Đổi mới đánh giá giáo dục theo hướng đánh giá năng lực của học sinh –
những vấn đề cơ bản trong quy trình đánh giá năng lực ở giáo dục phổ thông
TS. Dương Thu Mai1
Từ thế kỷ 18, Johahn Woftgan von Goethe (1749-1832) đã nói:
“Biết là không đủ. Chúng ta cần ứng dụng.
Ý chí là không đủ. Chúng ta cần làm gì đó”
Trong ngành giáo dục, trích dẫn này cho thấy từ cách đây ít nhất là 200 năm, việc ứng
dụng kiến thức đã bắt đầu được chú trọng hơn là việc ghi nhớ kiến thức. Hiện nay, đây vẫn chính
là một tư tưởng cơ bản của giáo dục hiện đại trên toàn thế giới và là trọng tâm đổi mới giáo dục ở
nhiều quốc gia. Trong bối cảnh đổi mới giáo dục toàn cầu, Việt Nam cũng đang thực hiện đổi mới
giáo dục phổ thông theo định hướng đánh giá năng lực (NL) “ứng dụng” kiến thức của học sinh,
trong đó có đổi mới đánh giá giáo dục (ĐGGD) theo hướng từ ĐG kiến thức, kỹ năng sang hướng
ĐG NL. Báo cáo này trình bày khái niệm NL, đặc điểm của ĐG NL và quy trình thực hiện
ĐGNL, các bài học từ việc ĐG NL trên thế giới và việc vận dụng các kinh nghiệm đó tại Việt
Nam.
1. Khái niệm NL trong đánh giá giáo dục hiện đại
Báo cáo này sẽ bắt đầu bằng việc giới thiệu sơ lược về bối cảnh phát triển của đánh giá
giáo dục hiện đại, mà trong đó đánh giá NL là một trong những đường hướng quan trọng nhất.
Lịch sử ĐG giáo dục có thể được phân chia thành ba giai đoạn với ba hình thái đặc trưng: ĐG đo
lường tâm lý, ĐG theo bối cảnh, ĐG cá nhân hóa . Lý do cho sự chuyển biến các hình thái ĐG là
sự xuất hiện và ảnh hưởng của các lý thuyết mới về giáo dục, học tập và nghiên cứu. Ví dụ,
Cooper (1997) nêu ra các lý do: môi trường giáo dục mới, mục tiêu học tập mới, những yêu cầu
mới về mối tương quan giữa ĐG và dạy học. Shepart (2008) thì giải thích sự chuyển biến này
bằng cách phân tích ảnh hưởng của lý thuyết tư duy học tập lên quan điểm mới về chương trình
và ĐG trên lớp. Tuy nhiên, các cách phân tích này chưa đầy đủ vì chưa rõ điều gì đã khiến cho
1
Trường Đại học ngoại ngữ, Đại học quốc gia Hà Nội
1
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
các giá trị truyền thống bị thay đổi như vậy. Herman et al. và Serafini đưa ra câu trả lời xác đáng
và triết lý hơn, bằng những thay đổi về tư tưởng từ chủ nghĩa thực chứng sang chủ nghĩa hậu thực
chứng.
Trong hình thái ĐG giáo dục hiện đại, văn hóa ĐG hiện đại (new assessment culture) đã
hình thành. Rất nhiều hướng tiếp cận ĐG mới và khái niệm mới đã xuất hiện, trong đó có “ĐG
không truyền thống” (alternative assessment) , “ĐG định tính” (qualitative assessment), ĐG thực
hành (performance-based assessment), ĐG theo chuẩn (standard-based assessment), ĐGNL
(competence-based assessment), ĐG theo sản phẩm đầu ra (outcome-based assessment). ĐG
không truyền thống tập trung vào những lý luận và phương pháp ĐG mới so với bài kiểm tra viết
trên giấy thực hiện bởi học sinh. ĐG định tính bao hàm các lý luận và phương pháp ĐG bằng
nhận xét, mang tính cá nhân cao, kết hợp nhận định chủ quan của người ĐG. ĐG thực hành yêu
cầu người học phải suy nghĩ và thực hành một nhiệm vụ học tập thực sự, không chỉ liệt kê và ghi
nhớ kiến thức.
Đánh giá NL là gì và khác như thế nào với các định hướng đánh giá khác? Một phần câu
trả lời sẽ được trình bày trong báo cáo này.
1.1. Khái niệm NL và đánh giá NL
1.1.1. NL học tập và các thành phần của NL học tập
Cho tới hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và khác biệt về cách định nghĩa khái niệm “NL”
trên phạm vi thế giới. Tuy có thể khác nhau về từ vựng, nhưng về ý nghĩa luôn có hai khái niệm
là NL chung (competence hoặc general competencies) và NL riêng/cụ thể (competencies). Khi
phân tích xu hướng toàn cầu hóa của ĐG NL trong giáo dục, Kouvenhowen và Yu đã phân biệt
05 cách định nghĩa NL khác nhau trên thế giới:
- NL là khả năng thực hiện các nhiệm vụ học tập đạt tới một chuẩn được yêu cầu nào đó .
Cách định nghĩa này gắn với sản phầm đầu ra, NL đồng nghĩa với khả năng thực hiện và không
nêu rõ thành phần NL nên không rõ ràng.
- NL là khả năng sử dụng và lựa chọn kiến thức, kỹ năng, thái độ v.v. trong việc thực hiện
một nhiệm vụ học tập chính yếu tới một chuẩn được yêu cầu nào đó. Cách định nghĩa này liên
quan tới NL cụ thể, nhưng cũng là cách định nghĩa thông dụng nhất.
2
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
- NL là sở hữu một hệ thống kiến thức, kỹ năng, thái độ v.v. nào đó. Cách định nghĩa này
gắn với yếu tố đầu vào, không nhấn mạnh sự vận dụng các thành phần NL.
- NL là một danh sách những gì học sinh có thể thực hiện. Cách định nghĩa này cũng gắn
với sản phẩm đầu ra nhưng theo hướng hành vi và cụ thể hóa.
- Định nghĩa NL bằng cách kết hợp bốn cách định nghĩa trên
Điểm đầu tiên có thể nhận thấy từ cả năm cách định nghĩa này là NL là khái niệm tổng
hợp, nhất thiết bao hàm ba thành phần chính là kiến thức, kĩ năng, thái độ và một số yếu tố cá
nhân khác. Ngoài ra, từ năm cách định nghĩa nổi bật này, có thể phân loại, sắp xếp các quan điểm
về NL theo mức độ cụ thể, trong đó cụ thể nhất là cách định nghĩa liệt kê những hành vi học sinh
có thể thực hiện và trừu tượng nhất là việc liệt kê những khả năng liên quan tới tư duy học sinh
dùng để thực hiện một số nhiệm vụ học tập thiết yếu. Cách định nghĩa NL như một khái niệm
trừu tượng là cách định nghĩa thông dụng hơn trong giáo dục hiện đại, qua đó học sinh không chỉ
được đánh giá qua những kiến thức, kĩ năng, thái độ, v.v. một cách phiến diện, riêng biệt và tách
rời nhau mà phải được đánh giá qua mức độ tư duy mà học sinh vận dụng những thành phần NL
đó. Bản thân mỗi thành phần như kiến thức, kĩ năng, thái độ, v.v cũng bao hàm nhiều thành phần
nhỏ hơn. Dựa trên khả năng vận dụng các thành phần NL vào những loại bài tập/hoàn cảnh khác
nhau, cũng có thể phân biệt hai khái niệm NL hẹp và NL rộng. NL theo nghĩa hẹp, hay là NL cụ
thể, là khả năng lựa chọn và vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ một cách tổng hợp để
thực hiện một loại nhiệm vụ học tập cụ thể trong một hoàn cảnh cụ thể hoặc một khâu của một
NL chung, dưới tác động của các yếu tố khác như động cơ học tập, ý chí, sự tự tin, v.v. Khái niệm
NL theo nghĩa hẹp này có thể được phân biệt với việc thực hiện một nhiệm vụ học tập, theo đó nó
được thể hiện và đánh giá qua những thực hành (performances) có thể nhìn thấy được. NL còn có
thể được định nghĩa rộng hơn: NL chung là khả năng vận dụng, chuyển biến các thành phần
kiến thức, kĩ năng, thái độ, và các yếu tố cá nhân khác theo một cơ chế nào đó để thực hiện
đạt chuẩn những nhiệm vụ học tập thiết yếu của một môn học (từ 20-30 nhiệm vụ). Như vậy, NL
theo nghĩa rộng (chung) bao hàm các NL theo nghĩa hẹp (cụ thể), bao hàm cả đặc điểm nội hàm
(input) và sản phẩm đầu ra (output) của người học và được thể hiện ở vô số các biểu hiện thực
hiện nhiệm vụ học tập (learning task performances). Khái niệm theo nghĩa rộng này cũng mang
tính trừu tượng và tổng quát, tuy bao hàm các NL theo nghĩa hẹp nhưng không thể chia lẻ NL
3
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
chung thành từng NL cụ thể để đánh giá rồi cộng các chỉ số đơn lẻ lại để có kết quả cuối cùng về
NL chung một cách cứng nhắc. Ngoài ra, khái niệm “chung” hay “riêng” hoàn toàn là tương đối.
Một NL riêng có thể trở thành NL chung của một số NL riêng khác trong cấu trúc NL. Có thể
hình dung một khung NL chung như trong hình dưới đây
Hình 1a và 1b: Các mô hình khung NL
Hình 1b diễn tả sự trừu tượng của khái niệm NL. Do trừu tượng nên NL nhất thiết được
nhìn nhận qua các NL cụ thể hơn. Có thể lấy một số khung NL cơ bản của một số quốc gia để làm
ví dụ trong đó các NL cụ thể của NL học tập đã được xác định. Phần lớn NL cụ thể thường liên
quan lẫn nhau.
Hội đồng chung châu Âu khi thiết kế chương trình giáo dục và đào tạo cho năm 2010 cho
rằng có 08 NL chính để chuẩn bị cho học sinh khi bắt đầu cuộc sống:
(1) NL giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ;
(2) NL giao tiếp bằng ngoại ngữ;
(3) NL toán học và các khoa học cơ bản;
(4) NL sử dụng công nghệ thông tin;
(5) NL học cách học;
(6) NL xã hội, liên văn hóa và liên nhân;
4
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
(7) NL lãnh đạo và phụ trách;
(8) NL thể hiện văn hóa.
Tuy rằng không thể nói các NL này là hoàn toàn tách biệt, nhưng tám lĩnh vực NL có thể
được nhận ra rõ ràng. Rất ít khung NL chia được thành các NL riêng rẽ như trong hình 1a.
Trong chương trình Đánh giá sinh viên quốc tế PISA (hình 1b), các NL chung chính bao
gồm: NL sử dụng các công cụ giao tiếp; NL giao tiếp trong nhóm; NL hành động tự giác. Mỗi NL
này bao hàm nhiều NL riêng nhưng những NL riêng này có thể cũng nằm trong một NL chung
khác. Ví dụ, NL sử dụng công cụ giao tiếp bao hàm NL sử dụng và giao tiếp bằng ngôn ngữ, ký
hiệu, công nghệ; NL giao tiếp nhóm bao hàm NL hợp tác, giải quyết mâu thuẫn, v.v ; NL hành
động tự giác bao hàm NL lập kế hoạch cả đời và các dự án cá nhân và các NL riêng khác. Mỗi NL
riêng này lại được thể hiện ở một số khả năng cụ thể.
Một ví dụ khác cho cách cấu trúc NL lồng ghép nhau là khung NL cho giáo dục phổ thông
tại Singapore với tám nhóm NL cơ bản: Phát triển tính cách; Tự điều khiển bản thân; NL xã hội
và hợp tác; NL đọc viết; NL giao tiếp; NL xử lý thông tin; NL suy nghĩ và sáng tạo; NL ứng dụng
kiến thức.
Hình 2: Các NL thiết yếu của học sinh Singapore
Tương tự như vậy, khung NL của Phần Lan gồm 8 NL chính có mối quan hệ lồng ghép với
nhau, được biểu diễn trong hình dưới đây. Phần Lan cũng như các nước châu Âu phát triển các
5
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
NL rất gần với các NL được phát triển bởi Cộng Đồng châu Âu, nhấn mạnh NL giao tiếp bằng
ngôn ngữ, NL sử dụng công nghệ bao hàm cả công nghệ số và NL sáng tạo.
Hình 3: Mô hình NL của Phần Lan
Các NL riêng trong hệ thống NL chung cũng lại có thể trở thành NL chung cho một số NL
riêng khác. Một ví dụ cho NL sử dụng ngôn ngữ giao tiếp với bốn NL riêng được trình bày trong
Hình 4. NL ngôn ngữ giao tiếp là một khái niệm rất quen thuộc trong việc giảng dạy ngôn ngữ mẹ
đẻ hoặc giảng dạy ngoại ngữ. Khái niệm này ra đời cùng với đường hướng giảng dạy ngôn ngữ
giao tiếp những năm 1980. NL ngôn ngữ giao tiếp được định nghĩa là khả năng vận dụng ngôn
ngữ trong hoạt động giao tiếp. Canale và Swain (1981) là người đầu tiên định nghĩa NL này, gồm
ba NL riêng: NL ngữ pháp; NL ngôn ngữ xã hội và NL chiến lược. Bachman (1990) thay đổi và
điều chỉnh cấu trúc NL giao tiếp thành 4 NL riêng: NL sử dụng ngữ liệu, NL ngôn ngữ xã hội, NL
ngữ dụng và NL chiến lược ngôn ngữ.
6
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
Hình 4: Mô hình NL ngôn ngữ giao tiếp,
chỉnh sửa theo Canale và Swain và Bachman
Ở nhiều quốc gia, NL giải quyết vấn đề cũng được coi là một loại NL học tập quan trọng,
thể hiện trong nhiều môn học. Tuy nhiên định nghĩa NL này như thế nào là vấn đề gây tranh cãi
lớn trong ngành giáo dục. Có rất nhiều đường hướng định nghĩa NL giải quyết vấn đề, ví dụ như
định nghĩa NL giải quyết vấn đề theo quá trình xử lý thông tin, hoặc theo quá trình giải quyết vấn
đề. Tổng hợp các mô hình khác nhau và tập trung vào quá trình giải quyết vấn đề, Wu (2003) cho
rằng NL giải quyết vấn đề bao gồm bốn NL nhỏ như trong hình sau, bắt đầu từ NL đọc hiểu để
lấy dữ liệu từ câu hỏi.
Hình 5: Mô hình NL giải quyết vấn đề trong toán học (Wu, 2003)
7
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
Bốn NL riêng trong mô hình NL này có thể không thể tách biệt rõ ràng. Có những thực
hành của học sinh thể hiện hai hay ba NL riêng. Trong đó NL đọc hiểu, lấy dữ liệu từ câu hỏi là
để hiểu vấn đề cần giải quyết. Nếu hiểu sai thì sẽ dẫn tới giải quyết sai. Để hiểu một vấn đề trước
hết học sinh cần có khả năng về ngôn ngữ chung, ngôn ngữ chuyên biệt/toán học, những giả định
thông thường trong câu hỏi. Trí thông minh khi được phân tích cũng bao hàm khả năng hiểu và sử
dụng ngôn ngữ, vậy nên có thể cho rằng NL đọc hiểu chính là một NL riêng trong NL chung là
giải quyết vấn đề. NL thứ hai trong quá trình giải qyết vấn đề là NL suy luận toán học, bao hàm
việc suy luận, toán hóa, và sử dụng khái niệm toán học. Nói cách khác đó là NL hình dung ra vấn
đề theo một phương cách toán học (ví dụ như công thức hoặc phương trình). Học sinh có thể hiểu
nhưng nếu không hình dung được theo cách này thì không giải quyết được vấn đề. NL riêng thứ
ba là NL thực hiện tính toán, hay còn gọi là khả năng đưa ra kết quả chính xác hoặc khả năng giải
quyết vấn đề cẩn thận. NL riêng cuối cùng là việc vận dụng mọi kiến thức và kĩ năng toán học để
giải quyết vấn đề thực tiễn, hay là đưa ra những cách giải quyết có nghĩa. Ví dụ như việc trả lời
câu hỏi “Cần bao nhiêu xe buýt để đưa đón học sinh?” bằng một đáp án số nguyên.
Trong giáo dục hiện đại, một loại NL đặc biệt được chú trọng, đó là NL sáng tạo. Kinh
nghiệm của các nước có kết quả giáo dục được đánh giá cao trên thế giới như Hồng Kông, Phần
Lan, Đan Mạch cho thấy NL sáng tạo nên là một trong những NL thiết yếu trong giáo dục phổ
thông. NL sáng tạo có thể được định nghĩa là khả năng đưa ra những cải cách nhìn thấy được
trong một lĩnh vực kiến thức hoặc thực hành, trong các điều kiện nguồn lực và bối cảnh cho phép.
Rất khó làm rõ các thành phần của NL này. Theo một tài liệu của dự án DeSeCo (OECD, 2001),
NL này có thể bao gồm ba thành phần: NL chuyển giao và kết hợp, NL hoạt động tự giác và cân
bằng, NL tập trung và giữ kỷ luật.
Hình 6: Mô hình NL sáng tạo
8
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
Nói tóm lại, qua các tài liệu nghiên cứu và các ví dụ thực tế về cấu trúc NL trên, có thể
nhận ra những đặc điểm chung nhất về NL và xu hướng các NL tiêu biểu của các nước. Khái
niệm NL được thể hiện thống nhất là một khái niệm trừu tượng, tổng hợp, bao hàm nhiều thành
phần NL cụ thể. NL được thể hiện thông qua việc vận dụng các thành tố của NL như kiến thức, kĩ
năng, thái độ, tình cảm và một số yếu tố cá nhân khác trong việc thực hiện đạt chuẩn các nhiệm
vụ học tập chính yếu trong một lĩnh vực. Trong đó quan trọng nhất vẫn là các thành tố kiến thức,
kĩ năng và thái độ; tuy nhiên NL là tổng hòa của các thành tố này. NL được thể hiện ra bằng
những thực hành cụ thể. Sự quan tâm tới các NL truyền thống như NL tư duy và nhận thức, NL
học tập suốt đời vẫn được duy trì trong các khung NL trên thế giới. Những NL thể hiện tính cá
nhân hóa của con người như NL lãnh đạo, tham gia hoạt động xã hội, sáng tạo, học tập suốt đời
cũng được phát triển. Cùng với xu thế phát triển của thế giới, các NL như giao tiếp ngôn
ngữ/ngoại ngữ, sử dụng công nghệ được chú trọng ở nhiều quốc gia.
1.1.2. ĐG theo NL, ĐG theo chuẩn, và ĐG theo sản phẩm đầu ra
Trong các định nghĩa NL trên có những khái niệm làm nền tảng cho các phương hướng
tiếp cận ĐG khác, như khái niệm chuẩn (standards) và sản phẩm đầu ra (outcomes). Trong đánh
giá giáo dục hiện đại, ĐGNL giống và khác như thế nào so với ĐG theo chuẩn và ĐG theo sản
phẩm đầu ra?
Trong giải thích kết quả ĐG, có hai phương pháp tham chiếu kết quả ĐG nổi bật là ĐG
theo chuẩn tương đối và ĐG theo tiêu chí. Về cơ bản, ĐG theo chuẩn tương đối (normreferenced) là ĐG bằng cách so sánh trình độ của một học sinh với trình độ của một nhóm đã
được lựa chọn nào đó và điểm số chỉ để xếp hạng học sinh. ĐG theo tiêu chí (criterionreferenced) đem lại ý nghĩa cho điểm số bằng việc nói lên mỗi học sinh có khả năng làm được
những gì trong một môn học với một điểm số nào đó. ĐG theo chuẩn tương đối có nhiều bất cập
đã được nêu rõ trong lý thuyết ĐG và ĐG theo tiêu chí là xu hướng nổi bật trong ĐG giáo dục
hiện nay. ĐG theo chuẩn (standard-based hay là standard-referenced assessment) là khái niệm
phát sinh từ ĐG theo tiêu chí, nhưng trình độ của học sinh không được so trực tiếp với một loạt
các tiêu chí nào đó nữa mà được so với các tiêu chuẩn – mức độ mong muốn về thành quả học
tập. Xác định chuẩn nghĩa là xác định trên trục dọc về khả năng của học sinh mức độ nào sẽ được
9
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
coi là mức “được mong đợi” để kích thích sự phát triển của tất cả học sinh. Xác định chuẩn vì thế
là công việc yêu cầu cần suy xét nhiều yếu tố và rất tinh tế. Ở Việt Nam, khái niệm chuẩn đầu ra
hiện đang dùng không hẳn là khái niệm này.
