BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
ĐINH GIA HUỆ
HÀNH VI LỰA CHỌN GIỚI TÍNH TRƯỚC SINH
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG Ở CÁC BÀ MẸ
TẠI XÃ BÌNH MINH HUYỆN KHOÁI CHÂU
TỈNH HƯNG YÊN NĂM 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.03.01
HÀ NỘI, 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
ĐINH GIA HUỆ
HÀNH VI LỰA CHỌN GIỚI TÍNH TRƯỚC SINH
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG Ở CÁC BÀ
MẸ TẠI XÃ BÌNH MINH HUYỆN KHOÁI CHÂU
TỈNH HƯNG YÊN NĂM 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.03.01
TS. HÀ VĂN NHƯ
HÀ NỘI, 2014
i
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập tại Trường Đại học Y tế công cộng (2012-2014),
em xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy, cô đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những
kiến thức thiết thực và để hoàn thành Luận văn được kết quả như hôm nay, em
xin gửi lời cảm ơn đến:
Thầy hướng dẫn khoa học là TS. Hà Văn Như đã nhiệt tình đóng góp nhiều
ý kiến quý báu trong việc xây dựng ý tưởng đề tài và hướng dẫn, hỗ trợ về mặt
tinh thần và chuyên môn trong suốt quá trình thực hiện Luận văn.
Ban Giám đốc Trung tâm dân số - Kế hoạch hóa gia đình đã tạo thuận lợi
về thời gian và hỗ trợ tinh thần trong thời gian học tập và thực hiện Luận văn.
Các bạn học viên lớp cao học khóa 16, các anh chị cao học khóa 14, 15 đã
động viên và chia sẻ những kinh nghiệm quý báu trong quá trình học tập và làm
Luận văn.
Gia đình đã động viên tinh thần để an tâm học tập.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 22 tháng 9 năm 2014
ii
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................v
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU ..................................................................................... vi
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .....................................................................................3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU..................................................................4
1.1. Các khái niệm....................................................................................................4
1.1.1. Tỷ số giới tính .........................................................................................4
1.1.2. Tỷ số giới tính khi sinh ............................................................................4
1.1.3. Mất cân bằng giới tính khi sinh ..............................................................4
1.2. Thực trạng mất cân bằng giới tính khi sinh và hậu quả ....................................5
1.2.1. Thế giới ...................................................................................................5
1.2.2. Việt Nam .................................................................................................8
1.3. Một số nguyên nhân dẫn tới hành vi lựa chọn giới tính trước sinh ................10
1.3.1. Văn hóa .................................................................................................11
1.3.2. Tuyên truyền, phổ biến phương pháp lựa chọn giới tính trước sinh ....12
1.3.3. Chẩn đoán giới tinh thai nhi sớm .........................................................13
1.3.4. Phá thai .................................................................................................14
1.4. Khung lý thuyết ...............................................................................................16
1.5. Giới thiệu tóm tắt về địa bàn nghiên cứu .......................................................17
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................20
2.1. Đối tượng nghiên cứu .....................................................................................20
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ..................................................................20
2.3. Thiết kế nghiên cứu.........................................................................................20
2.4. Cỡ mẫu ............................................................................................................20
2.5. Phương pháp chọn mẫu...................................................................................20
2.6. Phương pháp thu thập số liệu ..........................................................................21
2.7. Chủ đề phỏng vấn sâu .....................................................................................21
2.8. Khái niệm, thước đo, tiêu chuẩn đánh giá ......................................................22
iii
2.9. Phương pháp phân tích số liệu ........................................................................22
2.10.
Vấn đề đạo đức của nghiên cứu ...............................................................23
2.11.
