Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Đánh giá tư tưởng cải cách kinh tế, chính trị của một số nhà cải cách ở việt nam...

Tài liệu Đánh giá tư tưởng cải cách kinh tế, chính trị của một số nhà cải cách ở việt nam nửa cuối thế kỷ xix

.PDF
104
1
97

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA DU LỊCH ----------------------- NGUYỄN NGỌC ÁNH ĐÁNH GIÁ TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ CỦA MỘT SỐ NHÀ CẢI CÁCH Ở VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành: Sư phạm Lịch sử Phú Thọ, 2019 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA DU LỊCH ----------------------- NGUYỄN NGỌC ÁNH ĐÁNH GIÁ TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ CỦA MỘT SỐ NHÀ CẢI CÁCH Ở VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành: Sư phạm Lịch sử NGƯỜI HƯỚNG DẪN: THS. ĐOÀN THỊ LOAN Phú Thọ, 2019 LỜI CẢM ƠN! Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu trường Đại học Hùng Vương, các Phòng, Ban trong trường đã tạo điều kiện thuận lợi giúp em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Khoa học Xã hội và Văn hóa Du lịch đã định hướng, hướng dẫn, chỉnh sửa và tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành khóa luận. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cô giáo ThS. Đoàn Thị Loan, cô luôn tận tình, hướng dẫn, chỉ bảo và từng bước chỉnh sửa những thiếu sót trong quá trình thực hiện nghiên cứu, để bài khóa luận của em có giá trị và khoa học nhất. Em cũng xin gửi lời biết ơn đến những người thân trong gia đình, bạn bè đã luôn động viên, khích lệ, đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khóa luận. Tuy nhiên, do điều kiện thời gian và năng lực nghiên cứu có hạn, chắc chắn đề tài khóa luận nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót, nên em rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô và các bạn để em có điều kiện hoàn thiện hơn nữa khóa luận của mình. Phú thọ, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Nguyễn Ngọc Ánh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................................... 1 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ............................................................................................ 3 3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................... 5 3.1. Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................................... 5 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 6 4.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................................... 6 4.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................................ 6 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 6 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ........................................................................................... 7 7. Cấu trúc khóa luận ............................................................................................................. 7 NỘI DUNG ............................................................................................................................ 8 Chương 1 KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX ...................................................................................................... 8 1.1. Bối cảnh lịch sử nửa cuối thế kỷ XIX............................................................................. 8 1.1.1. Bối cảnh thế giới .......................................................................................................... 8 1.1.2. Sự khủng hoảng của triều đình nhà Nguyễn .............................................................. 12 1.1.3. Sự xuất hiện của tầng lớp sĩ phu yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX ............................... 17 1.2. Tư tưởng cải cách về kinh tế, chính trị nửa cuối thế kỉ XIX ........................................ 21 1.2.1. Tư tưởng cải cách kinh tế .......................................................................................... 21 1.2.2. Tư tưởng cải cách về chính trị ................................................................................... 30 Tiểu kết chương 1 ................................................................................................................ 37 Chương 2 ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX ........................................................................ 