Khác với ĐG theo chuẩn, ĐG theo sản phẩm đầu ra (outcome-based assessment) xuất
phát từ đường hướng giáo dục theo sản phẩm đầu ra (outcome-based education), trong đó các kết
quả đầu ra của quá trình giáo dục, NL của học sinh, được định nghĩa đầu tiên; các thành phần như
khung chương trình, chương trình, tài liệu, v.v được thiết kế sau để phù hợp với các kết quả đầu ra
mong muốn đã xác định. ĐG theo sản phẩm đầu ra là ĐG trình độ học sinh theo những kết quả
đầu ra đã định nghĩa, vì thế nói tới ĐG theo sản phẩm đầu ra là nói tới phần nội dung của ĐG chứ
không phải nói tới khung tham chiếu của ĐG. Hệ thống đánh giá hiện tại ở Việt Nam là một hệ
thống kết hợp đánh giá theo chuẩn và đánh giá theo sản phẩm đầu ra trong đó sản phẩm đầu ra
được định nghĩa dưới dạng kiến thức và kĩ năng
Vậy đổi mới ĐG theo hướng tiếp cận NL học tập thì khác các định hướng trên như thế
nào? Hiện nay, chúng ta đang trong quá trình chỉnh sửa để sản phẩm đầu ra là vận dụng kiến thức
ở các bậc tư duy cao hơn. Như vậy, chúng ta không xóa bỏ hoàn toàn đường hướng đánh giá giáo
dục cũ – đường hướng đánh giá dựa trên chuẩn đầu ra - chúng ta chỉ thay đổi sản phẩm đầu ra từ
kiến thức, kĩ năng thành NL thôi. Nội dung của đánh giá có thay đổi, dẫn tới một số thay đổi khác
về mục đích, phương pháp, hình thức, nguyên tắc đánh giá, nhưng những thay đổi này mang tính
kế thừa, không xóa bỏ. Đặc điểm này của đánh giá NL sẽ được phân tích kỹ ở phần sau.
Một trong những định nghĩa được nhiều học giả và quốc gia công nhận hiện nay, in trong
Hướng dẫn phát triển tài liệu tập huấn ĐGNL của Khối cộng đồng chung Anh, là “Đo lường NL
không chỉ là việc đo lường khả năng thực hiện nhiệm vụ hoặc hành động học tập. Nó bao hàm
việc đo lường khả năng tiềm ẩn của học sinh và đo lường việc sử dụng những kiến thức, kỹ năng,
và thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập đó tới một chuẩn nào đó” (2003). Wolf khi định
nghĩa ĐGNL trong một xã hội học tập cho rằng đó là một hình thức ĐG dựa trên việc miêu tả các
sản phẩm đầu ra vừa khái quát vừa cụ thể của quá trình học tập rõ ràng tới mức có thể làm cho
giáo viên, học sinh và các bên liên quan đều có thể hình dung tương đối khách quan và chính xác
về thành quả của học sinh sau quá trình học tập. Các định nghĩa tiêu biểu về ĐGNL này có thể
10
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
cho thấy ĐGNL là ĐG theo chuẩn và theo sản phẩm đầu ra. Ngoài ra, ĐGNL chung được nhìn
nhận là quá trình ĐG các NL học tập cụ thể thiết yếu. Các NL cụ thể thiết yếu này được thực hiện
từ sự vận dụng, kết hợp các kiến thức, kỹ năng, thái độ, động cơ, v.v - các thành phần của NL,
như đã trình bày. ĐGNL là quá trình tìm kiếm minh chứng về việc học sinh đã thực hiện các sản
phẩm đầu ra tới mức độ thành công như thế nào, thông qua những hành động cụ thể của học sinh
trong một số nhiệm vụ học tập tiêu biểu. Dựa trên chuẩn và tiêu chí, ĐGNL cũng cho phép nhìn
ra tiến bộ của học sinh dựa trên việc thực hiện đạt/không đạt các sản phẩm đầu ra trong các giai
đoạn khác nhau.
Hiểu rõ về sự giống và khác nhau giữa các đường hướng đánh giá giáo dục hiện đại để
nhận ra rõ rằng ĐGNL mà chúng ta đang xây dựng ở Việt Nam là một hệ thống ĐG dựa trên
NL, chuẩn và sản phẩm đầu ra mà không có sự chồng chéo và mâu thuẫn nào. Quá trình xây
dựng hệ thống đó cũng là quá trình kế thừa và phát triển từ các đường hướng đánh giá trước đây
chứ không phải là quá trình xây mới hoàn toàn. Các đặc điểm của ĐGNL so với ĐG truyền thống
được miêu tả dưới đây sẽ làm rõ quan điểm này.
1.2. Những đặc điểm cơ bản của đánh giá giáo dục theo NL
ĐGNL có các tính chất của ĐG sản phẩm đầu ra, dựa trên sản phẩm/thực hành, dựa trên
minh chứng rõ ràng, dựa trên tiêu chí rõ ràng, có thể dựa trên chuẩn và chuẩn tương đối, có mục
đích phát triển khả năng học sinh. Các đặc điểm khác về ĐGNL trong hình thái ĐG hiện đại bao
gồm
Mục đích ĐG
Mục đích ĐG phải rõ ràng và hợp lý với hoàn cảnh: bên cạnh chức năng giải trình – mục
đích chính của ĐG truyền thống, ĐGNL phải nhằm mục đích phát triển khả năng học tập của học
sinh, không chỉ là khâu cuối cùng của quá trình giáo dục . ĐG phải để tiếp tục học tập chứ không
chỉ là ĐG sản phẩm rồi dừng lại. Các mục đích ĐGNL cũng tương tự như các mục đích ĐG kiến
thức kĩ năng. Nhưng ĐGNL chung với nghĩa là ĐG các NL cụ thể về các mặt kiến thức, kỹ năng
thực hành, thái độ, v.v, còn hướng tới mục đích là phát triển những NL cụ thể đó, để học sinh có
11
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
thể thực hiện được các nhiệm vụ học tập cụ thể trước khi thực hiện được các nhiệm vụ học tập
trọng tâm.
Hình thức ĐG
Có các hình thức ĐGNL khác nhau thực hiện trong những khoảng thời gian khác nhau của
quá trình dạy học. ĐG chẩn đoán thường được thực hiên ở giai đoạn đầu của quá trình dạy học
hoặc trước khi một khóa học bắt đầu nhằm mục đích tìm hiểu điểm mạnh và điểm yếu của học
sinh. Kết quả ĐG chẩn đoán là nguồn tài liệu quan trọng cho công việc giảng dạy của giáo viên
và công việc học tập tiếp theo trong khóa học của học sinh. ĐG kiến thức có từ trước cũng là một
hình thức ĐG chẩn đoán. ĐG thường xuyên được thực hiện như một quá trình trong suốt khóa
học nhằm mục đích giúp giáo viên liên tục tìm kiếm thông tin về tiến bộ của học sinh cũng như
giúp học sinh dần dần phát triển thái độ tự tin và sự cảm nhận về tiến bộ của chính mình. Kết quả
của ĐG thường xuyên được sử dụng gắn bó với hoạt động giảng dạy trên lớp để tăng cường hiệu
quả của các hoạt động này. ĐG tổng kết thường được thực hiện cuối một quá trình dạy học với
mục đích đưa ra những kết quả tổng quát về NL của học sinh, xem xét học sinh đã đạt mức độ
nào của NL sau một giai đoạn đào tạo, có thể được so sánh với chuẩn NL với mục đích trao bằng,
khen thưởng, v.v. Kết quả của ĐG tổng quát được sử dụng cùng với các kết quả của ĐG chẩn
đoán và thường xuyên để làm rõ mức độ tiến bộ trong NL của học sinh trong cả khóa học và cũng
để thực hiện các điều chỉnh khác trong chương trình giảng dạy.
Trong ĐGNL, vai trò của ĐG chẩn đoán và ĐG thường xuyên được nâng cao so với trong
ĐG kiến thức và kĩ năng vì hai hình thức ĐG này liên kết ĐG với học tập và giảng dạy hơn, lấy
người học làm trung tâm hơn. Đây cũng chính là những đặc điểm bối cảnh ra đời như đã trình bày
của ĐGGD hiện đại (phần 1.1) Kiến thức nền của học sinh cũng được ĐG trước quá trình giảng
dạy để tăng hiệu quả của quá trình giảng dạy sau đó, ĐG là tiếp cận từng đối tượng học sinh cụ
thể. Những đặc điểm này thể hiện tính quá trình và xuyên suốt của kiểm tra ĐG trong hình thái
ĐG hiện đại.
Phương pháp ĐG
12
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
Nếu như sự khác biệt lớn nhất giữa ĐG kiến thức, kĩ năng,v.v. với ĐG NL chủ yếu nằm ở
sự vận dụng tổng hòa các thành phần đó của NL, thì đặc điểm quan trọng nhất về phương pháp
ĐGNL so với các phương pháp ĐG trước đây là việc nhiều phương pháp đa dạng được thực hiện
để ĐGNL chứ không chỉ có ĐG bằng cách kiểm tra truyền thống. Kiểm tra vốn hay bị sử dụng
nhầm lẫn là đồng nghĩa với đánh giá, nhưng hiểu như vậy là làm hẹp nghĩa của đánh giá đi rất
nhiều. Nói cách khác, phương pháp kiểm tra chỉ là một phương pháp đánh giá, đặc biệt là trong
đánh giá một khái niệm trừu tượng như NL. Ngoài ra, các phương pháp ĐGNL chú trọng ĐG việc
sử dụng kiến thức ở mức độ cao, chuyển hóa kiến thức, vận dụng kiến thức và sáng tạo kiến thức
trong thực hành.
Có thể phân loại các phương pháp ĐGNL dựa theo loại thông tin thu thập được từ phương
pháp đó: trực tiếp, gián tiếp và bổ sung. Các phương pháp cho minh chứng trực tiếp bao gồm ĐG
theo thực hành, biểu diễn, trình bày, giải quyết vấn đề, dự án. Các phương pháp ĐGNL gián tiếp
bao gồm thuyết trình (không phải để ĐGNL thuyết trình), thi viết (không phải để ĐGNL viết),
phỏng vấn, v.v
Cách thông dụng hơn là cũng có thể phân loại các phương pháp ĐGNL truyền thống và
những lựa chọn mới. Phương pháp truyền thống là bài kiểm tra bao gồm có kiểm tra khách quan
và tự luận, được cụ thể hóa thành các câu hỏi lựa chọn hoặc câu hỏi mở, được thực hiện ở dạng
viết hoặc nói hoặc thực hành, ở các cấp như lớp học, khối, quốc gia, do giáo viên phát triển
(teacher-developed tests) hoặc là bài kiểm tra chuẩn hóa (standardized tests). Hệ thống các
phương pháp ĐGNL không truyền thống và các công cụ ĐGNL đã được trình bày trong kỷ yếu
tại Hội thảo đánh giá NL tháng 5 năm 2012 (Dương, . Các phương pháp này chưa được chú ý
trong những hình thái giáo dục kiến thức, kĩ năng trước đây, nhưng hiện nay trở nên rất thông
dụng trong ĐGNL, hoặc trong ĐG theo chuẩn, theo sản phẩm đầu ra – các hướng tiếp cận khác
của ĐG hiện đại. Các phương pháp này bao gồm quan sát, phỏng vấn sâu và hội thảo, nhật ký
người học, bài báo thường kỳ, bài tập lớn, ĐG thực hành (bao gồm tập hợp bài tập và lưu trữ), tự
ĐG và ĐG đồng cấp. Các phương pháp đánh giá không truyền thống có thể được sử dụng song
song với bài kiểm tra ở mọi hình thức đánh giá: chẩn đoán, thường xuyên và tổng quát, tùy theo
13
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
thiết kế của bài tập đánh giá. Khi thực hiện đánh giá bằng nhiều phương pháp như vậy, ĐG NL sẽ
tốn thời gian và công sức.
Đánh giá không truyền thống nhấn mạnh phương pháp đánh giá thực hành. Học sinh được
yêu cầu phải thể hiện mọi kỹ năng quan sát và xử lý yêu cầu bài tập – sản phẩm sẽ được ĐG.
Trước đây, PP này chỉ được sử dụng trong các môn thực hành có sản phẩm dưới dạng dự án, phát
minh, biễu diễn, v.v., ví dụ như nghệ thuật, nhạc, giáo dục thể chất. Hiện nay, khi đã nhận thức
được giới hạn của các PP trắc nghiệm tự chọn, nhược điểm của các bài kiểm tra chuẩn hóa, và
thực chất của quá trình lĩnh hội tri thức, giáo viên trên lớp đã bắt đầu sử dụng PP này để ĐG tất cả
các môn học, ví dụ như văn, hóa học, vật lý, toán học, ngoại ngữ, lịch sử, v.v. ĐG thực hành là
ĐG những gì học sinh làm được trong bài tập.
Một số phương pháp ĐGNL không truyền thống bao hàm các phương pháp ĐG khác, ví dụ
như phương pháp đánh giá bằng tập hợp bài tập (portfolio assessment) – phương pháp đánh giá
không truyền thống thông dụng và tiêu biểu nhất trong đánh giá hiện đại. Phương pháp này bao
hàm các phương pháp tự đánh giá, nhật ký người học, đánh giá thực hành, v.v. Nói tới đánh giá
không truyền thống là nói tới đánh giá portfolio. Các thành phần quan trọng nhất của một
portfolio là: các sản phẩm học tập trên lớp tiêu biểu nhất, được lựa chọn bởi chính học sinh dựa
theo mục tiêu của môn học về các NL cụ thể cần đạt, và một bài viết suy ngẫm về quá trình thực
hiện bài tập, hướng tới các mục tiêu và quá trình lựa chọn các sản phẩm tiêu biểu. Khi thực hiện
tập hợp bài tập như thế này, học sinh phải chứng tỏ NL tổng hợp và lựa chọn kiến thức, NL tự
đánh giá, tư duy phê phán, giải quyết vấn đề và nhiều NL cơ bản khác. Giáo viên cũng dễ dàng
nhận ra mức độ NL của học sinh khi đánh giá thông qua portfolio hơn là đánh giá thông qua một
bài kiểm tra duy nhất. Điểm yếu của đánh giá portfolio hay các bài tập lớn, cũng như đánh giá
không truyền thống, đó là lượng thông tin đôi khi là quá lớn, trong khi thời gian của giáo viên hạn
hẹp. Nếu tiêu chí đánh giá không rõ ràng, vấn đề độ tin cậy của điểm số cũng sẽ bị nghi ngờ.
Đánh giá NL bằng portfolio đã được ứng dụng ở nhiều trường đại học tại Việt Nam và một số
trường trung học phổ thông chuyên.
Nguyên tắc ĐG
14
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
Với nhiều hình thức ĐG được thực hiện ở các giai đoạn giảng dạy và học tập khác nhau,
ĐGNL thường được thực hiện trong một thời gian dài, như một quá trình liên tiếp. Việc thực hiện
ĐGNL phải đảm bảo những nguyên tắc quan trọng của ĐG nói chung, nhưng cũng có những đặc
điểm riêng của ĐGNL.
Độ tin cậy: Khái niệm độ tin cậy trong ĐG có nghĩa là các kết quả đánh giá nhiều lần về
một NL của học sinh cần phải tương đồng và đảm bảo độ chính xác. Như vậy, các yếu tố có thể
dẫn tới sai sót trong việc ĐG phải được hạn chế tối đa. Các yếu tố đó có thể xuất hiện trong suốt
quá trình ĐG, từ khâu xác định NL (lỗi do người thiết kế ĐG), ra đề thi/bài tập ĐGNL (lỗi do
người ra đề dẫn tới học sinh hiểu sai đề), tổ chức ĐG (lỗi do điều kiện tổ chức ĐG), chấm bài
thi/bài tập ĐG (lỗi do người chấm không hiểu rõ NL hoặc quá khó tính, điều kiện chấm khác
nhau, bài thi chưa được thẩm định về độ chính xác so với NL). Độ tin cậy trước đây được coi là
nguyên tắc quan trọng nhất của ĐG trong giáo dục, nhưng hiện nay, khái niệm này đã thay đổi.
Khái niệm độ tin cậy chỉ là điều kiện cần mà chưa phải là điều kiện đủ của một chương trình
ĐGNL tốt vì nhiều lý do, trong đó cụ thể là nhiều kết quả tương đồng nhau về NL của học sinh
không có nghĩa rằng các kết quả đó là chính xác với NL cần được đo.
Độ giá trị: là nguyên tắc quan trọng nhất trong ĐGNL, và ĐG hiện đại. Khái niệm độ
giá trị đã được “cách mạng hóa” trong những năm cuối thế kỷ 20, và mang tính thống nhất. Trước
đây, độ giá trị gồm nhiều yếu tố riêng rẽ, như độ giá trị nội dung, độ giá trị cấu trúc, v.v. Từ
những năm 1990, độ giá trị đã được định nghĩa lại trong đó độ giá trị cấu trúc trở thành khái niệm
bao quát. Một quá trình ĐG, cụ thể là ĐGNL, có giá trị khi thu thập được đầy đủ thông tin hợp lý
về lý thuyết cũng như các bằng chứng tường minh qua nghiên cứu khác chứng tỏ rằng những
nhận định về NL của học sinh đã được đưa ra là chính xác và những hành động được thực hiện
dựa trên những nhận định đó là chính xác, hợp lý với mục đích nghiên cứu . Khái niệm độ giá trị
chú trọng độ chính xác trong nhận định ĐG thay vì độ chính xác kết quả ĐG, và vì thế bổ sung
điểm thiếu hụt của khái niệm độ tin cậy. Nói cách khác, độ giá trị bao hàm cả độ tin cậy, nhưng
độ tin cậy không có nghĩa bao hàm độ giá trị. Phạm vi ứng dụng của độ giá trị trong ĐG cũng
rộng hơn độ tin cậy, xuyên suốt quá trình ĐG.
15
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
Áp dụng trong ĐGNL, độ giá trị cần được thể hiện từ việc nghiên cứu định nghĩa NL (tìm
kiếm thông tin đầy đủ và thích hợp từ lý thuyết và thực tế để chứng minh một NL và cấu trúc của
nó là có cơ sở; thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm để chứng minh NL đó có thể áp dụng trong
thực tế), thiết kế bài tập phản ảnh đúng NL cần đánh giá, thu thập ý kiến nhiều đối tượng về các
tiêu chí đánh giá và công cụ đáng giá, cho tới sử dụng những nhận định về kết quả để điều chỉnh
việc giảng dạy sau ĐG (sử dụng đúng mục đích hay không). Có thể nói thêm rằng độ giá trị
không bao giờ là tuyệt đối. Độ giá trị của một đánh giá phải thường xuyên được thẩm định nên sẽ
không bao giờ có khái niệm “khẳng định độ giá trị”. Quy trình thẩm định độ giá trị cho một đánh
giá NL là một quy trình mở, rất phức tạp và là khâu quan trọng nhất để đảm bảo chất lượng cao
cho quá trình đánh giá NL.
Độ thực tế: ĐGNL phải gắn với những nguồn lực sẵn có, những giá trị sẵn có. Không thể
thực hiện phương pháp ĐGNL nào tốn thời gian nếu quỹ thời gian của giáo viên và học sinh
không nhiều.NL cần được định nghĩa theo hướng gần gũi với cuộc sống, nội dung bài tập ĐG cần
phù hợp với lứa tuổi của học sinh.
Độ xác thực và ý nghĩa: Loại bài tập lựa chọn cho ĐG phải gần với hiện thực cuộc sống
của học sinh, tương tự như các hoạt động học tập trên lớp chứ không gây áp lực như một bài kiểm
tra truyền thống . Bài tập phải gây hứng thú và khơi gợi trí tuệ . Không có áp lực về thời gian .
Học sinh phải có quyền được biết các tiêu chí ĐG.Mục tiêu về thành quả học tập phải gắn với bối
cảnh và các hạn chế từ bối cảnh.Ngoài ra, bài tập ĐG phải phức hợp, có nhiều cách giải quyết, có
nhiều dạng, đặc biệt là dạng tự luận và dạng mở để học sinh phát huy cơ chế tự giác. Tiêu chí ĐG
cần bao gồm cả quá trình và sản phẩm học tập . Học sinh là thành phần tích cực tham gia ĐG . Sử
dụng nhiều phương pháp ĐG.Không có cách nào tốt nhất cả trong việc ĐG học sinh.“Thực tế là
tất cả các PP ĐG đều hữu ích cho một số mục đích nào đó.Theo nghĩa khác, tất cả các PP đều
quan trọng với những thế mạn riêng và điểm yếu riêng” (Brown & Hudson, 1998, p.657).
Độ công bằng: trong ĐGNL, điều đó có nghĩa là giáo viên, người ĐG phải quan tâm tới
những đặc điểm đặc biệt của học sinh và đảm bảo rằng nhận định về đối tượng học sinh đó không
bị thiên vị. Trong ĐG trên diện rộng, độ công bằng được đảm bảo ở việc đề thi không thiên vị về
giới, dân tộc, điều kiện kinh tế, v.v và nếu có, những thiên vị cho nhóm học sinh nào đó sẽ được
16
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
tính vào kết quả ĐG cuối cùng. Học sinh sẽ được cung cấp thông tin về các NL được yêu cầu, các
tiêu chí ĐG, được đối xử công bằng, được có cơ hội phúc tra nếu kết quả không như mong đợi
Tất cả các nguyên tắc trên đều cần được đảm bảo trong suốt quá trình thực hiện một
chương trình đánh giá NL, từ xác định mục đích, định nghĩa NL, cho tới phản hồi và sử dụng kết
quả. Một số học giả nêu ra khái niệm “độ hữu dụng” của một đánh giá để bao hàm tất cả các
nguyên tắc đánh giá trên đây. Thực chất, khái niệm độ hữu dụng này tương đương với khái niệm
độ giá trị thống nhất (Messick, 1989). Một quy trình đánh giá NL sẽ được coi là hữu dụng khi có
giá trị với tất cả các thành tố của khái niệm “giá trị” như đã nêu.
2. Kinh nghiệm về thiết kế, thực hiện ĐG NL trên thế giới
2.1.1. Kinh nghiệm về thiết kế và thẩm định NL
Rõ ràng là NL cần được thiết kế thông qua nghiên cứu, không chỉ một mà nhiều nghiên
cứu. Ở nửa trước thế kỷ 20, NL thường được cụ thể hóa bằng việc liệt kê các hành vi học tập mà
học sinh thực hiện riêng lẻ, nhưng từ khi chủ nghĩa tư duy và cấu trúc kiến thức trở nên có tầm
ảnh hưởng lớn tới giáo dục, chương trình, giáo trình, việc dạy học và ĐG đã dần dần bị ảnh
hưởng, và NL được cụ thể hóa bằng những khả năng tư duy (có thể có lồng ghép) theo thứ bậc
cao dần. Những mô hình tư duy nổi tiếng trong giáo dục phải kể tới các mô hình của Bloom,
Gardner, Biggs và Collins, Dreyfus. Mỗi mô hình đều có điểm mạnh và yếu. Gần đây, Singer đã
thiết kế khung NL chung theo hướng tư duy dựa trên phân tích điểm mạnh/yếu của các mô hình
tư duy đó. Dựa trên những mô hình tư duy và triết lý về tư duy đó đã xuất hiện nhiều đường
hướng thiết kế sản phẩm đầu ra của quá trình dạy học, trong đó có thiết kế NL, với các bước
nghiên cứu khác nhau.
Hai hướng thiết kế NL chính là dựa theo phương pháp định lượng và dựa theo phương
pháp định tính. Có đường hướng tập trung vào định tính, sử dụng chủ yếu là phương pháp chuyên
gia. Có đường hướng chủ yếu sử dụng toán học thống kê. Trong các quy trình mang tính định
tính, các chuyên gia thảo luận, phân tích, phỏng vấn học sinh về các sản phẩm thực hành đã được
sắp xếp theo một thứ tự từ cao tới thấp theo chủ quan, rồi xác định những đặc điểm cụ thể của
từng bậc trên thứ tự. Hoặc họ sắp xếp các sản phẩm thực hành thành hai loại dựa theo chất lượng,
sau đó xác định các tiêu chí phân loại hai loại này tiếp tục phân loại tiếp từng loại trong hai loại
17
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
đó và xác định tiêu chí khác biệt . Hoặc xác định các mức độ đạt/không đạt trước, rồi các chuyên
gia sẽ tự điền miêu tả của họ vào các bậc này dựa theo các sản phẩm thật. Các quy trình thiên về
định tính bị phê phán vì quá dựa vào đánh giá chủ quan của các chuyên gia. Trong khi đó, các quy
trình định lượng dựa trên lý thuyết đánh giá cổ điển và lý thuyết đánh giá hiện đại để phân tích
các thành phần NL bị phê phán vì thiếu tính thực tế, không dựa trên sản phẩm thực hành thực sự.
Gần đây, trong xu thế tôn trọng sự đa dạng hóa phương pháp nghiên cứu, các đường hướng
xây dựng khung NL đều đi theo hướng kết hợp cả phương pháp nghiên cứu định tính và định
lượng trong việc xây dựng các mô hình NL trong giáo dục, theo những đặc điểm của chủ nghĩa tư
duy. NL được nghiên cứu, định nghĩa và thẩm định thường xuyên để đảm bảo tính khoa học và
ứng dụng cao.
Có thể đưa hai quy trình làm ví dụ điển hình cho về phương pháp thiết kế NL định lượng
và định tính thông dụng hiện nay. Hai quy trình này được đưa ra bởi Wilson và Griffin, Nguyễn
và Gillis . Quy trình xây dựng NL để đánh giá của Wilson (2005) gồm bốn giai đoạn:
Hình 7: Quy trình thiết kế và đánh giá NL của Wilson (2005)
Quy trình thiết kế, đánh giá và thẩm định NL của Griffin, Nguyễn và Gillis (2007) phức
hợp hơn quy trình của Wilson, bao gồm năm giai đoạn:
- Thiết lập NL cần giảng dạy/ĐG dựa trên các cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn.
Khung NL chung bao gồm các các lĩnh vực chính, các NL riêng trong từng lĩnh vực, các tiêu chí
thực hành, các mức độ thực hiện từng tiêu chí và các mức trình độ có thể trong từng NL riêng.
18
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
- Tham khảo ý kiến chuyên gia về cấu trúc, thành phần và đặc điểm của khung NL đã thiết
lập.
- Thử nghiệm giảng dạy/ĐGNL theo khung
- Áp dụng vào thực tế, phân tích kết quả bằng lý thuyết ĐG cổ điển và hiện đại để thẩm
định các thành phần của khung NL
- Thực hiện nhiều bước điều chỉnh định tính sau khi áp dụng để hoàn thiện khung NL
Hai quy trình trên về cơ bản giống nhau ở việc kết hợp cả phương pháp định tính và định
lượng trong xây dựng khung NL trong các hoàn cảnh giáo dục khác nhau. Quy trình của Griffin,
Nguyễn và Gillis đã được thực hiện tại Australia và nhiều nơi trên thế giới và hiện nay đang được
coi là một quy trình rất uy tín trên thế giới về thiết kế, xây dựng NL. Đặc điểm nổi trội của quy
trình này, so với quy trình của Wilson và các quy trình khác, là sự chú trọng tới tính giá trị thống
nhất của đánh giá, và quan điểm rằng thẩm định NL luôn là một quy trình luôn vận động, cần tích
hợp mọi loại thông tin định tính và định lượng, có được sự tham gia của tất cả các bên liên quan
tới quá trình ĐG vào xây dựng NL. Một ưu điểm nữa là các quy trình này có thể được áp dụng
không chỉ với việc thiết kế NL, mà còn là việc thiết kế các công cụ đánh giá đo lường, thiết lập
tiêu chí và tiêu chuẩn đo lường.
Ở Việt Nam, quy trình xây dựng NL của Griffin, Nguyễn và Gillis đã được chính tác giả và
một số nhà nghiên cứu ứng dụng. Đó là nghiên cứu đánh giá chuẩn NL giáo viên tiểu học và
nghiên cứu xây dựng và đánh giá NL viết theo quá trình của sinh viên sư phạm ngoại ngữ Anh,
ĐHNN-ĐHQG Hà Nội . Có thể trích dẫn một nghiên cứu của trong việc thiết kế và thẩm định
NL giải quyết vấn đề trong toán học như một ví dụ cụ thể cho quy trình thiết kế NL theo hướng
đánh giá phát triển học sinh của Griffin, Nguyen và Gillis (2007) và Wilson (2005). Mô hình NL
giải quyết vấn đề với các NL riêng liên quan chặt chẽ với nhau đã được trình bày trong Hình 4
được hình thành dựa trên cơ sở phân tích sâu sắc các lý thuyết về NL giải quyết vấn đề, trong đó
có lý thuyết về chiến lược giải quyết vấn đề (ví dụ như thử nghiệm – sai – thử nghiệm, tìm kiếm
kiểu, làm việc theo hệ thống, sử dụng mô hình và trợ giúp, suy luận ngược chiều, v.v), lý thuyết
về quá trình giải quyết vấn đề, lý thuyết mô hình xử lý thông tin, mô hình phân tích nhân tố (ngôn
ngữ, kiến thức, giải pháp, v.v), lý thuyết giảng dạy, lý thuyết đo lường đánh giá cổ điển và hiện
đại, các mô hình giải quyết vấn đề đã nghiên cứu. Rất nhiều loại minh chứng từ lý thuyết tới áp
19
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
dụng thực tiễn đã được tìm kiếm để xây dựng nên khung chương trình ban đầu, trước khi khung
này được thử nghiệm lần 1 với 134 học sinh và lần 2 với 1200 học sinh của hai trường học tại Úc.
Phương pháp đánh giá là kiểm tra và phỏng vấn. Câu hỏi bao gồm cả khách quan và tự luận liên
quan tới các quá trình tự duy trong NL riêng đã giả thiết. Với các câu hỏi tự luận, các câu trả lời
được thiết kế theo mức độ tư duy; với câu trả lời mở, câu trả lời được mã hóa theo mức độ tư duy.
Có thể nói, các quy trình duy chính là tiêu chí đánh giá của dạng NL này. Các biện pháp phân tích
thống kê cổ điển và hiện đại tiếp tục được thực hiện trên thực hành của học sinh và thông tin
phỏng vấn thêm để tìm ra các câu hỏi tốt, các câu trả lời tốt, khẳng định những giả thiết ban đầu
về các NL riêng trong NL chung. Cuối cùng, thanh đo NL và các mức độ thực hiện giải quyết vấn
đề được xác định dựa trên các kết quả (Phụ lục 1)
2.1.2. Kinh nghiệm quốc tế trong việc tiến hành ĐGNL
Để khái quát những vấn đề chung, những khúc mắc đã gặp phải ở các nước trong việc thực
hiện ĐGNL, từ đó đưa ra những đề xuất ban đầu cho Việt Nam, phần này sẽ trình bày những kinh
nghiệm thực tế đã được phản ánh trong việc thực hiện ĐGNL ở một số quốc gia có nền giáo dục
phát triển và một số quốc gia đang phát triển.
Mỹ
Tại Mỹ, nền giáo dục đại học có tầm ảnh hưởng tới nhiều quốc gia khác nhưng giáo dục
phổ thông còn rất nhiều vấn đề trầm trọng. Việc ĐG học sinh được thực hiện theo đường hướng
chuẩn NL. Tuy ĐG quá trình đã được tiến hành sâu rộng, nhưng trách nhiệm giải trình vẫn được
coi là một mục đích lớn của ĐG và giáo dục. Giáo dục vẫn được coi là vấn đề mang tính chính trị
lớn. Các bài học được đưa ra trong quá trình ĐG theo chuẩn NL là
- Cần phải xây dựng cơ chế ĐG cả NL cụ thể và NL chung. ĐG vừa mang tính phân tích
vừa mang tính tổng hợp. Cụ thể là sau khi đánh giá các NL cụ thể thì cần tích hợp kết quả như thế
nào để có kết quả cho NL chung.
- Xây dựng các NL riêng trong NL chung là một quá trình xây dựng cộng đồng ĐG. Cần
có chuyên gia nhiều bên liên quan cùng tham gia, cùng trả lời câu hỏi liệu NL đó có khả thi
không, có thể đo lường không.
20
Hội thảo “Năng lực và đánh giá kếết quả giáo dục theo năng lực trong chương trình GDPT sau năm 2015”.
- Xem thêm -