1883, cụ Hoàng đã không câu nệ tập tục phong kiến, cho Nguyễn Sinh Sắc kết hôn với người con gái đầu Hoàng Thị Loan, dựng cho hai vợ chồng một căn nhà nhỏ ba gian ở góc vườn. Ông Sắc vừa giúp vợ làm ruộng, vừa học tập, bà Loan có thêm nghề dệt vải để lo cuộc sống gia đình. Bà là phụ nữ cần mẫn đảm đang, giàu lòng thương người. Trong căn nhà ấm cúng đó, năm 1884, bà Hoàng Thị Loan sinh con gái đầu lòng Nguyễn Thị Thanh; năm 1888 sinh con thứ hai là Nguyễn Sinh Khiêm. Nguyễn Sinh Cung là con thứ ba trong gia đình. Những người con của ông Nguyễn Sinh Sắc lớn lên đều chịu ảnh hưởng của ông bà, cha mẹ, chăm công việc và rất thương người. Năm 1894, ông Nguyễn Sinh Sắc đậu cử nhân kỳ thi hương tại trường thi Nghệ An. Hồi đó những người đỗ cử nhân, tú tài được cả làng, cả xã kính nể, nên có người thường coi mình cao hơn người khác, nhưng ông cử nhân Nguyễn 8 Sinh Sắc thì vẫn giữ nếp sống và thái độ cư xử thân mật, gần gũi với bà con trong xóm, ngoài làng. Sau khi đỗ cử nhân năm 1895 ông Nguyễn Sinh Sắc vào Huế thi hội, nhưng năm đó ông không đỗ. Quyết chí học hành cho đến nơi đến chốn, ông xin vào học trường Quốc Tử Giám lúc bấy giờ đặt làng An Ninh Thượng, cách thành phố Huế 7 km về phía Tây. Hồi đó những người ở tỉnh xa vào học Quốc Tử Giám phải khá giả mới có tiền trọ học. Còn những người nghèo thường phải đưa cả gia đình đi theo để vừa học vừa kiếm sống nuôi nhau. Cuối năm 1895, ông Sắc trở về làng đưa vợ và hai con trai vào Huế. Năm 1898, khoa Mậu Tuất, ông Sắc dự thi hội lần thứ hai nhưng vẫn không đỗ. Cuộc sống gia đình càng thêm chật vật, khó khăn. Được một người quen giới thiệu, ông Nguyễn Sinh Sắc về dạy học ở làng Dương Nỗ, cách thành phố Huế 6 km về phía Đông (nay thuộc xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Chính tại làng Dương Nỗ, Nguyễn Sinh Cung bắt đầu học chữ Hán, tập viết chữ trong cuốn sách Tập đồ hàng tư. Với trí nhớ tốt, các bài học Nguyễn Sinh Cung chỉ đọc ba bốn lần là thuộc. Năm 1900, Nguyễn Sinh Sắc được cử đi coi thi ở Trường thi hương Thanh Hóa. Ông đưa Nguyễn Sinh Khiêm cùng đi để đỡ đần ông, còn Nguyễn Sinh Cung thì về sống với mẹ trong nội thành Huế. Cuối năm 1900, bà Hoàng Thị Loan sinh người con thứ tư. Cha và anh đi vắng, Nguyễn Sinh Cung vừa tự học, vừa giúp mẹ chăm sóc em mà bà con thường gọi là bé Xin, nhưng bé Xin quá yếu cũng qua đời sớm. Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tí (tức ngày 10-2 năm 1901) bà Hoàng Thị Loan lâm bệnh và đột ngột qua đời ở Huế. Được tin vợ qua đời, ông Nguyễn Sinh Sắc vội vã trở lại Huế, đưa con về quê. Trở lại quê hương, ông Nguyễn Sinh Sắc thu xếp tạm ổn cuộc sống cho các con, nghe lời khích lệ của bà con trong họ, ngoài làng, ông lại tạm biệt quê hương, vào Huế dự kì thi hội năm Tân Sửu đời Thành Thái thứ 13 (tức năm 1901). Lần đi thi này ông mang tên mới là Nguyễn Sinh Huy. Ở lại quê hương Nguyễn Sinh Cung được bà ngoại gửi đi học chữ Hán. 9 Tại khoa thi năm đó ông Nguyễn Sinh Huy đỗ phó bảng. Mấy tháng sau theo tục lệ thời ấy, ông Nguyễn Sinh Huy đưa ba người con về sống ở Kim Liên, quê nội. Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung, thế hệ thứ mười hai kể từ khi dòng họ Nguyễn Sinh sống ở làng, được làm lễ vào làng với tên gọi mới là Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành. Ông Nguyễn Sinh Huy quyết định gửi Nguyễn Tất Thành sang học với thầy Vương Thúc Quý đang mở lớp chữ Hán cho một số thiếu niên trong làng. Thầy Quý tuy đỗ cử nhân nhưng không ra làm quan. Ông muốn Nguyễn Tất Thành được học chữ của thầy, nhưng điều quan trọng hơn, đó là học lòng yêu nước thương dân của thầy Quý. Nhà thầy Quý còn là nơi lui tới của các sĩ phu yêu nước trong vùng. Nhiều khi Nguyễn Tất Thành được thầy sai tiếp nước cho những vị khách đặc biệt ấy, nhờ đó cậu thiếu niên Tất Thành dần dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt của các bậc cha chú trước cảnh nước mất nhà tan. Lớn dần lên, càng đi vào cuộc sống của nhân dân, Nguyễn Tất Thành càng thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước. Thuế khóa vốn đã nặng nề lại còn thêm thủ đoạn ăn cuớp trắng trợn và dã man của bọn hào lý. Cùng với thuế khóa là nạn bắt phu đi xây dựng thị xã Vinh, phu đi mở mang hệ thống đường giao thông trong tỉnh để thực dân Pháp có điều kiện thuận lợi vơ vét tài nguyên và ở đâu có nổi dậy đấu tranh thì nhanh chóng điều quân đi đàn áp. Tháng 9-1905, thực hiện Nghị định của Toàn quyền Đông Dương, loại trường Pháp – bản xứ (école franco-indigène) đuợc mở tại Vinh, tỉnh lỵ của Nghệ An, với lớp đầu tiên của bậc tiểu học, thường gọi là lớp (curs préparatoire). Chương trình học nặng về tiếng Pháp, chỉ còn một số ít học chữ Hán. Nguyễn Tất Thành được phụ thân cho đi học ở Vinh Tại trường tiểu học Vinh, Nguyễn Tất Thành chú ý đến ba từ được sơn vào gỗ, gắn ở phía trên bảng đen “LIBERTé, éGALITé, FRATERNITé” (Tự doBình đẳng- Bác ái). Nguyễn Tất Thành tìm hiểu và biết đó là khẩu hiệu nổi tiếng của đại cách mạng Pháp năm 1789. Đối với Nguyễn Tất Thành, đó là những điều hoàn toàn mới lạ, khác với những điều mà đã học trong sách vở thánh 10 hiền…, vì vậy rất tự nhiên nảy ra ý muốn “tìm hiểu những gì ẩn dấu trong những từ ấy”. Nhưng chưa hết năm học khoảng cuối tháng 4 năm 1906, Nguyễn Tất Thành phải nghỉ học để chuẩn bị cùng cha lên đường vào Huế. Vào Huế, cùng với anh, Nguyễn Tất Thành phải học lại lớp dự bị ở trường tiểu học Pháp - Việt Đông Ba, niên khóa 1906-1907 và tiếp theo đó học lớp sơ đẳng vào năm 1907-1908 với tên mới là Nguyễn Sinh Côn. Năm học 1908-1909, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt chuyển sang học trường Quốc Học Huế. Tuy vốn tiếng Pháp còn ít ỏi, Nguyễn Tất Thành bắt đầu tiếp xúc với sách báo Pháp, bao gồm cả sách báo mượn của những người lính lê dương trong quân đội Pháp. “Những người lính lê dương này đọc đủ thứ. Họ là những kẻ chống đối về bản chất” . Sau khi tham gia cuộc biểu tình chống thuế, Nguyễn Tất Thành bắt đầu bị bọn cảnh sát theo dõi và nhà trường để ý đến. Cuối năm 1909, Nguyễn Tất Thành rời trường Quốc học, theo phụ thân vào Bình Định. Đến Bình Khê, Nguyễn Tất Thành được gửi học tiếp chương trình lớp nhất (cours supéricur) với thầy giáo Phạm Ngọc Thọ lúc ấy đang dạy ở truờng tiểu học Pháp - Việt Quy Nhơn. Ông hiểu khả năng và chí hướng người con trai thứ của mình, nên đã tạo điều kiện cho anh tiếp tục học lên. Tháng 1-1910, Nguyễn Tất Thành được một tin không vui, ông Nguyễn Sinh Huy bị “triệu hồi” chức tri huyện Bình Khê, bị triều đình gọi “lại kinh hậu cứu” (trở về kinh đô để xem xét sau). Với sự giúp đỡ của thầy giáo Phạm Ngọc Thọ, Nguyễn Tất Thành hoàn thành chương trình tiểu học vào khoảng tháng 6-1910. Trước biến cố mới của gia đình, anh không theo cha trở về Huế mà quyết định đi tiếp xuống phía Nam. Nguyễn Tất Thành đến Phan Thiết vào cuối tháng 8-1910. Nhờ gặp được một người có mối quan hệ từ trước với phụ thân, anh được giới thiệu vào làm trợ giáo môn thể dục tại Trường Dục Thanh, đúng vào dịp nhà trường mới khai giảng. Đầu tháng 2-1911, thầy giáo Nguyễn Tất Thành rời Phan Thiết vào Sài Gòn. Anh ở tạm trú tại các chi nhánh của Liên Thành công ty đặt tại Sài Gòn, 11 như nhà số 3, đường Tổng đốc Phương (nay là số 5, đường Châu Văn Liêm); nhà số 128, Khánh Hội, v.v.. Ngày 3-6-1911, một thủy thủ của tàu dẫn Nguyễn Tất Thành, với tên mới là Văn Ba, lên tàu gặp thuyền trưởng Maixen (Maisen) và được nhận vào làm phụ bếp trên tàu. Ngày 5-6-1911, tàu Amiran Latusơ Tơrêvin rời bến cảng Sài Gòn đi Mácxây (Marseille), mang theo một người thanh niên Việt Nam đầy lòng yêu nước, thương dân, ôm ấp một hoài bão lớn lao: tìm hiểu nền văn minh của thế giới, ra sức học hỏi để về giúp nước. Một giai đoạn mới, một bước ngoặt mới mở ra trong cuộc đời Nguyễn Tất Thành. 1.1.2. Sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh trong giai đoạn (1911-1945) Với tinh thần yêu nước nồng nàn, với sự sáng suốt về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước hồi bấy giờ và quyết tâm đi tìm con đường đúng đắn để cứu dân, cứu nước. Tháng 6-1911, Người ra nước ngoài, đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa mình với những công nhân và những người dân thuộc địa, vừa lao động để sống, vừa học tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, thắng lợi vang dội của cách mạng tháng Mười Nga đã đưa Hồ Chủ tịch đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Ra sức nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã nhận rõ đường lối duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Cùng năm ấy, Người thành lập Hội những người Việt Nam yêu nước để tập hợp Việt Kiều ở Pháp. Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp và hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Đầu năm đó, Người gửi đến Hội nghị Versailles (Pháp) "Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam", đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do và bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Tháng 12-1920, trong Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện trên đây đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, bước từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản. 12 Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa và năm 1922 xuất bản báo "Người cùng khổ" (Le Parie) ở Pháp. Tháng 6-1923, Người từ Pháp đi Liên Xô, nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tham gia công tác của Quốc tế cộng sản. Cùng năm đó, Người được bầu vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế nông dân. Năm 1924, người dự Đại hội lần thứ 5 của Quốc tế cộng sản và được cử làm Ủy viên Bộ phương Đông, phụ trách Cục phương Nam, hướng dẫn và xây dựng phong trào cách mạng và phong trào Cộng sản ở các nước Đông - Nam châu Á. Năm 1925, Người thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông. Tháng 6-1925, Người tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, mà hạt nhân là Cộng sản Đoàn, đồng thời ra báo Thanh niên và mở lớp huấn luyện, đào tạo hàng trăm cán bộ đưa về nước hoạt động. Ngày 3-2-1930, Người triệu tập hội nghị hợp nhất tại Cửu Long (Hương Cảng) để thống nhất các nhóm cộng sản trong nước thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian từ 1930 đến 1940, Người ở nước ngoài tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những chỉ thị quý báu cho Ban chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Người về nước triệu tâp hội nghị lần thứ tám của Ban chấp hành Trung ương Đảng, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), gấp rút xây dựng lực lượng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 22-12-1944, Người chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay và xây dựng căn cứ địa cách mạng. Tháng 8-1945, trong không khí sôi sục cách mạng của thời kỳ tiền khởi nghĩa, Người cùng Trung ương triệu tập đại hội quốc dân ở Tân Trào. Đại hội đã cử Người làm chủ tịch Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng 13 hòa. Người đã phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 2-9-1945, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước nhân dân cả nước và nhân dân toàn thế giới thành lập nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. 1.2. Khái quát tình hình cách mạng Trung Quốc đầu thế kỷ XX 1.2.1 Khái quát về đất nước Trung Quốc Trung Quốc có tên chính thức là Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, bắt nguồn từ một trong những văn minh cổ nhất thế giới. Trung Quốc là quốc gia có diện tích lớn thứ tư trên thế giới: sau Nga, Canada và Hoa Kỳ. Tổng diện tích Trung Quốc là khoảng 9.600.000 km2. Trung Quốc có tổng chiều dài biên giới trên bộ lớn nhất thế giới với 22.117km từ cửa sông Áp Lục đến vịnh Bắc Bộ. Là một quốc gia có chủ quyền nằm tại Đông Á. Đây là quốc gia đông dân nhất trên thế giới, với số dân trên 1,3 tỷ người. Về đơn vị hành chính, Trung Quốc gồm 22 tỉnh, 5 khu tự trị, 4 đô thị trực thuộc, và 2 khu hành chính đặc biệt là Hồng Kông và Ma Cao. Khí hậu Trung Quốc phần lớn bị chi phối do mùa khô và gió mùa ẩm dẫn đến sự khác biệt rõ dệt giữ mùa đông và mùa hạ.Trong mùa đông có gió bắc tràn xuống từ các khu vực có độ cao với đặc điểm là lạnh và khô. Khí hậu Trung Quốc có sự khác biệt giữa các khu vực do địa hình phức tạp cao độ. Cảnh quan của Trung Quốc rộng lớn và đa dạng, thay đổi từ những thảo nguyên rừng cùng các sa mạc Gobi và Taklamakan ở phía bắc khô hạn đến các khu rừng cận nhiệt đới ở phía nam có mưa nhiều hơn. Các dãy núi Himalaya, Karakoram, Pamir và Thiên Sơn là ranh giới tự nhiên của Trung Quốc với Nam và Trung Á. Trường Giang và Hoàng Hà lần lượt là sông dài thứ ba và thứ sáu trên thế giới, hai sông này bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng và chảy hướng về vùng bờ biển phía đông có dân cư đông đúc. Đường bờ biển của Trung Quốc dọc theo Thái Bình Dương và dài 14500 km, giáp với các biển: Bột Hải, Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông. Lịch sử Trung Quốc bắt nguồn từ một trong những nền văn minh cổ nhất thế giới, phát triển tại lưu vực phì nhiêu của sông Hoàng Hà tại bình nguyên
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng