Đồng chí Võ Toàn (Võ Chí Công) với Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Quảng Nam
17:46'
7/8/2012
Cuối năm 1939, trước sự khủng bố khốc liệt của thực dân Pháp, tổ chức đảng ở Quảng Nam bị bể vỡ nặng nề.
Toàn bộ Ban Tỉnh ủy bị bắt, Đảng bộ còn lại một số huyện ủy viên và 2 chi bộ ở Tam Kỳ, một số ít đảng viên ở
Duy Xuyên. Bấy giờ, đồng chí Võ Toàn (tên của đồng chí Võ Chí Công trong thời kỳ hoạt động Cách mạng
tháng Tám) đang là Phủ ủy viên Phủ ủy Tam Kỳ. Dựa vào thông tin từ “Ban Bí mật” gồm các đồng chí chủ chốt
trong Ban Tỉnh ủy đang bị giam trong nhà lao Hội An gửi ra, đồng chí tích cực tìm bắt liên lạc với các cơ sở cán
bộ còn lại và quần chúng cách mạng ở các phủ, huyện để gây dựng tổ chức và phong trào. Cùng với hoạt động
của đồng chí Nguyễn Sắc Kim, đến tháng 1-1940 Phủ ủy Tam Kỳ được lập lại, đồng chí Võ Toàn làm Bí thư. Vì
là Phủ ủy đầu tiên được lập lại của Đảng bộ Quảng Nam nên Phủ ủy Tam Kỳ làm luôn nhiệm vụ xây dựng tổ
chức đảng và phong trào quần chúng cho các phủ, huyện khác trong tỉnh. Đồng chí Võ Toàn trực tiếp phụ trách
các phủ, huyện Điện Bàn, Duy Xuyên, Hội An, Thăng Bình và nhà lao Hội An. Qua những cơ sở chắp nối được,
đồng chí tiến đến thành lập Ban liên lạc tỉnh, được cử làm trưởng ban. Ban liên lạc làm nhiệm vụ của Tỉnh ủy
lâm thời, phân công cán bộ đi xây dựng cơ sở, cử người đi tìm bắt liên lạc với Xứ ủy Trung Kỳ. Đến tháng 31940, Tỉnh ủy lâm thời chính thức thành lập, do đồng chí làm Bí thư. Vì chưa liên lạc được với Xứ ủy và Trung
ương nên gần 10 tháng trời, đồng chí Võ Toàn cùng với Phủ ủy Tam Kỳ, rồi Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam phải tự
xoay xở công tác để gây dựng lại tổ chức đảng, nuôi dưỡng và phát triển phong trào cách mạng tại địa phương.
Cuối năm 1940, hệ thống tổ chức của Đảng đã khôi phục lại ở các phủ huyện đồng bằng, Ban Tỉnh ủy Quảng
Nam chính thức được thành lập, do đồng chí Hồ Tỵ (phái viên tăng cường của Xứ ủy) làm Bí thư, nhưng sau đó,
đồng chí Hồ Tỵ có nhiệm vụ khác, đồng chí Võ Toàn được giao phụ trách công việc chung của Tỉnh ủy Quảng
Nam.
Phong trào vừa mới được nhen nhóm thì tháng 11-1940, hai xứ ủy viên Hồ Tỵ và Nguyễn Đức Dương đều bị bắt,
Đảng bộ Quảng Nam lại mất liên lạc với Xứ ủy Trung Kỳ và bị bể vỡ. Cả Tỉnh ủy chỉ còn hai đồng chí Võ Toàn
và Nguyễn Sắc Kim. Tuy bị địch truy nã gắt gao, nhưng hai đồng chí vẫn lặn lội hết phủ này đến huyện khác để
lãnh đạo tư tưởng, bàn kế hoạch chống khủng bố nhằm giữ vững sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, ra báo Cứu Quốc với số
lượng in đầu tiên đến 300 bản để qua đó đảng viên, quần chúng biết được đường lối, chủ trương của Đảng. Nhờ
tinh thần tự xoay xở đó của hai đồng chí, phong trào cách mạng trong tỉnh vẫn được duy trì, tổ chức Đảng và tổ
chức quần chúng được củng cố từ tỉnh, huyện đến cơ sở. Theo Chỉ thị của Trung ương Đảng, tháng 10-1940, Xứ
ủy Trung Kỳ được tái lập, cơ quan đứng chân hoạt động tại Quảng Nam. Đến đầu năm 1942, toàn tỉnh có 6 ban
chấp
hành
phủ,
huyện,
70
chi
bộ
với
khoảng
230
đảng
viên.