38 2.1. Đặc điểm của tư tưởng cải cách kinh tế, chính trị ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX ... 38 2.1.1. Đặc điểm của tư tưởng cải cách kinh tế ..................................................................... 38 2.1.2. Đặc điểm của tư tưởng cải cách chính trị .................................................................. 40 2.2. Những điểm tích cực và hạn chế của tư tưởng cải cách kinh tế, chính trị ở Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX.............................................................................................................. 41 2.2.1. Tính tích cực trong tư tưởng cải cách kinh tế chính trị cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX ........................................................................................................................................ 41 2.2.2. Những hạn chế mang yếu tố thời đại của tư tưởng cải cách kinh tế - chính trị ở Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX ..................................................................................................... 44 2.3. Thái độ của triều Nguyễn đối với các đề nghị canh tân, đổi mới đất nước .......................... 46 Tiểu kết chương 2 ................................................................................................................ 50 Chương 3 BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY .......................................................................................................................... 51 3.1. So sánh tư tưởng cải cách với các nước trong khu vực Đông Nam Á .......................... 51 3.2. Nguyên nhân thất bại của các tư tưởng cải cách nửa cuối thế kỷ XIX ......................... 54 3.3. Bài học cho công cuộc xây dựng đất nước ngày nay.................................................... 62 3.3.1. Những bài học kinh nghiệm ....................................................................................... 62 3.3.2. Đối chiếu tư tưởng canh tân kinh tế, chính trị cuối thế kỷ XIX với công cuộc xây dựng đất nước hiện nay ........................................................................................................ 64 Tiểu kết chương 3 ................................................................................................................ 69 KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 70 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 72 PHỤ LỤC 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ và chuyển dần từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường, đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông. Mục đích của việc xâm lược là để biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước thực dân phương Tây. Vào thời điểm này, trước nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây, các nước ở khu vực Châu Á đã có những phản ứng khác nhau. Trong đó, một số nước như Nhật Bản, Xiêm (Thái Lan) đã tiến hành những cuộc cải cách để đưa đất nước thoát khỏi số phận thuộc địa và phát triển nền kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa. Ở Nhật Bản, vào năm 1868, sau khi lên ngôi, Thiên hoàng Minh Trị đã tiến hành cải cách đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Cuộc cải cách đó đã đưa Nhật Bản bước vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi số phận một nước thuộc địa và trở thành nước đế quốc đầu tiên ở châu Á. Ở Xiêm, dưới thời vua Rama IV (1851- 1868), Rama V (1868- 1910) đã tiến hành cải cách, mở cửa bằng những biện pháp thỏa hiệp, ngoại giao mềm dẻo. Chính sách đối ngoại khôn khéo đã đưa Xiêm thoát khỏi ách thống trị trực tiếp của thực dân, trở thành nước duy nhất ở Đông Nam Á giữ được độc lập và tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản ở nước này phát triển. Ở Việt Nam, vào năm 1802, Nguyễn Ánh lập ra vương triều Nguyễn, lấy niên hiệu là Gia Long. Đến giữa thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng toàn diện. Cuộc khủng hoảng đã cho thấy tất cả những mâu thuẫn ở Việt Nam lúc bấy giờ, đó là mâu thuẫn về kinh tế xã hội do quan hệ sản xuất phong kiến đã lỗi thời kìm hãm mầm mống tư bản 2 chủ nghĩa; mâu thuẫn chính trị - xã hội: biểu hiện nhiều phong trào đấu tranh chống phong kiến, khủng hoảng cung đình ngày càng bộc lộ; mâu thuẫn văn hóa - tư tưởng với sự xâm nhập của nền văn hóa, tư tưởng mới của chủ nghĩa thực dân (Thiên Chúa Giáo), Nho giáo - vốn được coi là quốc giáo nay không còn là tối thượng nữa... và điển hình bao trùm nhất là mâu thuẫn dân tộc và thời đại. Bên cạnh đó, các nhà vua nhà Nguyễn, từ vua Gia Long đến vua Minh Mệnh lại thể hiện sự bảo thủ, trì trệ, lúng túng, bị động, thiếu nhận thức đầy đủ về thời thế và không quan tâm đến việc cải cách canh tân đất nước. Trước tình hình Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XIX, đòi hỏi nước ta cần có những cải cách theo hướng tiến bộ của thời đại. “Nói đến cải cách là nói đến biện pháp giải quyết một cuộc khủng hoảng xã hội. Hay nói một cách khác, cải cách nhằm giải quyết khủng hoảng xã hội. Có thể là khủng khoảng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, mà thường là do khủng hoảng kinh tế sâu sắc, kéo dài theo cả khủng hoảng chính trị, văn hóa, xã hội, tức là khủng hoảng toàn diện. Có khi lại chỉ là khủng hoảng bộ phận như khủng hoảng kinh tế - xã hội, mặc dầu chính trị, văn hóa ổn định. Hay khủng hoảng cung đình thường diễn ra trong nền phong kiến chuyên chế xa xưa hay khủng hoảng cơ cấu quyền lực thường diễn ra hiện nay” [16;215]. Do đó, cải cách là một nhu cầu không thể thiếu trong lịch sử dân tộc nhằm đưa đất nước phát triển, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, lệ thuộc, nô lệ và sự nhòm ngó xâm lược của kẻ thù. Nhờ nhận thức được vận mệnh của dân tộc và lo lắng về tình hình đất nước, vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX, ở Việt Nam đã xuất hiện một số xu hướng cải cách của tầng lớp Nho sĩ và quan lại với những đại diện tiêu biểu như: Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch,... Việc nghiên cứu tư tưởng cải cách chính trị, kinh tế của một số nhà cải cách Việt Nam cuối thế kỷ XIX sẽ góp thêm một góc nhìn về trào lưu cải cách ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đánh giá được vai trò của đội ngũ tri thức 3 nửa cuối thế kỷ XIX đối với vận mệnh dân tộc và trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay Pháp, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay. Với những lí do trên, tôi chọn đề tài “Đánh giá tư tưởng cải cách kinh tế, chính trị của một số nhà cải cách ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX đặc biệt là vấn đề canh tân, cải cách đất nước đã được các nhà nghiên cứu tìm hiểu. Những công trình nghiên cứu về xu hướng canh tân đất nước nửa cuối thế kỷ XIX ở Việt Nam khá phong phú và đa dạng, tiêu biểu như: Năm 1985, Nhà xuất bản Đông Nam Á đã cho ra mắt cuốn Bùi Viện với chính phủ Mỹ - lịch sử ngoại giao triều Tự Đức của Phan Trần Chúc. Nội dung của tác phẩm chủ yếu đề cập đến hành trình đi Mỹ của Bùi Viện. Qua chuyến đi đó, ông mở rộng được tầm nhìn, thấy được sự phát triển nước Mỹ và sau khi về nước thì ông đã đưa những bản điều trần của mình lên Tự Đức. Năm 1988, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh công bố công trình Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo của tác giả Trương Bá Cần. Trong công trình này, tác giả đã sưu tầm những kiến nghị, điều trần của Nguyễn Trường Tộ đồng thời tìm kiếm khá đầy đủ về những tư tưởng của ông. Năm 1997, công trình Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập 2) của tác giả Lê Sỹ Thắng được nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành. Tác phẩm đã trình bày khái quát sự ra đời của tư tưởng canh tân đất nước cuối thế kỷ XIX và những cơ sở hình thành tư tưởng đó. Cùng với đó, tác giả phân tích khá rõ ràng những bản điều trần, những kiến nghị của các nhà canh tân đất nước trên tất cả các lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quân sự, giáo dục, đối ngoại,… của các nhà canh tân tiêu biểu cuối thế kỷ XIX đó là: Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch. 4 Năm 1999, công trình Tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn do nhiều tác giả đã được nghiên cứu được nhà xuất bản Thuận Hóa xuất bản. Trong tác phẩm tác giả đề cập đến quá trình chuyển biến trong nhận thức của các nhà cải cách cuối thế kỷ XIX như: Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ,… Năm 2006, tác phẩm Mười cuộc cải cách, đổi mới lớn trong lịch sử Việt Nam của tác giả Văn Tạo đã được Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội ấn hành. Tác phẩm đề cập đến mười cuộc cải cách tiêu biểu trong suốt chiều dài của lịch sử Việt Nam, bắt đầu từ cải cách của Khúc Hạo, Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Hồ Quý Ly, Lê Thánh Tông, Đào Duy Từ, Trịnh Cương, Minh Mệnh, Nguyễn Trường Tộ đến phong trào đổi mới đầu thế kỷ XX. Năm 2011, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội đã tập hợp nhiều các bài viết của nhiều tác giả và xuất bản thành cuốn Lịch sử nhà Nguyễn – một cách tiếp cận mới. Trong công trình này, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những nguyên nhân dẫn đến thất bại của xu hướng canh tân đất nước nửa cuối thế kỷ XIX. Như tác giả Đỗ Thanh Bình viết về Triều đình nhà Nguyễn không chấp nhận hay không thể thực hiện các đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ. Hay như tác giả Nguyễn Trọng Văn đưa ra bài viết Về nguyên nhân thất bại của xu hướng canh tân ở Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX. Hai bài nghiên cứu đó hai tác giả đã nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp của Nguyễn Trường Tộ và nguyên nhân thất bại của xu hướng canh tân cuối thế kỷ XIX. Bên cạnh đó, còn có các công trình khác nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ như Nguyễn Trường Tộ và vấn đề canh tân do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2011 của tác giả Bùi Kha; Nguyễn Trường Tộ với triều Tự Đức (nhà xuất bản Trẻ, năm 2013) của tác giả Nguyễn Đình Đầu. Bên cạnh những công trình nghiên cứu về các nhà cải cách cuối thế kỷ XIX còn có những công trình mang tính thông sử có liên quan đến thời gian lịch sử này như: Cuốn Giáo trình Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1918, tập IV 5 do Nguyễn Ngọc Cơ chủ biên (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội); hay cuốn Đại cương Lịch sử Việt Nam toàn tập của các tác giả Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (Nhà xuất bản Giáo dục, 2006); cuốn Tiến trình lịch sử Việt Nam do tác giả Nguyễn Quang Ngọc chủ biên (Nhà xuất bản Giáo dục, 2006). Đặc biệt là cuốn Lịch sử Cận – hiện đại Việt Nam, một số vấn đề nghiên cứu (Nhà xuất bản Thế giới, 1998) của tác giả Đinh Xuân Lâm. Trong tác phẩm này, tác giả đã làm sáng tỏ trách nhiệm của triều Nguyễn đối với sự thất bại của xu hướng đổi mới canh tân đất nước cuối thế kỉ XIX. Như vậy cho thấy đã có nhiều công trình nghiên cứu về xu hướng cải cách ở Việt Nam vào cuối thế kỉ XIX. Các công trình ở trên là những nguồn tài liệu tham khảo hết sức quý giá cho tôi thực hiện khóa luận. Tuy nhiên, những công trình đó chủ yếu tập trung nghiên cứu vào từng cá nhân và những tư tưởng canh tân của họ, chưa đi sâu vào những cải cách cụ thể về lĩnh vực lĩnh kinh tế và chính trị. Trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu đó, cùng với nguồn tài liệu sưu tập được tôi sẽ tập trung làm rõ vấn đề nghiên cứu của khóa luận. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận là tìm hiểu những đề nghị cải cách đất nước về kinh tế, chính trị của một số nhà cải cách tiêu biểu ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX từ đó đưa ra đánh giá, nhận xét về những đề nghị cải cách đó và rút ra bài học kinh nghiệm để vận dụng cho công cuộc xây dựng đất nước ngày nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khái quát tư tưởng cải cách kinh tế, chính trị ở Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX của một số nhà cải cách tiêu biểu như: Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Bùi Viện, Đặng Huy Trứ… 6 - Tìm ra những điểm tích cực, giá trị, hạn chế của tư tưởng cải cách về kinh tế, chính trị ở Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX. - Từ việc nghiên cứu các tư tưởng cải cách rút ra bài học kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là xu hướng đánh giá cải cách về kinh tế, chính trị của một số nhà cải cách ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX như: Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện,… 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian: Việt Nam - Thời gian: nửa cuối thế kỷ XIX 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện khóa luận này, tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phương pháp chuyên ngành: phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic là hai phương pháp chủ yếu. + Phương pháp lịch sử: được sử dụng khi nghiên cứu các tư tưởng cải cách kinh tế, chính trị của một số nhà cải cách ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX và đánh giá về tư tưởng cải cách đó. + Phương pháp logic: được sử dụng khi nghiên cứu các tư tưởng cải cách của một số nhà canh tân nửa cuối thế kỷ XIX về kinh tế, trên các lĩnh vực: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, tiếp thu khoa học kỹ thuật và về chính trị; tổ chức bộ máy nhà nước, những đề nghị cải cách về chính trị. - Phương pháp liên ngành: Phân tích, so sánh, tổng hợp + Phương pháp phân tích: sử dụng khi phân tích về những cải cách kinh tế, chính trị của một số nhà canh tân nửa cuối thế kỷ XIX + Phương pháp so sánh: Được sử dụng khi so sánh những cải cách về kinh tế, chính trị của những nhà cải cách với nhau ở các mức độ chuyên môn 7 khác nhau. Đồng thời, so sánh với cuộc các cuộc cải cách của Xiêm, Trung Quốc, Nhật Bản về hoàn cảnh lịch sử để cải cách ở mỗi nước. + Phương pháp tổng hợp: được sử dụng trong việc tổng hợp các luận điểm đã đưa ra. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Khóa luận nghiên cứu về tư tưởng cải cách của một số nhà tư tưởng ở Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX như: Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch,... rút ra một số đặc điểm, giá trị và hạn chế của các tư tưởng đó. Giá trị thực tiễn của khóa luận là trở thành một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử Việt Nam cận đại. Việc triển khai nghiên cứu các nội dung của khóa luận là một lần mở lại những vấn đề canh tân cải cách trong lịch sử dân tộc để rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn cho công cuộc đổi mới đất nước hiện nay về các lĩnh vực cải cách, biện pháp tiến hành cải cách và cả thời điểm thực hiện cải cách. 7. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội dung khóa luận gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát tư tưởng cải cách kinh tế, chính trị Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX. Chương 2: Đặc điểm và giá trị của tư tưởng cải cách kinh tế, chính trị Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX. Chương 3: Bài học kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. 8 NỘI DUNG Chương 1 KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX 1.1. Bối cảnh lịch sử nửa cuối thế kỷ XIX 1.1.1. Bối cảnh thế giới Vào cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở các nước phương Tây bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn cao của nghĩa tư bản. Biểu hiện rõ nhất của sự chuyển biến này thể hiện trong công nghiệp, sự phá sản của các xí nghiệp loại nhỏ, các xí nghiệp lớn thâu tóm công ty nhỏ hình thành các tổ chức lũng đoạn xuất hiện với các hình thức các-ten, xanh-đi-ca, tơ-rớt, cóngxóc-xi-um,… và nhanh chóng trở thành cơ sở của toàn bộ đời sống kinh tế các nước tư bản. Cùng với đó là những tiến bộ kỹ thuật nhanh chóng được đưa vào sản xuất tạo nên sự tăng trưởng mạnh mẽ về năng suất lao động. Năng suất lao động cao, hàng hóa sản xuất ra nhiều, đã đặt ra nhu cầu về vốn, nhân công, nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Vì vậy, giữa các nước tư bản xảy ra sự cạnh tranh gay gắt trong việc xác lập vị trí kinh tế và vị trí chính trị. Điều đó làm nảy sinh nhu cầu chạy đua xâm chiếm thuộc địa để tìm nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ mạt. Mục tiêu xâm lược của các nước đế quốc là những nước có trình độ thấp kém và lạc hậu như châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh. Châu Á trở thành đối tượng chính trong công cuộc tìm kiếm thị trường và tranh giành thuộc địa của các nước phương Tây. Vì đây là châu lục lớn nhất và đông dân nhất trên thế giới, lại giàu có và phong phú về tài nguyên thiên nhiên nên đáp ứng những gì các nước đế quốc đang thèm khát và tìm kiếm. Trong khi các nước tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và phát triển mạnh mẽ thì các quốc gia ở châu Á vẫn duy trì chế độ phong kiến lỗi thời, lạc hậu và đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Chính sự suy 9 yếu đó đã làm cho các quốc gia châu Á trở thành miếng mồi béo bở cho các nước đế quốc chia sẻ, xâu xé: Phi-líp-pin bị người Tây Ban Nha xâm lược; Sin-ga-po, Ấn Độ, My-an-ma bị thực dân Anh xâm lược; Trung Quốc bị các nước đế quốc Anh, Pháp, Mĩ,… sâu xé; ba nước Đông Dương là Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia cũng chung số phận, bị thực dân Pháp xâm lược. Chỉ có Xiêm (Thái Lan) và Nhật Bản là hai nước ở châu Á không bị biến thành thuộc địa. Vào cuối thế kỷ XIX, bằng những vũ khí hiện đại các nước tư bản phương Tây đã tiến sang phương Đông để tiến hành xâm chiếm đất đai, biến các quốc gia phương Đông trở thành thuộc địa. Lúc này, các quốc gia phong kiến phương Đông bị đặt vào tình thế hết sức nguy nan trước sự xâm lược của các đế quốc phương Tây. Ở Nhật Bản, đầu thế kỉ XIX, triều đại Tokugawa vẫn duy