Hạn chế của nghiên cứu và biện pháp khắc phục ....................................24
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..............................................................25
3.1. Hành vi lựa chọn giới tính trước sinh của bà mẹ sống tại xã Bình Minh huyện
Khoái Châu: ...........................................................................................................25
3.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn giới tính trước sinh ..............36
Chương 4: BÀN LUẬN ...........................................................................................53
4.1. Thực trạng lựa chọn giới tính tại xã Bình Minh huyện Khoái Châu ..............53
4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn giới tính trước sinh ..............56
4.3. Bàn luận về phương pháp nghiên cứu.............................................................66
4.4. Bàn luận về hạn chế của nghiên cứu ...............................................................66
KẾT LUẬN ..............................................................................................................68
KHUYẾN NGHỊ......................................................................................................70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................72
TIẾNG VIỆT .........................................................................................................72
TIẾNG ANH .........................................................................................................74
PHỤ LỤC .................................................................................................................76
Phụ lục 1: Danh sách 40 bà mẹ tham gia phỏng vấn sâu ......................................76
Phụ lục 2: Phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu .......................................................78
Phụ lục 3: Hướng dẫn phỏng vấn sâu bà mẹ .........................................................79
Phụ lục 4: Biên bản giải trình chỉnh sửa sau bảo vệ luận văn ...............................81
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BN
Bàng Nha
CBYT
Cán bộ y tế
ĐH
Đa Hòa
ĐTNC
Đối tượng nghiên cứu
MCBGTKS
Mất cân bằng giới tính khi sinh
SRB
Tỷ số giới tính khi sinh
TSGTKS
Tỷ số giới tính khi sinh
TT
Thiết trụ
TCDS – KHHGĐ
Tổng cục dân số kế hoạch hóa gia đình
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Tỷ số giới tính khi sinh ở một số quốc gia, 2004 – 2009
Bảng 2: Tỷ số giới tính khi sinh toàn quốc từ năm 2006 đến 5 tháng đầu năm 2013
Bảng 3: Tỷ số giới tính khi sinh theo thứ tự sinh giai đoạn 2006 – 2010 qua điều tra
(bé trai/100 bé gái) của tỉnh Hưng Yên
vi
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Hưng Yên là một trong những tỉnh có tình trạng mất cân bằng giới tính khi
sinh (MCBGTKS) cao trong cả nước, MCBGTKS xảy ra ở cả 10/10 huyện, thành
phố. Tại đây nghiên cứu tập trung về “Điều tra, đánh giá thực trạng và đề xuất giải
pháp giảm thiểu MCBGTKS của tỉnh Hưng Yên từ năm 2006 – 2010”, và cho đến
nay chưa có nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này trên địa bàn nhỏ hơn. Khoái Châu là
một trong những huyện có tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) cao nhất tỉnh Hưng
Yên, và đặc biệt trong vài năm gần đây, xã Bình Minh thuộc huyện Khoái Châu
TSGTKS có xu hướng tăng cao (năm 2010: 138/100; năm 2011: 176/100; năm
2012: 112/100; năm 2013: 229/100) và năm 2013 là xã có TSGTKS cao nhất huyện
Khoái Châu. Trước tình hình đó, đề tài nghiên cứu “Hành vi lựa chọn giới tính
trước sinh và một số yếu tố ảnh hưởng ở các bà mẹ tại xã Bình Minh, huyện Khoái
Châu, Hưng Yên, năm 2014” được thực hiện nhằm trả lời cho câu hỏi: tại sao lại có
hiện tượng này? Và làm thế nào để giảm MCBGTKS tại xã Bình Minh?
Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính phỏng vấn sâu 40 bà
mẹ thuộc 4 nhóm: bà mẹ có 1 con gái, bà mẹ có 2 con gái trở lên, bà mẹ có 1 con
trai và bà mẹ có từ 2 con trai trở lên. Nghiên cứu được thực hiện tại xã Bình Minh,
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên từ tháng 2 đến tháng 8 năm 2014.
Kết quả cho thấy tỷ số giới tính khi sinh tại xã Bình Minh trong những năm
gần đây tăng cao nguyên nhân chính vẫn là quan niệm trọng nam khinh nữ của
người dân. Phần lớn họ có tư tưởng ưa thích con trai để nối dõi tông đường, chăm
sóc cha mẹ lúc về già. Ngoài ra, nghiên cứu nhận thấy việc áp dụng các biện pháp
lựa chọn giới tính khi sinh như siêu âm, cắt thuốc uống theo nhận định của các bà
mẹ tỷ lệ thành công cao, 100% bà mẹ trong nghiên cứu đều biết giới tính thai nhi
trong quá trình mang thai và với các dịch vụ phá thai dễ dàng, nhiều bà mẹ đã lựa
chọn phương pháp này để loại bỏ thai nhi khi giới tính không như mong muốn.
Từ những kết quả có được của đề tài nghiên cứu, chúng tôi đã đưa ra kiến
nghị: cần có quy định nghiêm và chế tài xử phạt rõ ràng với cơ sở tư nhân công bố
giới tính khi sinh, phá thai lựa chọn giới tính; tăng cường tuyên truyền giáo dục về
bình đẳng giới, về các quy định pháp luật cũng như làm cho người dân nhận thức rõ
hơn về hậu quả của MCBGTKS.
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam xảy ra muộn hơn so với một số
nước khác có nền văn hóa tương đồng với Việt Nam, nhưng diễn biến với tốc độ
nhanh. Từ năm 2006, vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) ở Việt
Nam bắt đầu có dấu hiệu tăng đáng kể. Giai đoạn 2006 – 2008, tỷ số giới tính khi
sinh (TSGTKS) mỗi năm tăng 1,15 điểm phần trăm.. Từ năm 2009 đến nay, mỗi
năm TSGTKS tăng khoảng 0,6 điểm phần trăm[23]. Theo kết quả Tổng điều tra dân
số 1/4/2009, có tới 45/63 tỉnh, thành phố có tình trạng MCBGTKS, tập trung ở các
vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, trong đó những tỉnh,
thành phố có TSGTKS cao nhất (từ 115-130) đều thuộc khu vực Đồng bằng sông
Hồng[29].
Tình trạng MCBGTKS nếu không được can thiệp một cách quyết liệt sẽ để lại
hậu quả nặng nề trong tương lai về kinh tế, an ninh, chính trị và trật tự xã hội,…
Các chuyên gia dân số đã dự báo nếu không can thiệp mạnh để làm giảm TSGTKS,
Việt Nam sẽ “dư thừa” khoảng 2,3 đến 4,3 triệu nam giới trong tương lai[23].
Việt Nam đã có nhiều biện pháp nhằm giảm thiểu tình trạng này. Các văn bản
của Đảng và Nhà nước như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Luật bình đẳng
giới, Pháp lệnh dân số, các Nghị định của Chính phủ đều đề cập tới nhiều giải pháp
giảm MCBGTKS và nghiêm cấm các hình thức lựa chọn giới tính thai nhi. Trong
những năm qua, Tổng cục dân số kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế đã xây dựng, triển
khai thử nghiệm hoạt động can thiệp tại cộng đồng nhằm giảm thiểu MCBGTKS tại
43 tỉnh, thành phố có TSGTKS cao[23].
Tại Hưng Yên, theo thống kê một số năm gần đây, cả 10 trên 10 huyện và
thành phố đều có TSGTKS ở mức cao. Số liệu thống kê năm 2010 cho thấy
TSGTKS thấp nhất là 109/100 và cao nhất là 134/100. Đến năm 2012 TSGTKS dao
động từ 111/100 đến 126/100[4]. Khoảng cách lớn của TSGTKS của tỉnh những
năm gần đây đã phần nào phản ánh sự can thiệp có chủ đích, làm phá vỡ thế cân
bằng ổn định sinh học giữa số bé trai và bé gái được sinh ra trong xã hội và phản
ánh sự phân biệt đối xử có hệ thống đối với các bé gái từ trước khi được sinh ra[4].
2
Thực tế việc triển khai giảm thiểu mất cân bằng giới tính tại Hưng Yên còn
nhiều khó khăn, đề án “Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh” cũng chưa có
hoạt động cụ thể nào nhằm kiểm soát việc lựa chọn giới tính khi sinh một cách hiệu
quả. Hầu hết các hoạt động tại trạm y tế liên quan tới kế hoạch hóa gia đình. Mặc dù
quy định về cấm chẩn đoán và lựa chọn giới tính trước khi sinh đã được ban hành từ
năm 2003, một số trạm y tế đến năm 2009 mới nhận được những thông tin này từ
Phòng y tế huyện[1]. Tình trạng này dẫn đến TSGTKS của tỉnh Hưng Yên luôn ở
mức cao.
Tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu về lựa chọn giới tính trước sinh như
nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Huệ về tìm hiểu các yếu tố liên quan đến hành vi
lựa chọn giới tính tại huyện Tiên Du[7]; nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Mai về tìm
hiểu quan niệm về lựa chọn giới tính trước sinh và các yếu tố ảnh hưởng đến lựa
chọn giới tính trước sinh của phụ nữ chỉ có con gái tại Trác Văn huyện Duy Tiên
tỉnh Hà Nam[8]. Hai nghiên cứu trên đã cho thấy nguyên nhân chính của lựa chọn
giới tính trước sinh là trọng nam khinh nữ. Hiện nay trên địa bàn xã Bình Minh,
huyện Khoái Châu chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu về hành vi lựa chọn giới tính
trước sinh nên nghiên cứu này được tiến hành nhằm mô tả hành vi lựa chọn giới
tính trước sinh của bà mẹ đang sống tại xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh
Hưng Yên và một số yếu tố liên quan. Kết quả của nghiên cứu này sẽ cung cấp
thêm bằng chứng khoa học, giúp cho các nhà hoạch định chính sách trong việc xây
dựng biện pháp phù hợp nhằm góp phần hạn chế MCBGTKS.
3
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả hành vi lựa chọn giới tính trước sinh của bà mẹ sống tại xã Bình Minh,
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên năm 2014.
2. Mô tả một số yếu tố tác động tới lựa chọn giới tính trước sinh của bà mẹ
sống tại xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên năm 2014.
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.
Các khái niệm
1.1.1.
Tỷ số giới tính
Tỷ số giới tính chung là số nam trên 100 nữ trong một khoảng thời gian xác
định, thường là một năm tại một quốc gia, một vùng hay một tỉnh[15]. Bình thường
tỷ số giới tính cân bằng (dù lúc mới sinh số bé trai có nhiều hơn số bé gái chút ít,
nhưng giai đoạn trước 15 tuổi, tỷ lệ chết của bé trai cao hơn so với bé gái và khi về
già tuổi thọ của nam lại thấp hơn nữ khoảng 4-6 tuổi, do đó tính chung toàn bộ dân
số thì số nam và nữ tương đối cân bằng). Trong hoạch định chính sách, tỷ số giới
tính ít được chú ý bởi vì tỷ số này ít biến đổi và do tác động của các yếu tố bù trừ
lẫn nhau[36].
1.1.2.
Tỷ số giới tính khi sinh
Tỷ số giới tính khi sinh là số trẻ em trai được sinh ra còn sống trên 100 trẻ em
gái được sinh ra còn sống trong một khoảng thời gian xác định, thường là một năm
tại một quốc gia, một vùng hay một tỉnh[15].
Ở mức bình thường, tự nhiên, TSGTKS ở mức 105/100 (dao động trong
khoảng 104-106/100), đây là tỷ số rất được các nhà hoạch định chính sách quan tâm,
bởi sự tác động của nó đến cấu trúc dân số sau này[36].
Độ tin cậy của TSGTKS phụ thuộc rất lớn vào mẫu số được điều tra, mẫu số
càng lớn thì độ tin cậy càng cao. Và chỉ khi nào mẫu số được thống kê trên 10.000
trẻ thì con số đó mới có giá trị thống kê. Các số liệu về TSGTKS tính chung trong
cả nước được nêu trên đây là đáng tin cậy. Tuy nhiên trên địa bàn huyện hay xã thì
không có nơi nào đạt được số trẻ sinh ra là 10.000 trẻ/năm nhưng ta có thể thấy
được xu hướng TSGTKS tăng của địa phương đó. Chúng ta có thể tham khảo
TSGTKS của nhóm 0 tuổi hoặc nhóm 0 – 4 tuổi, đó cũng là một căn cứ đáng tin cậy.
TSGTKS của nhóm 0 – 4 tuổi cũng tăng từ 108,65 (Tổng điều tra dân số1.4.2009)
lên 111 (1.4.2010), đây là những dấu hiệu đáng báo động về TSGTKS hiện nay[20].
1.1.3.
Mất cân bằng giới tính khi sinh
Mất cân bằng giới tính khi sinh là số trẻ em trai được sinh ra còn sống vượt
trên ngưỡng bình thường so với 100 trẻ em gái được sinh ra còn sống trong một
5
khoảng thời gian xác định, thường là một năm tại một quốc gia, một vùng hay một
tỉnh. Theo quy ước nhân khẩu học, khi tỷ số giới tính khi sinh của một quốc gia,
một vùng hoặc một tỉnh/thành phố từ 110 trở lên là mất cân bằng giới tính khi
sinh[15].
1.2.
Thực trạng mất cân bằng giới tính khi sinh và hậu quả
1.2.1.
Thế giới
Các nước khu vực châu Âu hay như Úc, Nhật Bản là các nước phát triển và
mặc dù tỷ lệ sinh rất thấp, mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1,3 con (như ở Nhật Bản) nhưng
hầu như không xảy ra tình trạng MCBGTKS. Tỷ lệ giới tính khi sinh hàng năm ở
các quốc gia này ở mức bình thường, 104-106 bé trai/100 bé gái mới sinh[36].
Năm 2005, sáu nước Châu Á báo cáo mất cân bằng giới tính nghiêm trọng, với
TSGTKS trên 108 là: Ấn Độ, Hàn Quốc, Georgia, Azerbaijan, Trung Quốc và
Armenia. Theo số liệu chi tiết đối với Trung Quốc và Ấn Độ, TSGTKS ở các quốc
gia này từ lâu đã trên mức bình thường từ những năm 1950 và 1960. Năm 1990 đặc
biệt đối với Azerbaijan và Trung Quốc, TSGTKS đạt giá trị kỷ lục 110. Cùng với
Trung Quốc, một số nước cũng đạt TSGTKS trên 115 trong năm 2004 – 2009, trong
khi các nước bên ngoài Châu Á thường ghi nhận giá trị 101 – 105[42].
Bảng 1: Tỷ số giới tính khi sinh ở một số quốc gia, 2004 – 2009
Quốc gia/Vùng
TSGTKS
Thời kỳ Nguồn số liệu
Albania
111,5
2008
Hệ thống đăng ký khai sinh
Armenia
115,8
2008
Hệ thống đăng ký khai sinh
Azerbaijan
117,2
2007
Hệ thống đăng ký khai sinh
Trung Quốc (Đại lục)
120,6
2008
Ước lượng quốc gia
Tỉnh Giang Tây
137,1
2004
TĐTDS, mẫu 1%
Tỉnh An Huy
132,2
2004
TĐTDS, mẫu 1%
Tỉnh Thiểm Tây
132,1
2004
TĐTDS, mẫu 1%
Georgia
111,9
2006
Hệ thống đăng ký khai sinh
Ấn Độ
110,6
2006 –
2008
Hệ thống đăng ký khai sinh mẫu
6
Bang Punjab
119,6
Bang Haryana
118,0
Montenegro
109,6
Pakistan
108,9
Hàn Quốc
106,4
2006 –
2008
2006 –
2008
2004 –
2008
2003 –
Hệ thống đăng ký khai sinh mẫu
Hệ thống đăng ký khai sinh mẫu
Tỷ số giới tính trẻ em
Điều tra sức khỏe và nhân khẩu
2007
học
2008
Hệ thống đăng ký khai sinh
(Nguồn: Văn phòng thống kê, UNFPA 2010, Eurostat)
Theo bảng trên, ta thấy có sự gia tăng TSGTKS ở các quốc gia nhỏ hơn ở
Châu Á và Đông Nam Châu Âu, trong một vài trường hợp, mức dư thừa trong
TSGTKS là khoảng 5 trẻ em trai cho 100 trẻ em gái. Tuy nhiên ở một số quốc gia
như Armenia và Azerbaijan, TSGTKS bắt đầu gia tăng cách đây khoảng 20 năm và
vượt trên 115[32]. Ngoài một số nghiên cứu tại Trung Quốc và Ấn Độ, không có
một nghiên cứu định tính về việc chọn lọc giới tính tại các quốc gia thuộc vùng này.
Và ở đây giá trị TSGTKS cao từ số liệu thống kê về số sinh có vẻ như có quan hệ
chặt chẽ với ba yếu tố, đó là tâm lý ưa thích con trai trong xã hội, sự sẵn có của các
cơ sở chẩn đoán giới tính trước sinh và phá thai chọn lọc giới tính và mức sinh thấp
hoặc trung bình. Bên cạnh việc thiếu các điều tra dân tộc học đánh giá những tác
động cụ thể của các yếu tố này, việc thiếu nguồn số liệu thống kê tin cậy do thiếu hệ
thống đăng ký khai sinh hiệu quả hay thiếu số liệu từ Tổng điều tra dân số gần nhất
càng hạn chế việc tìm hiểu nguyên nhân của xu hướng TSGTKS này. Vì vậy, khó
có thể biết mức độ thực sự của tình trạng MCBGTKS trên phạm vi toàn thế giới,
ngoài các quốc gia trong bảng trên[34].
Tại Hàn Quốc, theo giáo sư Heeran Chun, Đại học Jungwon, tỷ số giới tính
khi sinh vẫn bình thường cho tới năm 1982, sau đó bị thay đổi cho tới năm 1998. Sự
mất cân bằng giới tính khi sinh được cải thiện từng năm, từ mức cao nhất 115,3
năm 1993 xuống 109,6 năm 1998. Điều này không chỉ do suy giảm sự ưa thích con
trai mà còn do việc thực thi nghiêm ngặt Luật y học, một nỗ lực của chính phủ
7
nhằm ngăn chặn nạo thai lựa chọn giới tính. Tháng 10 năm 1996, chính phủ Hàn
Quốc đã sửa Luật Y học, theo đó những bác sỹ tiến hành nạo thai lựa chọn giới tính
sẽ bị tịch thu giấy phép hành nghề và phạt tới 10.000 Won (tương đương 8.400
USD) hoặc bị tù tới 3 năm. Đến nay đã có khoảng 10 bác sỹ bị xét xử do thực hiện
nạo thai lựa chọn giới tính. Hàn Quốc gần như đã chuyển hẳn từ văn hóa trọng nam
sang văn hóa trọng nữ và là quốc gia đầu tiên thành công trong lĩnh vực giải quyết
mất cân bằng giới tính khi sinh và được quốc tế đánh giá cao[16].
Trong những thập niên gần đây, tình trạng tỷ lệ bé trai sinh ra nhiều hơn số bé
gái ở Trung Quốc ngày càng trở nên nghiêm trọng. Vào những năm 1960, 1970, tỷ
lệ bé trai/bé gái vẫn ở mức 106/100. Tuy nhiên, số lượng các bé trai đã tăng nhiều
từ sau thập niên 1980: 108,5/100 năm 1982; 110,9/100 năm 1987 và 111,3/100 năm
1990[45]. Theo điều tra chọn mẫu năm 2005, tỷ lệ này đã là 120,49. Và các chuyên
gia dân số đã chỉ ra ba nhân tố cơ bản dẫn đến tình trạng này: thứ nhất là nhiều trẻ
em gái sinh ra không được đăng ký; thứ hai tỷ lệ tử vong của trẻ em gái tăng; thứ ba
xác định giới tính trước sinh dẫn đến việc nạo phá thai theo giới tính. Nhân viên y tế
làm việc tại các cơ sở siêu âm bị cấm công bố giới tính thai nhi, nhưng nhiều người
trong số họ, đặc biệt ở các phòng mạch tư nhân, thường không chấp hành quy định.
Việc nạo phá thai ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe của người mẹ, nhưng họ
thường xuyên bị sức ép từ gia đình. Mặc dù việc lựa chọn giới tính thai nhi bị
nghiêm cấm, nhưng nhiều gia đình ở Trung Quốc vẫn “khát” con trai và bất chấp
rủi ro, đặc biệt tại các khu vực nông thôn[14]. Tỷ số giới tính khi sinh cao trong ba
thập kỷ qua đã và đang gây ra tình trạng thừa nam, thiếu nữ nghiêm trọng ở độ tuổi
kết hôn. Nam giới độc thân chiếm tới 94% số người độc thân ở độ tuổi 28 – 49.
Nhóm nam giới độc thân không thể lấy được vợ và phải duy trì cuộc sống độc thân
có thể ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững gia đình, làm gia tăng mức độ bạo lực,
gây mất ổn định và an ninh xã hội do nhu cầu tình dục của họ không được đáp ứng.
Số lượng nam giới ở độ tuổi kết hôn từ 20 – 49 được dự báo là “thừa” ngày càng gia
tăng: 36,2 triệu vào năm 2030 sẽ tăng lên 46,1 triệu vào năm 2040.
Tại Ấn Độ, trong khi phần lớn các nước tỷ số giới tính khi sinh là 105 bé
trai/100 bé gái thì tỷ số này ở đây là khoảng 113/100 và ở một số Bang tỷ số này lên
8
tới 129/100. Sự chênh lệch này vẫn đang tăng và được giải thích là do nạo phá thai
gái. Tuy từ năm 1972 ở Ấn Độ, nạo phá thai là hợp pháp, từ năm 1994 nạo phá thai
lựa chọn giới tính bị coi là bất hợp pháp. Tuy nhiên chính phủ chưa thực hiện lệnh
cấm một cách hữu hiệu. Đặc biệt là ở các bang giàu có như Haryana và Punjab và ở
các địa bàn đô thị, các cặp vợ chồng thường xác định giới tính của thai trước khi
sinh. Chính phủ đã nỗ lực cưỡng chế cấm việc làm này trong những năm gần đây
trước sự tăng đáng báo động của việc phá bỏ thai gái. Nếu tình trạng này tiếp tục
tiếp diễn thì mỗi năm Ấn Độ sẽ thiếu 400.000 bé gái do lựa chọn giới tính thai
nhi[13]. Mặc dù không có các biện pháp đo lường trực tiếp về mức độ phá thai do
chọn lọc giới tính, các điều tra tại địa phương đã dẫn chứng khá chi tiết về tâm lý ưa
thích con trai của các cặp vợ chồng ở Trung Quốc và Ấn Độ và những nỗ lực của họ
trong việc phá bỏ các thai gái sau khi đã xác định được giới tính thai nhi[41].
1.2.2.
Việt Nam
Các mục tiêu và giải pháp chiến lược dân số và SKSS giai đoạn 2011 - 2020
nhằm đảm bảo quy mô, cơ cấu và phân bố dân số ngày càng phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội, tập trung nâng cao chất lượng dân số và ngày càng tận dụng lợi thế
của cơ cấu dân số vàng, cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân. Một số mục tiêu cụ thể của vấn đề dân số và sức khỏe sinh
sản đặt ra trong 10 năm tới là[18]:
-
Khống chế tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh, phấn đấu tỷ số này không
vượt quá 115 vào năm 2020, tiến tới đưa tỷ số này trở lại mức bình thường.
-
Đáp ứng đầy đủ nhu cầu kế hoạch hóa gia đình của nhân dân, để số con trung
bình của một cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ (tổng tỷ suất sinh) đạt mức
1,8; quy mô dân số không quá 98 triệu người vào năm 2020.
-
Giảm mạnh phá thai, đưa tỷ số phá thai xuống 25/ 100 ca sinh sống vào năm
2020; cơ bản loại trừ phá thai không an toàn.
-
Tăng khả năng lồng ghép các biến đổi dân số vào hoạch định chính sách và
lập kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội; đảm bảo cung cấp đầy đủ kịp thời
chính xác thông tin, số liệu về dân số đáp ứng nhu cầu quản lý, điều hành
9
chương trình dân số, sức khỏe sinh sản, yêu cầu xây dựng quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 các cấp, các ngành.
Nhưng theo kết quả Tổng điều tra dân số, điều tra biến động dân số kế hoạch
hóa gia đình, TSGTKS năm 1999 ở mức 107. Trong những năm 2001 – 2005,
TSGTKS biến động lên xuống (2001 là 109; 2002 là 107; 2003 là 104; 2004 là 108;
2005 là 106). Nhưng từ năm 2006, với mức TSGTKS là 109,8 – vấn đề mất cân
bằng giới tính khi sinh trở lên “nóng” và thực sự thu hút sự chú ý của các phương
tiện thông tin đại chúng và dư luận xã hội[27].
Bảng 2: Tỷ số giới tính khi sinh toàn quốc từ năm 2006 đến 5 tháng đầu
năm 2013
Năm
Việt
Nam
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
109,8
111
110,8
110,5
111,2
111,9
112,3
5 tháng
2013
110,9
(Nguồn: Thực trạng dân số 2006, 2007; Niên giám thống kê 2008; Tổng điều
tra dân số và nhà ở năm 2009; Báo cáo thống kê chuyên ngành DSKHHGĐ 2010,
2011, 2012, 5 tháng 2013)[2, 17, 19, 22, 24, 29, 31, 32].
Như vậy từ năm 2006 đến 2008 bình quân mỗi năm tăng 1,15 điểm phần trăm;
từ năm 2009 đến năm 2012 mỗi năm tăng bình quân khoảng 0,6 điểm phần trăm.
Hậu quả của mất cân bằng giới tính:
Theo Ủy ban về các vấn đề xã hội đã tổng hợp và đưa ra những hậu quả về
mất cân bằng giới tính khi sinh.
Việt Nam bắt đầu xảy ra tình trạng MCBGTKS từ năm 2006 và sau khoảng
20-25 năm (tính từ năm 2006), số lượng nam giới trưởng thành sẽ nhiều hơn so với
nữ trưởng thành. Như vậy sẽ có nhiều đàn ông đến tuổi kết hôn nhưng không tìm
được bạn đời tương ứng, từ đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị
và trật tự an toàn xã hội, cụ thể như:
Nam giới khó kết hôn, kết hôn muộn, thậm chí là không thể kết hôn do không
tìm được bạn đời dẫn đến phải tìm cô dâu là người nước ngoài. Trong khi việc kết
hôn với người nước ngoài cũng có nhiều vấn đề này sinh như: khác biệt lớn về văn
10
hóa, ngôn ngữ … sẽ dẫn đến nguy cơ ảnh hưởng đối với gia đình, phân biệt đối xử
và mất bình đẳng giới.
Do khan hiếm phụ nữ nên các loại tội phạm buôn bán trẻ em gái và phụ nữ, tệ
nạn mại dâm có thể tăng lên. Kinh nghiệm của Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc đã
cho thấy tỷ số giới tính khi sinh trẻ em vượt quá 113 trong những năm trước đây đã
để lại những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội những năm gần đây[46].
Ngoài ra, do gia đình nhà chồng hoặc người chồng muốn có con trai, khi
người vợ không sinh được con trai theo ý muốn, người chồng bỏ rơi hoặc ly dị vợ;
gia đình chồng ép người chồng bỏ rơi vợ, hay cặp vợ chồng đẻ được con gái, cho
con gái đi làm con nuôi…
Tình trạng MCBGTKS đã để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng ở 1 số nước là
thậm chí còn nghiêm trọng hơn so với Việt Nam như hiện tượng giết chết trẻ em gái
mới sinh (rải rác xuất hiện ở Ấn Độ, Trung Quốc).
Hiện nay, hàng trăm ngàn cô dâu Việt Nam ở Hàn Quốc, Đài Loan; 65% trong
số gần 5.000 vụ buôn bán người phát hiện trong 5 năm vừa qua là số phụ nữ Việt
Nam bị bán, bị lừa đi lấy chồng Trung Quốc, có lẽ đó là những bằng chứng điển
hình về hậu quả MCBGTKS[36].
1.3.
Một số nguyên nhân dẫn tới hành vi lựa chọn giới tính trước sinh
Có rất nhiều nghiên cứu về tỷ số giới tính khi sinh trên thế giới trong hai thập
kỷ trở lại đây.
Theo Almond và Douglas về "tỷ số giới tính thiên về con trai năm 2000, Tổng
điều tra dân số Hoa Kỳ", nghiên cứu tập trung tìm hiểu về TSGTKS của trẻ em có
bố mẹ là người gốc Hoa, Hàn, Ấn để đối chứng với TSGTKS tại các quốc gia Trung
Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ cho thấy sự trùng lặp về mô hình thiên lệch về con trai ở
những lần sinh cao hơn. Sự mất cân bằng thiên về con trai được hiểu là bằng chứng
cho việc lựa chọn giới tính từ khi mang thai và kết quả của việc tiếp thị tới khách
hàng công nghệ lựa chọn giới tính qua xét nghiệm máu tại thời kì đầu của giai đoạn
mang thai[37].
Theo nghiên cứu của Christophe Z Guilmoto năm 2009 về "Giai đoạn quá độ
của TSGTKS ở châu Á", TSGTKS ở Tây và Đông Á không cân bằng, khoảng 110
11
Thậm chí ở Trung Quốc khoảng dưới 120, ở Ấn Độ trung bình là 108. Phần lớn
nguyên nhân là do tâm lý ưa thích con trai do cần có người thừa kế, do truyền thống
gia đình cần con trai nối dõi và do hệ quả của chính sách gia đình một con như ở
Trung Quốc đã áp dụng nhiều năm qua và đặc biệt là sự sẵn sàng của công nghệ lựa
chọn giới tính, khả năng để sử dụng lựa chọn các công nghệ chọn lọc giới tính hiện
đại và áp lực quy mô gia đình nhỏ cần phải lựa chọn giới tính cho thế hệ tiếp theo
của mình[41].
Cũng theo báo cáo của Christophe Z Guilmoto năm 2010 ở Nam Âu, tỷ số giới
tính khi sinh ở Albania đã đạt tới 111,5 vào năm 2008, ở Kosovo là 108,9 vào năm
2009. Tỷ số này tăng cao ở một số nước là do lựa chọn giới tính, tâm lý ưa thích
con trai và tránh đẻ con gái điển hình như ở Kosovo và vai trò quyền lực của tâm lý
ưa thích con trai ở Albania[43].
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Phạm Bằng và cộng sự năm 2011 về "bằng
chứng trực tiếp sự lựa chọn giới tính thai nhi ảnh hưởng đến tỷ số giới tính khi sinh"
tại Việt Nam đã cho thấy hệ quả của việc biết được giới tính thai nhi qua siêu âm,
và nạo phá thai nữ đã làm cho tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam tăng lên nhiều
trong những năm gần đây. Tỷ số giới tính khi sinh của phụ nữ biết giới tính thai nhi
là 110,8; và 110,0 ở những người biết qua siêu âm thai từ tuần 12 trở đi[38].
Với "Gia tăng TSGTKS có xảy ra ở Việt Nam không?" Khuất Thị Hải Oanh
và cộng sự năm 2009 đã phân tích chi tiết hơn số liệu cuộc điều tra và số liệu bệnh
viện không cho thấy TSGTKS theo thứ tự sinh và theo giới tính của trẻ em được
sinh ra trước đó cao hơn với con số kỳ vọng và nghề nghiệp của mẹ trong xã hội
dường như có nhiều động cơ, nhiều áp lực hơn để tác động tới giới tính của trẻ sinh
ra[43].
1.3.1.
Văn hóa
Trong khi ở Trung Quốc và Hàn Quốc, việc thờ cúng tổ tiên và nối dõi tông
đường theo hệ tư tưởng Nho giáo thì ở Ấn Độ sự ưa thích con trai bắt nguồn từ sự
gia trưởng và quyền thừa kế[5]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Huệ về “Tìm
hiểu các yếu tố liên quan đến hành vi lựa chọn giới tính tại huyện Tiên Du tỉnh Bắc
Ninh năm 2012” đã cho thấy nguyên nhân chính là quan niệm trọng nam khinh nữ
12
của người dân. Những người vợ trong gia đình cần phải sinh ra con trai để nối dõi
tông đường và thờ cúng sau này. Việc mong muốn đó đã khiến nhiều cặp vợ chồng
áp dụng theo sách vở hoặc đến các thầy lang, các bác sĩ tư để được tư vấn, hướng
dẫn về chế độ ăn uống, sinh hoạt[7]. Trong nghiên cứu Nguyễn Ngọc Mai cũng đưa
ra kết quả tương tự, sự tồn tại tư tưởng trọng nam trong người dân và nó có ảnh
hưởng mạnh mẽ sâu sắc đến mong muốn, quyết tâm sinh con trai của các cặp vợ
chồng và từ đó tác động đến việc lựa chọn giới tính trước sinh của các cặp vợ chồng
đó[8].
Tại Việt Nam, hệ thống an sinh xã hội cho người cao tuổi chưa phát triển, nhất
là ở các khu vực nông thôn, nơi có tới 70% dân số đang sinh sống. Người cao tuổi
hầu hết không có lương hưu, hay trợ cấp xã hội, họ cần sự chăm sóc về y tế. Tất cả
phụ thuộc vào khả năng phụng dưỡng của con cái, mà theo quan niệm của gia đình
truyền thống, trách nhiệm đó chủ yếu thuộc về con trai. Chính vì vậy, người già
luôn cảm thấy lo lắng cho tương lai và cảm thấy bất an nếu không có con trai, người
phụ nữ trong gia đình sẽ luôn phải chịu áp lực này[27].
Nghiên cứu mô tả TSGTKS tại Thiệu Hóa, Thanh Hóa từ năm 2005 – 2009,
và cũng thăm dò mối liên quan của một số yếu tố văn hóa, xã hội, kinh tế, dịch vụ
sàng lọc trước sinh với MCBGTKS và đề xuất các giải pháp can thiệp. Trong
nghiên cứu này, người dân cho biết họ muốn “có nếp có tẻ”, và sự ảnh hưởng của
gia đình, dòng họ, kinh tế, quan niệm xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến họ về các vấn
đề liên quan tới dân số. Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học công nghệ dẫn tới
khả năng chẩn đoán giới tính sớm và chính xác cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến
MCBGTKS[10].
1.3.2.
Tuyên truyền, phổ biến phương pháp lựa chọn giới tính trước sinh
Việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về dân số kém hiệu quả.
Công tác phổ biến, hướng dẫn, cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước có
trách nhiệm đến các nhà xuất bản, đơn vị phát hành, kinh doanh sách, ấn phẩm thiếu
thường xuyên, liên tục dẫn tới nhận thức không đầy đủ, dẫn tới vi phạm[26].
Công tác quản lý nhà nước về xuất bản phẩm và phát hành sách liên doanh,
liên kết còn nhiều bất cập. Công tác quản lý nhà nước về các hoạt động truyền
- Xem thêm -