Từ tháng 3 đến tháng 10-1942, thực dân Pháp mở đợt khủng bố mới, tổ chức đảng ở Quảng Nam lại bị bể vỡ trên
diện rộng. 942 đảng viên và quần chúng cách mạng bị bắt. Tỉnh ủy Quảng Nam lại chỉ còn 2 tỉnh ủy viên là Võ
Toàn và Nguyễn Sắc Kim. Toàn ban Xứ ủy Trung kỳ cũng bị vỡ và đây là lần bể vỡ dài nhất, phải mãi đến sau
ngày Cách mạng tháng Tám thành công mới lập lại được. Đồng chí Võ Toàn phải cùng đồng chí Nguyễn Sắc
Kim tạm chuyển vào các tỉnh phía trong, vừa tránh sự truy nã của địch, vừa xây dựng cơ sở ở Phan Thiết và Đà
Lạt. 3 tháng sau, hai đồng chí quay về Quảng Nam, lập Ủy ban vận động Việt Minh tỉnh và triệu tập hội nghị
Tỉnh ủy. Cuộc họp này đi đến quyết định thành lập liên tỉnh - thành ủy Quảng Nam - Hội An - Đà Nẵng, do đồng
chí Võ Toàn làm Bí thư, không chỉ có nhiệm vụ xây dựng phong trào tại chỗ, sẵn sàng đón thời cơ khởi nghĩa,
mà còn đẩy mạnh hoạt động ra khắp các tỉnh miền Trung. Khi phong trào cách mạng trong tỉnh phục hồi, Tỉnh ủy
mới được tái lập, thay cho liên tỉnh - thành ủy, cũng do đồng chí Võ Toàn làm Bí thư.
Tháng 4-1943, thực dân Pháp lại mở đợt khủng bố kéo dài cho đến cuối năm. Tỉnh ủy cũng chỉ còn 2 đồng chí
Võ Toàn và Nguyễn Sắc Kim, phải chuyển lên hoạt động tại huyện Tiên Phước, rồi đến tháng 11 cũng bị địch bắt
và
đày
lên
Buôn
Ma
Thuột.
Sau sự kiện Nhật đảo chính lật Pháp (3-1945) đồng chí Võ Toàn thoát khỏi nhà đày về lại tỉnh nhà. Bấy giờ
phong trào cách mạng ở Quảng Nam đã được phục hồi, đồng chí được mời tham gia vào Ủy ban cứu quốc của
Tỉnh và tuy không ở trong Ban Tỉnh ủy lâm thời nhưng đồng chí vẫn được mời họp góp ý kiến vào công tác chỉ
đạo chung của Tỉnh ủy. Trong thời gian này đồng chí được Thường vụ Tỉnh ủy giao phụ trách các huyện Duy
Xuyên, Quế Sơn, Đại Lộc, đồng thời dù chưa khôi phục đảng tịch nhưng vẫn tham gia kiện toàn và trực tiếp lãnh
đạo các huyện ủy. Những huyện do đồng chí phụ trách, phong trào phát triển sôi nổi, cơ sở Việt Minh, đoàn thể
cứu quốc, tự vệ bí mật phục hồi và phát triển nhanh. Đồng chí còn đóng góp ý kiến với Tỉnh ủy về đẩy mạnh các
hoạt động tuyên truyền công khai, xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, cô lập huynh hướng sai lầm của một số
đảng viên vốn có uy tín nhưng do bị tù lâu ngày, không nắm được tình hình nên chủ trương cải tổ chính phủ Trần
Trọng Kim, dùng chính phủ này ban hành hiến pháp quân chủ lập hiến và lập tổ chức Đoàn Thanh niên Tân lập
hiến làm hậu thuẫn đấu tranh đòi thi hành hiến pháp, hy vọng như thế sẽ giành được độc lập.
Khi nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, Tỉnh ủy Quảng Nam căn cứ vào Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta”, quyết định gấp rút huy động toàn dân kịp thời nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền;
chuyển các lực lượng cứu quốc thành lực lượng quần chúng vũ trang làm nòng cốt cho khởi nghĩa; chuyển các ủy
ban Việt Minh, ủy ban cứu quốc thành các ủy ban bạo động. Đồng chí Võ Toàn được cử vào Thường trực Ủy ban
bạo động tỉnh. Đồng chí đã cùng các đồng chí trong Thường trực bàn bạc kế hoạch hành động, viết các chỉ thị bổ
sung về chủ trương và hướng dẫn cụ thể, đánh máy gửi hỏa tốc cho các ủy ban bạo động các phủ, huyện, thị xã.
Lúc đầu, Thường trực ủy ban bạo động tỉnh lên kế hoạch khởi nghĩa vào ngày 21-8 và dự kiến cấp phủ, huyện
khởi sự trước, sau đó mới tập trung lực lượng kéo về cướp chính quyền ở tỉnh lỵ. Nhưng khi kiểm tra tình hình
tại Hội An vào đêm 17-8-1945, đồng chí Võ Toàn lấy danh nghĩa Thường trực Ủy ban bạo động tỉnh triệu tập
khẩn cấp cuộc họp Ủy ban bạo động Hội An. Qua phân tích thấy tình hình ở đây có những chuyển biến thuận lợi
(Đồn bảo an đã có cơ sở nội ứng; Tỉnh trưởng Tôn Thất Giáng thái độ lừng khừng không dám chống đối; quân
Nhật đã rút ra Đà Nẵng, chỉ để lại chưa đầy 10 tên) nhưng số phản đế và số chức sắc trong đạo Cao Đài lại đang
sắm cờ chuẩn bị tranh cướp chính quyền với Việt Minh, đồng chí khẳng định thời cơ khởi nghĩa ở Hội An đã chín
muồi, cần nhanh chóng cướp chính quyền ngay trong đêm 17-8. Được cuộc họp nhất trí, đồng chí viết thư cử
người đi gặp Thường trực Ủy ban bạo động tỉnh đề nghị cho Hội An khởi nghĩa trước, đồng thời đề nghị Tỉnh
hướng dẫn lực lượng ở Tam Kỳ và Hòa Vang chặt cây cản đường nội ngay trong đêm 17 rạng ngày 18-8 nhằm
chặn đường xe Nhật từ Quảng Ngãi ra, Đà Nẵng vào để khởi nghĩa cho xong Hội An.
Trong lúc chờ lệnh của Thường trực Ủy ban bạo động tỉnh, đồng chí Võ Tòan cùng Ủy ban khởi nghĩa của Hội
An tiếp tục họp bàn kế hoạch cụ thể về cướp đồn lính bảo an và sau đó là cướp tỉnh đường. Đến khi có được lệnh
của Tỉnh thì phương án và sự chuẩn bị lực lượng ở Hội An cũng đã chu toàn. Chỉ trong 4 tiếng đồng hồ, rạng
sáng ngày 18-8 cuộc khởi nghĩa ở Hội An giành thắng lợi. Lực lượng khởi nghĩa lần lượt chiếm đồn bảo an rồi
đến kho bạc, cơ quan mật thám, bưu điện. Liền sau đó, giao lại việc ổn định trật tự, bảo vệ chính quyền cho Thị
ủy và Ủy ban bạo động Hội An, đồng chí Võ Toàn trực tiếp tập hợp lực lượng và tổ chức đoàn xe có trang bị vũ
khí đầy đủ (lấy được của địch) tiếp tục đi hỗ trợ cho các huyện. Chỉ trong một ngày, đoàn xe của đồng chí Võ
Toàn đã hỗ trợ Duy Xuyên, Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước giành chính quyền thắng lợi.
Diễn biến khởi nghĩa ở Hội An và các phủ huyện phía nam của Quảng Nam cho thấy sự nhạy bén trong việc nắm
bắt tình hình, kịp thời xin ý kiến Thường trực ủy ban bạo động tỉnh cho phép Hội An khởi nghĩa trước và trong
khi chờ đợi sự đồng ý đã chủ động chuẩn bị mọi mặt để khi được phép thì hành động kịp thời. Từ quyết định của
đồng chí Võ Toàn, có thể khẳng định sự ứng biến linh hoạt mà vẫn tuân thủ nghiêm kỷ luật của tổ chức để chớp
lấy thời cơ khởi nghĩa ở Hội An có ý nghĩa rất quan trọng đối với thành công của cách mạng Tháng Tám ở
Quảng Nam. Khởi nghĩa ở Hội An cho thấy phương án đề ra khá hoàn hảo, phương thức khởi nghĩa ứng biến linh
hoạt theo hướng có lợi nhất, nhờ vậy nên đã giành được thắng lợi quyết định chỉ trong một ngày. Hơn nữa, đối
sách của đồng chí với quân Nhật trong lúc khởi nghĩa là bài học kinh nghiệm làm giảm thổn thất cho lực lượng
cách mạng: Mặc dù Lệnh khởi nghĩa của Ủy ban bạo động Việt Minh tỉnh có nêu khẩu hiệu “Đánh đổ phát xít
Nhật - Pháp”, nhưng khi đoàn xe chở lực lượng tự vệ đến Vĩnh Điện gặp quân Nhật chặn đường, đồng chí Võ
Toàn đã nói rõ chủ trương trung lập, không tấn công quân Nhật nên chúng để đoàn đi qua. Trong khi đó, do
không được quán triệt chủ trương trung lập quân Nhật nên ở một số nơi, tự vệ xông vào chặt lốp xe, chém lính
Nhật cướp súng (Điện Bàn), nhận chìm sà lan không cho xe Nhật sang sông (Đại Lộc), hoặc lăn cây chặn đường
(Tam
Kỳ)
bị
lính
Nhật
nổ
súng
bắn
chết
và
bị
thương
gần
60
người.
Nhìn lại thời kỳ vận động giải phóng dân tộc 1939-1945, mặc dù thực dân Pháp nhiều lần khủng bố, Đảng bộ đến
4 lần bị bể vỡ nhưng Quảng Nam vẫn là tỉnh có phong trào cách mạng diễn ra liên tục, bền bỉ, và đặc biệt, trong
Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, Quảng Nam là một trong những tỉnh giành chính quyền sớm nhất trong
cả nước (trước ngày 19-8-1945). Trong sự thành công đó, cùng với vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, của các đồng
chí đứng đầu Ban Tỉnh ủy, tinh thần chủ động, linh hoạt công tác của các đảng viên và sự hưởng ứng đường lối
cứu nước của Đảng của toàn dân, có dấu ấn của đồng chí Võ Toàn. Dấu ấn đó thể hiện trong việc chủ động xây
dựng tổ chức đảng, tổ chức quần chúng, vạch ra chương trình công tác trong những trường hợp mất liên lạc với
Xứ ủy Trung Kỳ, chủ động, linh hoạt trong khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 với vai trò cá nhân của người trực
tiếp chỉ huy cuộc khởi nghĩa ở Hội An và chỉ huy lực lượng tự vệ vũ trang đi hỗ trợ cho các huyện, nhưng vẫn
đảm bảo được nguyên tắc tập thể lãnh đạo của Tỉnh ủy và Thường trực ủy ban bạo động tỉnh trong giờ phút quyết
định của cuộc khởi nghĩa này. PGS, TS. Ngô Văn MinhHọc viện Chính trị - Hành chính khu vực II
- Xem thêm -