trì chính sách đóng cửa. Năm 1825, Nhật hoàng ra sắc lệnh cấm tất cả các tàu ngoại quốc nhập cảng của Nhật, cấm giáo sỹ phương Tây hiện diện trên đất nước. Đến năm 1868, sau khi lên ngôi Thiên hoàng Minh Trị đã nhanh chóng tiến hành cải cách đất nước trên tất cả lĩnh vực. Về cải cách hành chính và thể chế, ban hành Hiến pháp 1889 thiết lập quân chủ lập hiến; bãi bỏ chế độ đẳng cấp, thực hiện “quyền bình đẳng giữa các công dân”, ban bố tự do đi lại; tòa án mới (kiểu tư sản) được thành lập. Về giáo dục, ban hành chế độ giáo dục bắt buộc 4 năm; tăng cường nội dung khoa học kỹ thuật trong chương trình; cử thanh niên ưu tú ra học tập ở nước ngoài. Về kinh tế, xóa bỏ chế độ nộp tô, ban hành chế độ đóng thuế bằng tiền, cho phép mua bán ruộng đất; tăng cường phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nông thôn; thống nhất tiền tệ, thống nhất thị trường, xóa bỏ sự độc quyền ruộng đất của giai cấp phong kiến; xây dựng cơ sở hạ tầng, đường xá, cầu cống phục vụ giao thông liên lạc. Về quân sự, quân đội được tổ chức, huấn luyện theo kiểu phương Tây, chế độ nghĩa vụ thay cho chế độ trưng binh; phát triển công nghiệp quốc phòng; mời chuyên gia quân sự nước ngoài về huấn luyện. Cuộc cải cách Duy tân Minh 10 Trị đã đưa Nhật Bản thoát khỏi số phận một nước thuộc địa và đưa Nhật Bản phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa và trở thành đế quốc đầu tiên ở châu Á. Ở Xiêm (Thái Lan), nhờ có vị trí địa lý, trở thành vùng đệm giữa hai khối thuộc địa của Anh và Pháp, vua Rama V đã nhận thấy tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến nên đã nhanh chóng tiến hành cải cách đưa đất nước thoát khỏi số phận là thuộc địa trực tiếp của các nước phương Tây. Về kinh tế, để tăng nhanh lượng gạo xuất khẩu nhà nước giảm nhẹ thuế ruộng, xóa bỏ chế độ lao dịch. Khuyến khích tư nhân bỏ vốn kinh doanh, xây dựng nhà máy, mở hiệu buôn, ngân hàng. Về chính trị, cải cách theo khuân mẫu của phương Tây, đứng đầu nhà nước vẫn là vua, giúp việc có hội đồng nhà nước (nghị viện); chính phủ có 12 bộ trưởng. Quân đội, tòa án, trường học được cải cách theo khuân khổ của phương Tây. Về xã hội, xóa bỏ chế độ nô lệ, giải phóng người lao động. Về đối ngoại, thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo lợi dụng vị trí nước đệm, lợi dụng mâu thuẫn giữa hai thế lực Anh – Pháp đã lựa chiều để có lợi để giữ chủ quyền đất nước. Nhờ cuộc cải cách đó mà Xiêm đã thoát khỏi số phận là thuộc địa của các nước phương Tây và có điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước. Ở Trung Quốc: cũng như Việt Nam, Trung Quốc dưới triều Mãn Thanh đã triệt để thi hành chính sách “bế quan tỏa cảng”, hoàn toàn đóng cửa với các nước phương Tây và thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, Hiệp ước Nam Kinh (kí ngày 29/8/1842) đã buộc Trung Quốc phải mở cửa, áp dụng tự do mậu dịch với các quốc gia khác. Các cảng: Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải, Hồng Kông lần lượt trở thành nhượng địa của Anh[19,30Ths]. Phong trào Thái bình thiên quốc do Hồng Tú Toàn lãnh đạo tiếp tục giáng những đòn mạnh mẽ vào triều đình nhà Thanh. Sự khủng hoảng và suy yếu trên nhiều phương diện đẩy nhà Thanh đến chỗ phải ký Hòa ước Thiên tân (1885) chính thức biến Trung Quốc thành nước nửa thuộc địa của Anh, 11 Mỹ, Pháp. Việc Trung Quốc thất bại trong “Chiến tranh nha phiến” khiến xã hội ngày càng suy đồi, một tầng lớp trí thức mới của Trung Quốc đã xuất hiện. Qua thực tiễn cho thấy, ở Nhật Bản và Xiêm đã chủ động mở cửa cải cách thành công nên đã bảo vệ được chủ quyền độc lập và còn đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, ở thời điểm lịch sử cuối thế kỷ XIX thì các quốc gia châu Á chủ động mở cửa cải cách chính là một giải pháp tích cực nhằm tận dụng những cơ hội thuận lợi để làm cho đất nước không bị trở thành thuộc địa. Tuy nhiên, để mở cửa cải cách thì quốc gia đó phải có những điều kiện tiếp nhận từ bên trong và phải có tư duy nhìn nhận của chính quyền thực hiện. Đối với Nhật Bản và Xiêm thì họ đã chủ động mở cửa với các nước phương Tây ngay từ đầu thế kỷ XVI do đó họ đã có những cơ sở để dễ dàng cải cách, hơn nữa những cải cách đều do vua – người đứng đầu nhà nước thực hiện nên không bị cản trở. Còn đối với Trung Quốc và Việt Nam lại bị tư tưởng Nho giáo chi phối nên Việt Nam và Trung Quốc đều thực hiện chính sách đóng cửa không giao thoa buôn bán với bên ngoài. Bên cạnh đó lại coi nhẹ công nghiệp và thương nghiệp đề cao kinh tế nông nghiệp, điều đó đã làm cho những mầm mống của nền kinh tế chủ nghĩa tư bản không có điều kiện để phát triển. Chính vì vậy, đã gây nên một cản trở lớn và gây khó khăn cho những cuộc cải cách đất nước. Như vậy, cuối thế kỷ XIX là một khoảng thời gian khá phức tạp và đầy biến động. Chủ nghĩa tư bản phương Tây đang thèm khát một thị trường béo bở đó là châu Á. Vì vậy, để không bị trở thành miếng mồi cho các nước đế quốc thì mỗi quốc gia phải có những phướng hướng, biện pháp phù hợp để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Hoặc là cải cách đưa đất nước phát triển tiến bộ hoặc là thay thế một chế độ mới để đưa đất nước tránh khỏi sự xâm lược của các nước đế quốc. 12 1.1.2. Sự khủng hoảng của triều đình nhà Nguyễn Vào năm 1802, triều đình phong kiến cuối cùng của Việt Nam được thiết lập. Mặc dù triều Nguyễn cũng có nhiều đóng góp nhất định trong lịch sử dân tộc như: Trong những năm 1828 – 1829, Nguyễn Công Trứ mộ dân khai hoang lập ra hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình). Hay năm 1853, cử Nguyễn Tri Phương chiêu dân lập ấp ở Nam Kỳ. Nhưng một thực tế khác cũng rất rõ ràng, đó là sau khi thiết lập vào năm 1802 triều đình nhà Nguyễn ngày càng có những biểu hiện đi ngược với xu thế phát triển chung của lịch sử. Trong chính sách cai trị của các vua nhà Nguyễn từ vua Gia Long đến vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị, vua Tự Đức, vấn đề “lợi ích dòng họ” luôn được đặt lên hàng đầu. Các vị vua của nhà Nguyễn không nhận thấy những thay đổi của thời đại, duy trì toàn bộ các thiết chế chính trị của chế độ phong kiến mà không có bất cứ một thay đổi nào. Về chính trị, triều Nguyễn duy trì là một nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối mang tính quan liêu, độc đoán. Trên hết là Hoàng đế, nắm tất cả quyền binh, có cơ mật viện bàn quốc sự lớn lao, nhưng ý kiến quyết định cuối cùng vẫn là ý kiến của vua. Hoàng đế tự xưng là Thiên tử - con trời, thay trời trị dân [3;14]. Vua là người nắm mọi quyền hành, quyết định mọi ngân sách và có quyền tước đoạt quyền hành của người khác. Nhà vua trên thực tế là một địa chủ lớn có vô số quyền hạn. Hệ thống quan lại thì ăn chơi, xa đọa, mua quan bán tước, bóc lột sức lao động, cướp bóc ruộng đất của nhân dân. Hệ thống quan lại từ triều đình đến tỉnh, huyện, làng, xã đều do vua sắp xếp. Quan đứng đầu tỉnh do Nhà nước bổ nhiệm và thông qua thi cử. Dưới các thôn, xã, do phú hào cai trị, đây được coi như là công cụ bóc lột sương máu của nhân dân. Về kinh tế, các vua nhà Nguyễn vẫn duy trì quan hệ sản xuất phong kiến, nền kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp. Công tác đê điều lúc đầu được chú ý về sau thiếu sự quản lí và không có quy hoạch nên mất mùa, đói kém, lũ 13 lụt xảy ra liên miên, làm cho đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, bần hàn. Bên cạnh đó, nhân dân còn phải nộp vô vàn thứ thuế như thuế thân, thuế ruộng, nộp vô số các loại tiền (tiền đèn dầu, tiền sai dư…) để làm giàu cho giai cấp thống trị. Ruộng đất của nông dân bị bọn địa chủ, cường hào cướp bóc một cách trắng trợn, tràn lan trong cả nước. Sách Minh Mạng chính yếu cho biết, vào năm 1840, tại tỉnh Gia Định “không có ruộng công, các nhà giàu đã bao chiếm ruộng tư đến ngàn trăm mẫu, dân nghèo không được nhờ cậy” [3;15]. Cũng theo sử cũ, vào năm 1852, trong 31 tỉnh của toàn quốc thì chỉ có hai tỉnh là Thừa Thiên Huế và Quảng Trị có số ruộng công nhiều hơn ruộng tư. Một số tỉnh là Quảng Bình có ruộng công và ruộng tư bằng nhau, còn 28 tỉnh khác ruộng tư nhiều hơn ruộng công, phần ruộng tốt thì cường hào chiếm cả, thừa ra thì hương lí cũng bao chiếm. Dân chỉ được phần ruộng xấu, cằn cỗi, bạc màu [3;15-16]. Trước tình hình trên, nông dân rơi tình cảnh khổ cực lâm con đường bần cùng hóa vì vậy họ đi lưu tán khắp nơi. Dưới thời cầm quyền của vua Minh Mạng, có năm tại trấn Hải Dương trong số 13 huyện, dân phiêu tán mất 108 thôn xã, ruộng bỏ hoang trên 1.270 mẫu. Thời cầm quyền của vua Tự Đức, nạn vỡ đê đã biến miền Khoái Châu thuộc Hưng Yên trở thành bãi cát hoang vu. Năm Tự Đức thứ 8 và thứ 9 (1856- 1857) hàng chục vạn người chết đói ngay trên đồng ruộng phì nhiêu vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nạn ôn dịch vì thế đã hoành hành. Năm Tự Đức thứ 12 (1859), số người chết vì đói và nạn ôn dịch ở trong miền Nam và ngoài miền Bắc lên tới 60 vạn người” [3;16]. Nạn nông dân phiêu tán đã dẫn đến thực trạng ruộng đất bị bỏ hoang nhưng triều đình nhà Nguyễn hầu như không có bất cứ một biện pháp nào. Công tác tu bổ ruộng đất bỏ hoang, tu bổ đê điều khiến cũng không được chú ý, đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, đê Văn Giang (Hưng Yên) liên tiếp bị vỡ trong suốt 18 năm. Cộng thêm sự khắc nghiệt của thời tiết, phá hoại của sâu bệnh khiến nạn đói thường xuyên xảy ra liên miên. “Ngay trước khi tư bản 14 Pháp sắp nổ súng đánh vào Đà Nẵng (1858), một trận đói gê gớm đã xảy ra. Đồng thời, cũng do sự bất lực của bọn phong kiến hồi đó, nạn dịch đã hoành hành dữ dội, giết hàng chục vạn người” [14;479-484]. Như vậy, nền nông nghiệp trở nên hết sức tiêu điều, vua quan không chăm lo cho nhân dân làm cho nhân dân rơi vào tình trạng khổ cực, bần hàn, đói kém, mất mùa, dịch bệnh hoành hành. Trong công nghiệp, triều Nguyễn nắm tất cả những ngành kinh doanh lớn, gần như độc quyền về thương nghiệp nhưng lại không có chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với người lao động. Các xưởng đúc tàu, đúc súng, đúc các loại vũ khí, các công trường xây dựng lớn đều nằm dưới sự quản lí của triều đình. Bắt những người thợ giỏi về để phục vụ trong triều đình và phải chịu sự kiểm soát gắt gao của triều đình. Từ khi Nguyễn Ánh tái lập triều Nguyễn đến trước khi thực dân Pháp xâm lược năm 1858, cả nước có 139 mỏ khoáng sản các loại được khai thác. Ngoại trừ một số lượng không quá nhiều mỏ do Hoa kiều và người Việt Nam đứng ra khai thác, phần còn lại đều do triều đình trung ương độc quyền kiểm soát. Không những thế, nhà Nguyễn còn đặt ra những nguyên tắc hết sức vô lí như khoanh vùng những khu vực không được khai thác, đặt giá cho một số kim loại rồi độc quyền thu mua,… Trong thương nghiệp, triều đình duy trì chính sách “trọng nông, ức thương. Các hoạt động buôn bán hết sức nhỏ giọt. Triều đình độc quyền kinh doanh nguyên liệu công nghiệp như: đồng, thiếc, chì, diêm tiêu,… bên cạnh đó, còn đặt ra rất nhiều đạo luật vô lí khác như: đánh thuế rất nặng vào các mặt hàng gạo, nghiêm cấm nhân dân họp chợ khiến việc giao thương buôn bán giữa các địa phương gặp khó khăn,… Về ngoại thương, nhà Nguyễn thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”, chỉ nhập những nguyên liệu cần thiết cho triều đình (sắt, gang,… để đúc đạn dược, vũ khí) ở một số cửa biển. Tàu buôn các nước ngoài bị khám xét kỹ và đánh thuế rất nặng. 15 Như vậy, triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã ra sức củng cố quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu cản trở lực lượng sản xuất mới đã manh nha từ những thế kỉ trước, để đất nước càng rơi vào khủng hoảng và trì trệ không lối thoát. Điều đó cũng cho ta thấy, đến khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn, kém phát triển. Đây lại là một trong những điểm yếu để thực dân phương Tây dễ dàng xâm nhập và xâm lược vào nước ta. Về xã hội, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, cuộc đấu tranh của nhân dân nổ ra ngày càng liên miên. Trong thời cầm quyền của vua Tự Đức, cao trào nông dân khởi nghĩa đã làm cho nền tảng chế độ phong kiến lung lay nền móng. Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ từ năm 1848 (khi vua Tự Đức lên ngôi) đến năm 1862 (là năm thực dân Pháp cướp trắng ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ) đã có tới 40 cuộc khởi nghĩa và nếu tính đến năm 1883, khi nhà Nguyễn kí Điều ước Hắc-măng, thừa nhận sự chiếm đóng của Pháp trên toàn cõi Việt Nam thì các cuộc khởi nghĩa chống triều đình đã lên tới con số 103 [4; 23-24]. Trước tình hình đó, triều đình tìm cách đàn áp dã man các cuộc khởi nghĩa của nhân dân, làm cho nhân dân ngày càng căm phẫn triều đình và mất tinh thần đoàn kết dân tộc, mà đây lại là yếu tố quan trọng góp phần thắng lợi trước kẻ thù xâm lược. Điều này càng làm cho mâu thuẫn trong xã hội có diễn biến phức tạp hơn. Theo như nhận xét của Nguyễn Trường Tộ, tình hình trong nước lúc đó đang rối loạn: “Trời sanh tai biến để cảnh báo, đất thì hạn hán tai ương, tiền của, sức lực của dân đã kiệt quệ, việc cung ứng cho quân binh đã mệt mỏi, trong triều đình quần thần chỉ làm trò hề cho vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chặn những bậc hiền tài, chia đảng phái khuynh loát nhau, những việc như vậy cũng đã nhiều; ngoài các tỉnh thì quan ham lại nhũng xưng hùng xưng bá tác phúc, tác oai, áp bức tàn nhẫn kẻ thế cô, bòn rút mỡ dân, đục khoét tủy nước” [1;11]. Chính những mâu thuẫn gay
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng