Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Hình tượng người phụ nữ trong văn học viết việt nam qua sách ngữ văn trung học c...

Tài liệu Hình tượng người phụ nữ trong văn học viết việt nam qua sách ngữ văn trung học cơ sở

.PDF
95
1
108

Mô tả:

UBND TỈNH PHÚ THỌ TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG HÀ THỊ BÍCH THỦY HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC VIẾT VIỆT NAM QUA SÁCH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số:8220120 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đặng Thị Bích Hồng Phú Thọ, năm 2018 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan mọi kết quả của đề tài Hình tượng người phụ nữ trong văn học viết Việt Nam qua sách Ngữ văn Trung học cơ sở là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi và chƣa từng đƣợc công bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác cho tới thời điểm này. Phú Thọ, ngày 16 tháng 6 năm 2018 Ngƣời viết luận văn Hà Thị Bích Thủy ii LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường Đại học Hùng Vương Đặc biệt, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc tới TS Đặng Thị Bích Hồng. Cô đã nhiệt tình, chu đáo giúp đỡ tôi hoàn thành luận này. Tôi mong luận văn sẽ nhận được sự chia sẻ, đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Phú Thọ, ngày 16 tháng 6 năm 2018 Ngƣời viết luận văn Hà Thị Bích Thủy iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................2 2.2. Những nghiên cứu về hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong sách Ngữ văn Trung học cơ sở ............................................................................................................................5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................6 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................7 5. Phƣơng pháp nghiên cứu .........................................................................................7 6. Cấu trúc của luận văn ..............................................................................................8 Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT .................................9 VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ ................................9 TRONG SÁCH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ ...................................................9 1.1. Khái quát về hình tƣợng nghệ thuật .....................................................................9 1.1.1. Khái niệm hình tƣợng nghệ thuật ......................................................................9 1.1.2. Đặc trƣng của hình tƣợng nghệ thuật ..............................................................11 1.2. Sự xuất hiện của hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong sách Ngữ văn Trung học cơ sở ...................................................................................................................................14 1.2.1. Bộ phận văn học trung đại Việt Nam ..............................................................14 1.2.2. Bộ phận văn học hiện đại Việt Nam ...............................................................16 Tiểu kết ......................................................................................................................18 Chƣơng 2. HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC .......................19 TRUNG ĐẠI VIỆT NAM QUA SÁCH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ ..........19 2.1. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ nhìn từ ý thức hệ phong kiến....................................19 2.1.1. Ngƣời phụ nữ và chuẩn mực tứ đức ................................................................19 2.1.2. Ngƣời phụ nữ và khát vọng tình yêu...............................................................28 2.1.3. Ngƣời phụ nữ và khát vọng khẳng định bản thân ...........................................32 2.2. Số phận ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam ................................37 iv 2.2.1. Ngƣời phụ nữ và sự bất hạnh trong gia đình ...................................................38 2.2.2. Ngƣời phụ nữ và sự bất hạnh ngoài xã hội .....................................................40 2.3. Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học trung đại...........44 2.3.1. Bút pháp ƣớc lệ ...............................................................................................45 2.3.2. Nghệ thuật tạo dựng yếu tố kỳ ảo trong truyện truyền kỳ ..............................47 2.3.3. Nghệ thuật kể chuyện trong truyện Nôm ........................................................50 Tiểu kết ......................................................................................................................53 Chƣơng 3. HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC .......................54 HIỆN ĐẠI VIỆT NAM QUA SÁCH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ ...............54 3.1. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ nhìn từ vẻ đẹp mẫu tính ............................................54 3.1.1. Ngƣời phụ nữ: hiện thân của đức hi sinh ........................................................54 3.1.2. Ngƣời phụ nữ: hiện thân của tình yêu thƣơng ................................................59 3.2. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ thời đại mới ..............................................................64 3.2.1. Ngƣời phụ nữ và năng lực phản kháng ...........................................................64 3.2.2. Ngƣời phụ nữ nhƣ là biểu tƣợng Mẹ Tổ quốc ................................................67 3.3. Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học hiện đại ..............72 3.3.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ .........................................................................72 3.3.2. Nghệ thuật miêu tả chân dung, tính cách ........................................................77 Tiểu kết ......................................................................................................................82 KẾT LUẬN ...............................................................................................................83 TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................85 PHỤ LỤC 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Đã từ rất lâu ngƣời phụ nữ trở thành đề tài phổ biến của của các loại hình nghệ thuật nhƣ văn học, âm nhạc, hội hoạ… Nét đẹp đằm thắm, mặn mà, duyên dáng của họ đã làm cho giới nghệ sĩ và công chúng phải rung động trái tim yêu và tạo nên nguồn cảm hứng, sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ ca ngợi vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ dân tộc. Đặc biệt từ khi nền văn học viết ra đời, hình tƣợng ngƣời phụ nữ đã thực sự trở thành một đề tài lớn đƣợc tập trung khắc họa ở nhiều khía cạnh, phƣơng diện khác nhau. Trong quá trình phát triển của lịch sử, có nhiều lúc, ngƣời phụ nữ phải chấp nhận bi kịch cay đắng, xót xa với số kiếp bị lệ thuộc, họ không làm chủ đƣợc cuộc đời của mình. Nhƣng theo thời gian, ngƣời phụ nữ đã vƣơn lên tự giải phóng bản thân, dành đƣợc quyền tự chủ, khẳng định vị thế là “một nửa thế giới” của mình. 1.2. Dù trong lĩnh vực nào thì ngƣời phụ nữ đều có thể là trung tâm của đề tài nghiên cứu nhƣ trong bộ môn tâm lí học, sinh học, chính trị học, xã hội học và văn học… Ở mỗi môn khoa học, ngƣời phụ nữ lại mang những đặc điểm, dấu ấn của bộ môn, có thể là con ngƣời mang nghĩa sinh học, có thể là con ngƣời xã hội, trừu tƣợng… Trong nghiên cứu văn học, phụ nữ là sản phẩm của nghệ thuật – một sự sáng tạo đặc biệt mang tính thẩm mĩ sâu sắc. Tiếp cận hình tƣợng trong dòng chảy văn học Việt Nam qua từng thời kì, giai đoạn sẽ đem lại cái nhìn khát quát, toàn diện và sâu sắc về ngƣời phụ nữ. 1.3. Nhiều tác phẩm viết về đề tài ngƣời phụ nữ trong văn học viết Việt Nam đã trở thành những sáng tạo đỉnh cao, hội tụ cả vẻ đẹp về nội dung lẫn hình thức. Ở thời kì văn học trung đại, ngƣời phụ nữ là một sự kết hợp hài hòa giữa tài- sắc- tâm, có đức hạnh, có nhan sắc theo tiêu chuẩn tam tòng, tứ đức. Đó là quan niệm thẩm mĩ đã ăn sâu vào nếp nghĩ của con ngƣời trong thời đại ấy. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong giai đoạn văn học này chủ yếu xuất thân quý phái, danh gia vọng tộc. Đến Hồ Xuân Hƣơng, thơ mới có bóng dáng những ngƣời phụ nữ bình dân. Tuy nhiên, cuộc đời ngƣời phụ nữ dù là bình dân hay danh gia vọng tộc thì cũng đều đầy rẫy những bẽ bàng, sóng gió, chẳng mấy ai có đƣợc hạnh phúc thực sự. Sang văn học hiện đại, hình tƣợng ngƣời phụ nữ mang một diện mạo hoàn toàn mới. Họ đƣợc giải phóng khỏi 2 vòng cƣơng tỏa của lễ giáo phong kiến để hòa mình vào công cuộc chung của đất nƣớc. Khi đất nƣớc chìm trong đêm đen nô lệ, ngƣời phụ nữ cũng cùng chịu chung số phận khổ đau. Khi toàn dân tộc vùng lên đấu tranh, họ cũng dũng cảm xông pha trên cả mặt trận tiền tuyến lẫn hậu phƣơng. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn này là hình tƣợng khá trọn vẹn và có tính chất lí tƣởng. 1.4. Trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học cơ sở (THCS), những tác phẩm viết về hình tƣợng ngƣời phụ nữ khá nhiều và cũng là một chủ đề nổi bật ở mọi giai đoạn văn học từ văn học dân gian đến văn học viết. Có rất nhiều những cây đại thụ với những tác phẩm văn học lớn viết về hình tƣợng ngƣời phụ nữ đƣợc tuyển chọn vào chƣơng trình nhƣ : Nguyễn Du, Nguyễn Dữ, Hồ Xuân Hƣơng, Nguyên Hồng, Bằng Việt, Nguyễn Minh Châu… Các tác phẩm văn chƣơng viết về ngƣời phụ nữ bao giờ cũng thu hút sự quan tâm đặc biệt cả từ phía độc giả lẫn ngƣời nghiên cứu. 1.5. Là một giáo viên Ngữ văn THCS, tôi nhận thấy hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học có vị trí đặc biệt quan trọng trong nội dung giảng dạy và học tập ở cấp học. Việc nghiên cứu một cách hệ thống về hình tƣợng ngƣời phụ nữ có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng các chủ đề dạy học, tạo ra cái nhìn toàn diện về ngƣời phụ nữ trong văn học xƣa nay với sự phát triển qua các thời kỳ. Tuy nhiên, cho tới nay, sự nghiên cứu, tìm hiểu về hình tƣợng ngƣời phụ nữ còn rải rác, chƣa đầy đủ. Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Hình tượng người phụ nữ trong văn học viết Việt Nam qua sách Ngữ Văn trung học cơ sở. Thực hiện đề tài này, chúng tôi hƣớng đến khái quát cơ sở lí thuyết về hình tƣợng văn học, từ đó phân tích những độc đáo ở hình tƣợng ngƣời phụ nữ qua hai thời kỳ văn học trung đại và hiện đại. Chúng tôi cũng hi vọng đóng góp một cách nhìn mới trong công tác giảng dạy các tác phẩm văn học về đề tài ngƣời phụ nữ trong nhà trƣờng phổ thông nói riêng và nghiên cứu về hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học Việt Nam nói chung. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Những nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ Hình tƣợng ngƣời phụ nữ không phải là một đề tài mới trong văn học. Có nhiều đề tài luận văn, khóa luận đã tập trung nghiên cứu về hình tƣợng ngƣời phụ 3 nữ với những phạm vi khác nhau, vô cùng phong phú. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học của các nƣớc trên thế giới nói chung đã trở thành đối tƣợng nghiên cứu của các đề tài khoa học ở nhiều cấp khác nhau nhƣ khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ. Có thể kể tới các công trình nhƣ “Hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn Lỗ Tấn” (2013) – khóa luận của Nguyễn Thị Tú, Đại học Tây Bắc, Sơn La; “Hình tượng người phụ nữ trong một số tiểu thuyết Kawabata” (2013) – khóa luận của Võ Kim Chọn, Đại học Cần Thơ, Cần Thơ; “Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại Hàn Quốc qua cái nhìn của nhà văn nữ” (2012) - Luận văn thạc sĩ của Cao Thị Lan, Đại học Sƣ phạm Thành phố Hồ Chí Minh… Nghiên cứu về hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học Việt Nam cũng đã có một bề dày đáng kể. Một loạt luận văn Thạc sĩ đã lựa chọn nghiên cứu về chủ đề này nhƣ “Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX” (2012) của Nguyễn Hoàng Thịnh, “Vấn đề thân phận người phụ nữ trong văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX” (2012) của Nguyễn Trà My, “Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực Văn Đoàn” (2011) của Phạm Thanh Tùng, “Hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975” (2011) của Nguyễn Thị Thu Lan… Nguyễn Hoàng Thịnh trong Luận văn thạc sĩ “Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX” (2012), Đại học Sƣ phạm Thành phố Hồ Chú Minh đánh giá: “Thay đổi đáng ghi nhận là sự mở rộng nội dung về phía đời sống, đƣa văn học ngày càng gần gũi, gắn bó với quần chúng. Cùng với đó, các nhân vật nữ cũng xuất hiện trong thơ trữ tình với tần suất ngày một nhiều hơn theo chiều dọc tiến trình văn học viết (đặc biệt là ở bộ phận thơ Nôm từ nửa sau thế kỷ XVIII). Ngƣời phụ nữ đã xuất hiện trong văn học viết (bao gồm trong thơ trữ tình) ngay từ những thế kỷ đầu và ngày càng khẳng định đƣợc vị trí, vai trò của mình, góp phần hoàn chỉnh diện mạo văn học dân tộc” [45;30]. Trong Luận văn thạc sĩ “Vấn đề thân phận người phụ nữ trong văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX” (2012), Đại học KHXH&NV, Hà Nội, tác giả Nguyễn Trà My cho rằng: “Trƣớc thế kỷ XVIII, các nhân vật nữ trong thơ xuất 4 hiện mơ hồ, ngầm ẩn, trong truyện tuy có rõ hơn nhƣng tính cách, số phận rập khuôn dƣới góc độ của Nho giáo… Các nhân vật nữ ở giai đoạn này (cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX) lại khác. Họ đƣợc đề cao không chỉ ở đức hạnh mà còn tài năng và sắc đẹp, họ quý trọng tuổi trẻ và tình yêu nhiều hơn là danh tiết” [29;17]. Luận văn thạc sĩ “Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực Văn Đoàn” (2011) của Phạm Thanh Tùng, Đại học KHXH&NV, Thành phố Hồ Chí Minh cũng nhìn nhận hình tƣợng ngƣời phụ nữ nhƣng chủ yếu ở góc độ tính nhân văn để thấy đƣợc khao khát sống, quyền sống của ngƣời phụ nữ thời hiện đại. Luận văn thạc sĩ “Hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975” (2011) của Nguyễn Thị Thu Lan, Đại học Đà Nẵng khu biệt đối tƣợng nghiên cứu hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong sáng tác của một tác giả cụ thể - nhà văn Nguyễn Minh Châu. Tác giả nhận ra rằng: “Bên cạnh hình tƣợng ngƣời lính với chân dung nối tiếp các thế hệ, ngƣời nông dân với bản chất cố hữu đƣợc khắc họa đầy ấn tƣợng, ngòi bút Nguyễn Minh Châu còn dành nhiều tâm huyết biểu hiện hình tƣợng ngƣời phụ nữ với những phẩm chất và đức hi sinh cao cả, sâu lắng vẻ đẹp nhân văn” [23;3]. Trong luận án tiến sĩ “Diễn ngôn về giới nữ trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2017), Đại học Sƣ phạm Hà Nội, bên cạnh việc nhận diện văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa nhƣ một hệ hình diễn ngôn, phân tích diễn ngôn về giới nữ trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhƣ một hệ thống tu từ, tác giả Nguyễn Thị Vân Anh còn phân tích diễn ngôn về giới nữ nhìn từ hai góc độ là chiến lƣợc giao tiếp và trật tự diễn ngôn. Tác giả khái quát: “Bƣớc vào địa hạt văn chƣơng hiện thực xã hội chủ nghĩa, ngƣời phụ nữ hiện lên khép kín trong khuôn khổ vai chức năng - xã hội của mình, bao gồm: vai Mẹ - Chiến sĩ, Mẹ - Tổ quốc, Chúng con - Anh hùng và Kẻ lầm đường, lạc lối. Mặt nạ ngôn ngữ hay vai diễn ngôn của nữ giới là ngƣời chiến thắng đã đƣợc giác ngộ chân lí cao độ. Tuy nhiên, vai diễn ngôn của ngƣời nữ trong khu vực văn học này chỉ đóng vai trò là dàn đồng ca mang tính chất phụ họa theo phát ngôn chính thống của ngƣời lĩnh xƣớng là nam giới. Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa cũng có khả năng tạo ra nhiều tiếng nói về 5 giới nữ song về cơ bản đó là tiếng nói độc điệu, đồng thuận chứ không có sự phân hóa thành những bè điệu phức tạp. Nhìn một cách khái quát, giới nữ trong bộ phận văn học này có xu hƣớng nam hóa đậm nét và bƣớc vào phạm vi diễn ngôn chính thống nhƣ những ngƣời anh hùng bất khuất của thời đại. Họ là hậu phƣơng vững tay súng, chắc tay cày và trở thành điểm tựa vững chắc cho ngƣời nam giới nơi tiền tuyến. Chân dung ngƣời phụ nữ ở đây chủ yếu đƣợc khắc họa trong vai trò con ngƣời công dân, con ngƣời xã hội theo đúng nguyên tắc sáng tác của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cũng do vậy, các phƣơng diện thuộc về con ngƣời đời tƣ, con ngƣời cá nhân, đặc biệt là bản năng tính dục hay những nỗi bi thƣơng khắc khoải... của họ thƣờng bị bỏ qua, thậm chí biến thành luật lệ cần kiêng tránh trong diễn ngôn văn học” [1;147-148]. Điểm qua một vài công trình nghiên cứu nhƣ vậy, có thể thấy, hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn chƣơng đông tây, kim cổ đã trở thành đối tƣợng phổ biến của nghiên cứu văn học. Nhìn chung, các đề tài này đều căn cứ vào bối cảnh thời đại để nhìn nhận, đánh giá ngƣời phụ nữ trên các phƣơng diện phẩm chất, tính cách, số phận và chỉ ra các phƣơng tiện nghệ thuật đƣợc sử dụng để khắc họa hình tƣợng ngƣời phụ nữ. Đây là những gợi mở quan trọng, những hƣớng tiếp cận phù hợp để chúng tôi vận dụng trong đề tài nghiên cứu của mình. 2.2. Những nghiên cứu về hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong sách Ngữ văn Trung học cơ sở Trong các công trình nghiên cứu về hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học Việt Nam, chúng tôi nhân thấy, các tác giả cũng đã ít nhiều đề cập tới những tác phẩm, hình tƣợng đi vào chƣơng trình giáo dục phổ thông nói chung và sách Ngữ văn THCS nói riêng. Ở Luận văn “Hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975” (2011), tuy phạm vi nghiên cứu là sáng tác của Nguyễn Minh Châu nói chung nhƣng Nguyễn Thị Thu Lan cũng đề cập tới hình tƣợng nhân vật Liên trong tác phẩm “Bến quê” nhƣ là biểu tƣợng của lòng chung thủy. Đức tính truyền thống tốt đẹp ấy trở thành bến đỗ bình yên cho biết bao gia đình, tạo nên nét đặc trƣng của cuộc sống và tâm hồn Việt. 6 Nguyễn Thị Vân Anh trong Luận án Tiến sĩ của mình đã nhận ra: “trong văn học trung đại, có không ít trƣờng hợp nữ giới bƣớc ra khỏi không gian buồng khuê để nhập vào không gian xã hội. Thực chất, đa phần họ không chủ động bƣớc ra mà là bị hoàn cảnh xô đẩy. Do vậy, khi ra ngoài cánh cửa khuê phòng, họ thƣờng bị rơi vào không gian lưu lạc - thời gian đằng đẵng, cắt chia. Họ phiêu dạt đến những nơi nhƣ đầu cầu, đầu quán, lầu xanh... sống kiếp phong trần và trở thành nạn nhân bi kịch. Có thể thấy rõ đặc điểm này qua số phận của một số nhân vật tiêu biểu nhƣ Đào Hàn Than trong Nghiệp oan của Đào Thị (Nguyễn Dữ), Lệ Nƣơng trong Truyện Lệ Nương (Nguyễn Dữ), Thúy Kiều trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)” [1;114-115]. Chúng tôi nhận thấy, cho đến nay, chƣa có công trình nào tập trung nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học viết Việt Nam qua chƣơng trình Ngữ văn trung học cơ sở. Rải rác trên các nguồn tài liệu chỉ có một số bài viết tản mạn dƣới dạng bài văn của học sinh hoặc các chuyên đề bồi dƣỡng học sinh giỏi, các sáng kiến kinh nghiệm mang quy mô nhỏ của các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn. Luận văn của chúng tôi lần đầu tiên nghiên cứu hệ thống, toàn diện về vấn đề này. Các công trình nghiên cứu đi trƣớc là những gợi dẫn quý báu để chúng tôi triển khai đề tài. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở khái quát lý thuyết về hình tƣợng văn học, đề tài hƣớng tới xác định các đặc điểm của hình tƣợng ngƣời phụ nữ Việt Nam đƣợc phản ánh trong các tác phẩm văn học Việt Nam thời kỳ trung đại và hiện đại đƣợc lựa chọn đƣa vào Sách giáo khoa Ngữ văn THCS. Từ đó, chúng tôi chỉ ra sự vận động, phát triển của hình tƣợng ngƣời phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh xã hội xƣa và nay. Để đạt đƣợc mục đích này, đề tài giải quyết ba nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ nhất, làm rõ một số khái niệm và vấn đề văn học sử có liên quan đến đề tài. Thứ hai, khảo sát và hệ thống hóa các tác phẩm viết về hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học viết Việt Nam qua chƣơng trình Ngữ văn Trung học cơ sở với hai bộ phận: văn học trung đại và văn học hiện đại. Thứ ba, phân tích các đặc điểm của ngƣời phụ nữ trong từng thời kỳ cũng nhƣ thấy đƣợc các hình thức nghệ thuật phản ánh hình tƣợng ở mỗi thời kỳ văn học. 7 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1.Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học viết Việt Nam qua chƣơng trình Ngữ văn Trung học cơ sở. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn dựa trên bộ Sách giáo khoa lớp 6, lớp 7, lớp 8, lớp 9 của NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2014 để khảo sát và tìm hiểu hình tƣợng ngƣời phụ nữ. Trong quá trình tiến hành khảo sát, chúng tôi sẽ so sánh với các tác giả, tác phẩm khác viết về ngƣời phụ nữ nằm ngoài chƣơng trình Sách giáo khoa để có cái nhìn toàn diện hơn. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt đƣợc mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, khi thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau: Phương pháp lịch sử - xã hội: Tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển của văn học Việt Nam qua các thời kỳ, đồng thời tìm hiểu, đánh giá về các tác phẩm viết về ngƣời phụ nữ trong sách Ngữ văn Trung học cơ sở. Qua đó xem xét ảnh hƣởng của thời đại đến hình tƣợng nhân vật trong từng giai đoạn văn học. Phương pháp hệ thống: Đặt các tác phẩm nghiên cứu vào hệ thống, tiến trình văn học để làm nổi bật những đặc điểm chung của hình tƣợng. Phương pháp tổng hợp: Sƣu tầm và tìm hiểu các tác phẩm khác trong mối tƣơng quan thời đại để có cái nhìn chính xác, đầy đủ về hình tƣợng nhân vật. Phương pháp so sánh: tạo ra tƣơng quan so sánh nhằm chỉ ra sự tiếp nối cũng nhƣ những sáng tạo mới mẻ riêng biệt của đối tƣợng nghiên cứu. Phƣơng pháp liên ngành, vận dụng hiệu quả các môn khoa học liên ngành (lịch sử học, văn hóa học…) nhằm giúp cho vấn đề đƣợc nhìn nhận bao quát và chính xác hơn. Trong quá trình nghiên cứu, các phƣơng pháp này không tách rời mà bổ sung cho nhau để làm sáng tỏ vấn đề đƣợc đặt ra. 8 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm ba chƣơng: Chương I: Khái quát về hình tƣợng nghệ thuật và sự xuất hiện của hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong sách Ngữ văn Trung học cơ sở. Chương II: Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học trung đại qua sách Ngữ văn Trung học cơ sở Chương III: Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học hiện đại qua sách Ngữ văn Trung học cơ sở 9 Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG SÁCH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ 1.1. Khái quát về hình tƣợng nghệ thuật 1.1.1. Khái niệm hình tượng nghệ thuật Hình tƣợng nghệ thuật là một thuật ngữ quan trọng, quen thuộc của lí luận văn học. Khái niệm này xuất hiện lần đầu tiên cách đây hơn 2000 năm. Từ thời Hi Lạp cổ đại, các nhà triết học đã bàn đến hình tƣợng. Platon, Aristotle quan niệm hình tƣợng nghệ thuật là cách mô phỏng thế giới khách quan. Họ gọi nghệ thuật là sự mô phỏng tự nhiên và xã hội. Các loại hình nghệ thuật có khả năng tái tạo lại các hiện tƣợng riêng lẻ trong thế giới thực tại. Tƣ tƣởng của Aristotle tiếp tục đƣợc kế thừa ở các giai đoạn sau của nghệ thuật phƣơng Tây. Trải qua các thời kỳ từ trung cổ đến cận hiện đại với nhiều trƣờng phái nhƣ Rômăng, Gôtíc, Cổ điển, Barốc, Lãng mạn, Hiện thực, Tự nhiên, Ấn tƣợng… nghệ thuật chính thống luôn đề cao nguyên tắc “giống nhƣ thật” của hình tƣợng nghệ thuật theo tinh thần của Aristotle. Sau này, Hegel – nhà triết học ngƣời Đức chia nhận thức của con ngƣời thành ba nhóm: triết học, tôn giáo và nghệ thuật, trong đó, triết học nhận thức thông qua khái niệm, tôn giáo nhận thức thông qua biểu tƣợng còn nghệ thuật nhận thức thông qua hình tƣợng. Hegel đã phản đối quan niệm của Aristotle, phản đối nghệ thuật sao chép, làm giống nhƣ thật các đối tƣợng của tự nhiên. Với Hegel, hình tƣợng văn học để cho con ngƣời thể nghiệm một ý niệm phổ quát về tinh thần. Còn Bêlinxki – nhà phê bình Nga thì phân biệt cụ thể hơn. Theo Bêlinxki, nhà triết học nói bằng phép tam đoạn luận, nhà kinh tế chính trị đƣợc võ trang bằng các số liệu thống kê tác động đến trí tuệ của ngƣời đọc và ngƣời nghe, còn nhà thơ thì nói bằng các hình tƣợng và bức tranh… Điểm qua một vài quan niệm nhƣ vậy, chúng ta có thể thấy, khái niệm hình tƣợng đã xuất hiện từ xa xƣa. Tuy các quan niệm bắt nguồn từ những góc nhìn khác 10 nhau, thể hiện những quan điểm khác nhau, chƣa đồng nhất, song tất cả đều thừa nhận phƣơng thức phản ánh đặc thù của nghệ thuật đó là hình tƣợng. Có nhiều quan niệm về hình tƣợng nghệ thuật. Có thể điểm qua một vài quan niệm tiêu biểu nhƣ sau: Theo GS. Nguyễn Văn Hạnh: “Văn chƣơng, nghệ thuật nhận thức và tái hiện cuộc sống bằng hình tượng, tức là một cách sinh động, cụ thể - cảm tính, có hình khối, đƣờng nét, màu sắc, âm thanh, chứ không phải một cách trừu tƣợng, bằng khái niệm nhƣ trong khoa học” [14;7]. Theo Lại Nguyên Ân, hình tƣợng nghệ thuật là “phƣơng thức chiếm lĩnh và tái tạo hiện thực riêng biệt, vốn có và chỉ có ở nghệ thuật. Bất cứ hiện tƣợng nào đƣợc xây dựng lại một cách sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật đều là hình tƣợng nghệ thuật; thông thƣờng và quan trọng nhất là hình tƣợng con ngƣời (hình tƣợng nhân vật)” [3;141]. Ngoài ra, Lại Nguyên Ân còn đề cập tới một khái niệm nhỏ hơn là hình tượng văn học, đó là: “dạng hình tƣợng nghệ thuật thể hiện bằng chất liệu ngôn từ nghệ thuật; cũng gọi là hình tƣợng ngôn từ” [3;149]. Theo PGS.TS. Trần Khánh Thành: “Hình tƣợng là phƣơng tiện đặc thù của nghệ thuật để phản ánh hiện thực khách quan. Hình tƣợng nghệ thuật phản ánh tính khái quát, tính quy luật của hiện thực qua hình thức cái cá thể, độc đáo; nó là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ, là đứa con tinh thần của nghệ sĩ trong quá trình nhận thức và tái hiện cuộc sống” [28;27]. GS. Trần Đình Sử cho rằng “Đằng sau văn còn cả một thế giới hình tƣợng. Đó là hệ thống các hình tƣợng đƣợc dệt nên bởi các chi tiết, tình tiết, quan hệ, cho phép ta hình dung đƣợc sự hiểu biết và cảm nhận của tác giả đối với thế giới và con ngƣời” [36;104]. “Hình tƣợng nghệ thuật là nền tảng của ý thức nghệ thuật, là phạm vi hoạt động thẩm mỹ của con ngƣời. Hình tƣợng nghệ thuật là cái tính chất làm cho tác phẩm trở thành tác phẩm nghệ thuật” [38;57] Theo Giáo trình lí luận văn học “Kết quả của quá trình tƣ duy nghệ thuật đầy sáng tạo là xuất hiện một hình tƣợng nghệ thuật dƣới dạng một tác phẩm. Hình tƣợng trong tác phẩm tách khỏi hoạt động tinh thần của nhà văn đã tồn tại nhƣ một sự thực văn hóa xã hội” [28;138]. 11 Nhƣ vậy, có thể thấy hình tƣợng nghệ thuật là một vấn đề đặc biệt quan trọng trong lí luận văn học đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm lí giải, làm rõ. Căn cứ vào các khái niệm trên, có thể thấy: - Phạm trù hình tƣợng là một phạm trù mang tính khái quát phản ánh tính hệ thống của các khái niệm, phạm trù qui luật về đặc trƣng thẩm mỹ của nghệ thuật. Vì tất cả những lý giải về nghệ thuật đều xuất phát từ vấn đề hình tƣợng. - Hiểu theo nghĩa rộng, hình tƣợng nghệ thuật là phƣơng thức phản ánh đời sống đặc thù của tất cả các loại hình nghệ thuật. Phƣơng thức phản ánh này là cơ sở để phân biệt nghệ thuật với khoa học và các hình thức ý thức xã hội khác. Theo nghĩa hẹp, khái niệm hình tƣợng đƣợc hiểu là hình tƣợng cụ thể về một con ngƣời, một tập thể ngƣời, một con vật, đồ vật hay một cảnh sắc thiên nhiên, một cảnh sinh hoạt lao động thƣờng ngày… trong một tác phẩm cụ thể. Đi vào tác phẩm nghệ thuật, tất cả các yếu tố chuyển tải những quan niệm sống, những trải nghiệm cuộc đời, những triết lý nhân sinh đều có khả năng trở thành hình tƣợng. Có thể khẳng định, lí luận về hình tƣợng sẽ giúp ngƣời đọc nhận diện đƣợc những phƣơng diện hiện thực mà nhà văn phản ánh trong tác phẩm, đồng thời thấy đƣợc chiều sâu tƣ tƣởng, tình cảm trong mỗi ngƣời nghệ sỹ. Đến với tác phẩm nghệ thuật, độc giả một mặt đƣợc thƣởng thức cái đẹp, đƣợc tiếp cận với nguồn tri thức rộng lớn của nhân loại, mặt khác đƣợc tiếp nhận những chân lí về đời sống thông qua hình tƣợng nghệ thuật. 1.1.2. Đặc trưng của hình tượng nghệ thuật Về cơ bản, hình tƣợng nghệ thuật có ba đặc trƣng cơ bản nhƣ sau: Thứ nhất, hình tượng nghệ thuật có sự thống nhất biện chứng giữa khách quan và chủ quan Hình tƣợng nghệ thuật trƣớc hết phải xuất phát từ đời sống khách quan. Trƣớc đây, có không ít quan niệm cho rằng nghệ thuật bắt nguồn từ thần thánh, kì bí, siêu hình. Con ngƣời nhờ có thần mách bảo, thần nhập mới có thể sáng tác ra các tác phẩm nghệ thuật, chứa đựng những hình tƣợng nghệ thuật đặc sắc. Tuy nhiên, cùng với thời gian, sự phát triển trong tƣ duy nhận thức của loài ngƣời đã khẳng định, nghệ thuật, hình tƣợng nghệ thuật đƣợc nảy nở, bắt nguồn từ chính mảnh đất 12 hiện thực đời sống. Ở bất cứ thời kỳ nào, nghệ thuật bao giờ cũng đi liền với đời thực, cũng bám sát vào các vấn đề của đời sống. Mỗi nền văn nghệ đều hình thành trên một bối cảnh hiện thực nhất định. Ngay cả những xu hƣớng sáng tạo tƣởng chừng đoạn tuyệt với nền tảng hiện thực nhƣ tƣợng trƣng, siêu thực, huyền ảo… suy cho cùng vẫn không cắt đứt hoàn toàn sợi dây liên hệ với những nhịp đập của thời đại. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, hình tƣợng nghệ thuật không đơn thuần là sự tái hiện máy móc những hiện tƣợng có thật trong đời sống. Thông qua lăng kính chủ quan, thông qua bộ lọc của ngƣời nghệ sĩ, các vấn đề của đời sống đƣợc chọn lọc, sáng tạo để trở thành hiện thực thứ hai trong tác phẩm nghệ thuật. Ngƣời nghệ sỹ không rập khuôn một cách máy móc đối tƣợng mô tả mà phải nói lên đƣợc những nét bản chất nhất, qua đó khái quát đƣợc những quy luật của đời sống. Bằng tài năng của mình, nghệ sỹ có khả năng biến những sự vật nhỏ bé, thậm chí là tầm thƣờng trong đời sống trở thành các hình tƣợng nghệ thuật đặc sắc, tạo ra những tác động thẩm mĩ mạnh mẽ đến ngƣời tiếp nhận. Nghệ thuật còn là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Dấu ấn chủ quan của ngƣời nghệ sỹ thể hiện trong cách tiếp cận hiện thức, cách phát hiện vấn đề và phƣơng thức chuyển tải tƣ tƣởng tình cảm qua hình tƣợng. Vì thế, mỗi hình tƣợng nghệ thuật là một sản phẩm “duy nhất”, không lặp lại, mang tính cá nhân, mang tính thẩm mỹ và khái quát hóa cao. Nhƣ vậy, trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, ngƣời nghệ sĩ không thoát ly hiện thực mà bằng cách này hay cách khác sẽ tái tạo hiện thực và thể hiện tình cảm chủ quan đối với hiện thực ấy. Hình tƣợng nghệ thuật chính là phƣơng tiện, là cách thức để nghệ sĩ tái hiện đời sống và thể hiện tƣ tƣởng chủ quan của mình. Thứ hai, hình tượng nghệ thuật là một chỉnh thể có sự thống nhất giữa tính cụ thể và tính khái quát Tính cụ thể trực tiếp là một đặc trƣng quan trọng của hình tƣợng nghệ thuật. Trong thực tế, mỗi sự vật, hiện tƣợng là một cá thể độc lập, cụ thể. Tất cả đều tồn tại ở dạng riêng biệt. Con ngƣời cũng không là ngoại lệ. Mỗi cá nhân là một tồn tại cụ thể, không lặp lại. Do đó, sự phản ánh của nghệ thuật đối với các đối tƣợng trên 13 phải mang tính cụ thể, đúng với đối tƣợng. Thêm nữa, nếu các ngành khoa học phản ánh hiện thực cuộc sống bằng các khái niệm, các tiền đề, định lí hoặc công thức thì nghệ thuật phản ánh bằng hình tƣợng cụ thể. Nếu qua hình thức phản ánh của khoa học ta thấy đƣợc cái chung, cái phổ quát chứ không hình dung đƣợc cụ thể cuộc sống một cách cảm tính thì trong nghệ thuật, chúng ta nhƣ đƣợc gặp gỡ với những con ngƣời, những tính cách, số phận riêng biệt, cụ thể. Tuy nhiên, tính cụ thể không tách rời tính khái quát. Không chỉ là những tồn tại độc lập, riêng rẽ, mỗi sự vật, hiện tƣợng còn là một bộ phận trong chỉnh thể, liên hệ với các sự vật, hiện tƣợng khác. Vì vậy, mỗi sự vật, hiện tƣợng đều có sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng. Nó vừa mang dấu hiệu chung, nét bản chất chung của các hiện tƣợng, cùng loại, vừa có những dấu hiệu cụ thể, cá biệt, không lặp lại ở bất cứ đối tƣợng nào. Do vậy, ngƣời nghệ sỹ một mặt phải biết nắm bắt những nét chủ yếu thuộc về bản chất của sự vật, hiện tƣợng, mặt khác, phải khái quát hóa thành những quy luật, những nét chung của đời sống xã hội. Nhờ sự thống nhất giữa tính cụ thể và tính khái quát, hình tƣợng nghệ thuật có khả năng tái hiện đời sống vừa có tính độc đáo, vừa có tính đại diện. Thứ ba, hình tượng nghệ thuật có sự thống nhất giữa tính tạo hình và tính biểu hiện. Tính tạo hình là một phẩm chất không thể thiếu đƣợc của hình tƣợng. Tạo hình tức là tạo cho hình tƣợng một không gian, thời gian, đặt hình tƣợng vào những sự kiện và những mối quan hệ khác nhau. Nhờ có tính tạo hình mà hình tƣợng đƣợc hiện lên cụ thể qua chất liệu. Tạo hình chính là phƣơng tiện để biến cái vô hình thành cái hữu hình, biến cái trừu tƣợng thành cái cụ thể, tri giác đƣợc. Không có tạo hình thì không có hình tƣợng. Nhƣng tạo hình nghệ thuật không có nghĩa là kể lể mọi chi tiết của đối tƣợng mà ngƣời nghệ sỹ chỉ chọn lọc những chi tiết ít ỏi nhất nhƣng giàu sức biểu hiện nhất, tiêu biểu nhất cho một cuộc sống, một tình huống hay một tính cách. Có thể nói, tạo hình trong nghệ thuật là một cấu tạo tập trung, dồn nén, mang tính ƣớc lệ ở các mức độ khác nhau. Tạo hình không tách rời với biểu hiện. Biểu hiện là khả năng bộc lộ cái sâu kín bên trong, cái bản chất của sự vật, hé mở những nỗi niềm khuất lấp trong tâm 14 hồn. Biểu hiện khiến cho hình tƣợng đƣợc toàn vẹn, đầy đặn, thể hiện đƣợc chiều sâu khôn cùng không nói hết của con ngƣời cũng nhƣ của chính ngƣời nghệ sỹ trƣớc cuộc sóng. Sự thống nhất giữa tính tạo hình và tính biểu biện làm cho hình tƣợng có một hình thức nghệ thuật độc đáo. Đó là một thể thống nhất sinh động giữa thống nhất và đa dạng, giữa bên ngoài và bên trong, ổn định và biến hóa. Ngoài ra, có nhiều quan điểm khác về đặc trƣng của hình tƣợng nhƣ hình tƣợng mang tính ƣớc lệ, tính đa nghĩa, tính nghệ thuật… Tuy nhiên, trong đề tài này, chúng tôi chỉ cố gắng khắc họa những nét đặc trƣng cơ bản nhất, mang ý nghĩa khái quát nhất của hình tƣợng, từ đó làm cơ sở, tiền đề để tiếp cận hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học viết Việt Nam một cách khoa học, toàn diện. 1.2. Sự xuất hiện của hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong sách Ngữ văn Trung học cơ sở 1.2.1. Bộ phận văn học trung đại Việt Nam Là sản phẩm của hình thái ý thức xã hội, văn học trung đại Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử đã xây dựng những hình tƣợng nghệ thuật con ngƣời riêng. Theo các nhà nghiên cứu, văn học trung đại Việt Nam phát triển qua bốn giai đoạn lớn. Giai đoạn đầu của văn học trung đại bắt đầu từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV. Từ cuối thế kỉ X, dân tộc ta giành đƣợc quyền độc lập tự chủ và lập nhiều kì tích trong các cuộc kháng chiến chống xâm lƣợc chống quân Tống thế kỉ XI, chông quân Mông – Nguyên thế kỉ XIII. Đây là thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Hình tƣợng con ngƣời nổi bật trong giai đoạn văn học này là con ngƣời sử thi, mang tầm vóc của ngƣời anh hùng với đầy chiến công lẫy lừng, với những phẩm chất, khí thế chung của cả thời đại. Không chỉ có vậy, trong văn học còn xuất hiện hình tƣợng con ngƣời trí thức biết giữ khí tiết, mang phong thái của những hiền sĩ, ẩn sĩ thoát tục, lánh đời. Điều đáng chú ý là trong giai đoạn này, tuyệt nhiên không có sự xuất hiện của hình tƣợng ngƣời phụ nữ. Thời kỳ phong kiến phát triển, hệ tƣ tƣởng Nho giáo giữ vai trò chủ đạo, độc tôn nên vai trò của ngƣời phụ nữ hoàn toàn mờ nhạt. Ngƣời phụ nữ không phải là đối tƣợng mô tả của văn học. Từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII, dân tộc Việt Nam tiếp tục làm nên nhiều 15 kì tích: đầu thế kỷ XV là thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, cuối thế kỷ này là sự phát triển tới đỉnh cao cực thịnh của chế độ phong kiến. Bƣớc sang thế kỉ XVI, chế độ phong kiến tuy bắt đầu có những dấu hiệu khủng hoảng nhƣng nhìn chung tình hình xã hội vẫn ổn định. Bên cạnh hình tƣợng con ngƣời quan phƣơng, con ngƣời lí trí theo khuôn mẫu của Nho gia, văn học giai đoạn này đã bắt đầu xuất hiện những hình tƣợng phụ nữ đầu tiên. Đó chính là trƣờng hợp Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, mà Chuyện người con gái Nam Xương trong sách Ngữ văn lớp 9 với nhân vật Vũ Nƣơng là tiêu biểu. Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, chế độ phong kiến có nhiều biến động và dần đi vào suy thoái, khủng hoảng. Hệ tƣ tƣởng Nho giáo dần trở nên lỗi thời, không bắt kịp với sự phát triển của thời đại. Ý thức thị dân bắt đầu phát triển, làm nảy sinh tƣ tƣởng tự do, hƣởng lạc. Đây là giai đoạn văn học phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam. Hình tƣợng con ngƣời đƣợc khám phá từ góc độ con ngƣời trần tục, con ngƣời tài, sắc, con ngƣời thân phận… chứ không còn là con ngƣời của đạo lí, của lễ nghĩa... Đặc biệt, giai đoạn này đánh dấu sự phát triển nở rộ của hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học. Sự thay đổi trong quan niệm văn học từ “ngôn chí” sang “ngôn tình”, sự cởi trói tƣ tƣởng Nho gia cổ hủ, lạc hậu đã khiến ngƣời nghệ sỹ nhận thức vẻ đẹp cũng nhƣ thấm thía về số phận, tình cảnh của ngƣời phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ. Nhiều đỉnh cao văn học giai đoạn này xoay quanh hình tƣợng ngƣời phụ nữ, đó là ngƣời chinh phụ cô đơn vò võ đợi chồng với niềm khao khát hạnh phúc mỏi mòn trong thơ Đặng Trần Côn, là ngƣời phụ nữ tài năng, cá tính, cô đơn trong thơ Hồ Xuân Hƣơng, là ngƣời con gái “tài tình chi lắm cho trời đất ghen” trong thơ Nguyễn Du… Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lƣợc Việt Nam. Nhân dân cả nƣớc kiên cƣờng bất khuất dứng lên chống giặc ngoại xâm. Xã hội Việt Nam chuyển dần từ xã hội phong kiến sang thực dân nửa phong kiến. Văn hoá phƣơng Tây bắt đầu có những ảnh hƣởng tới đời sống xã hội Việt Nam. Biến động của thời đại khiến hình tƣợng ngƣời phụ nữ lại vắng bóng trong văn học, nhƣờng chỗ cho hình tƣợng của ngƣời anh hùng, ngƣời nông dân khởi nghĩa, ngƣời trí thức thất thế, đau đời. Trong giai đoạn này, ta thấy xuất hiện duy nhất hình tƣợng ngƣời
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng