ĐÁNH GIÁ THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC NHO GIÁO
Lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung cũng như từng nước nói riêng, mặc dù
có những bước thăng trầm nhưng xét trong tổng thể ngừng phát triển và vận động,
đặc biệt là trong thời đại chúng ta. Sự vận động và phát triển đó không tách rời với
quá khứ và kế thừa những di sản đã thành các giá trị đã lưu lại trong quá khứ. Điều
này đã được chứng minh ở Phương Đông – Châu Á nơi đã sản sinh ra Nho học và
đã, đang chịu ảnh hưởng của Nho giáo ở mức độ khác nhau. Nho giáo có lịch sử
lâu đời, là hiện tượng hết sức phức tạp mà sự thâm nhập của nó vào đời sống xã
hội, ở các nước Phương Đông ở những thời kỳ lịch sử khác nhau cũng khác nhau,
phụ thuộc vào bản sắc văn hóa bản địa, vào thời điểm lịch sử cụ thể vào trình độ
phát triển của các mặt nơi mà nó thâm nhập. Chính vì lẽ đó mà đánh giá những giá
trị của Nho học phụ thuộc rất nhiều vào thái độ khách quan, vào chỗ đứng và vốn
tri thức của người đánh giá.
Riêng ở Việt Nam, nếu không kể đến những đánh giá trước năm 1945, thì
trong vòng hơn 50 năm qua( từ năm 1945 trở đi) sự đánh giá vai trò thành tựu và
hạn chế của Nho học có nhiều quan niệm trái ngược nhau. Một số ý kiến cho rằng
Nho học có vai trò quan trọng với xã hội Việt Nam, thậm chí có người còn cho
rằng Nho học tạo cơ sở quan trọng cho việc thâm nhập dễ dàng chủ nghĩa Mác - Lê
Nin hoặc coi các truyền thống Việt Nam bắt đầu tư Nho học. Tuy nhiên, bên cạnh
đó có phong trào phê phán, hạ bệ Nho học diễn ra ở Trung Quốc những năm 19501960 đã không ít người coi Nho học là thứ ung nhọt, không có giá trị gì, nó cản trở
sự phát triển. Tất cả những quan niệm trên đều siêu hình và sai lầm khi đánh giá về
vai trò của Nho giáo. Tất cả những quan niệm trên đều siêu hình và sai lầm khi
đánh giá vai trò của Nho giáo. Thử hỏi một học thuyết triết học nào dù có tiến bộ
từ thời cổ đại cho đến nay mà vẫn giữ nguyên giá trị của nó không chịu sự phán xét
của lịch sử, sự thẩm định của thời gian hoặc không chịu một sự phủ định nào? Giải
thích ra sao về sự tồn tại lâu dài của Nho học và việc cho đến nay nó vẫn được
không ít người chấp nhận một cách tự nguyện nếu như nó chỉ đóng vai trò kìm
hãm, chống lại sự tiến bộ xã hội. Cần phải có một thái độ khách quan và quan điểm
lịch sử - cụ thể khi đánh giá thành tựu và hạn chế của học thuyết này. Ta có thể
đánh giá triết học Nho giáo ở bốn vấn đề cơ bản sau.
Về bản thể luận, triết học Nho giáo không rõ ràng như hệ thống triết học
Trung Quốc khác, tuy nhiên Nho giáo cũng có những quan điểm riêng của mình.
Quan điểm về thế giới quan trong triết học của Khổng Tử chịu ảnh hưởng
quan niệm vũ trụ của Trung Quốc thời thượng cổ khi cho rằng vạn vật có nguồn
gốc và vận động không ngừng theo quỹ đạo của nó. Trong hệ thống triết học của
Khổng Tử có triết lý về định mệnh. Khổng tử rất tin trời, coi trời như một vị quan
tòa công minh chính trực, cầm cân nảy mực, phán xét mọi việc. Trời quyết định
mọi việc cho con người. Khổng Tử cho rằng con người muốn hoàn thiện thì phải
hiểu biết trời “không hiểu mệnh trời thì không lấy gì làm người quân tử”.
[Luận ngữ: Nghiêu viết] Theo ông, nếu mệnh trời đã sắp xếp con người ở địa vị
cao sang thì người đó phải hành động theo thân phận cao sang, còn nếu mệnh trới
sắp xếp ở địa vị nghèo khó thì người đó phải ở thân phận địa vị nghèo hèn. Nghĩa
là, theo Khổng Tử, con người sinh ra đã có số. “Sống chết có mệnh, giàu sang tại
trời” [Luận ngữ: Nhan Uyên]. Không chỉ thế, Khổng Tử còn thừa nhận sự tồn tại
của quỷ thần. Theo ông, với quỷ thần, con người phải biết quý trọng không nên
gần gũi. Với quan niệm trên có thể thấy đó là một hạn chế lớn trong hệ thống triết
học của ông. Nó mang tính chất duy tâm, tôn giáo, được giai cấp thống trị sử dụng
để bảo vệ chế độ đẳng cấp, bất công, bất bình đẳng trong xã hội. Nó thủ tiêu tinh
thần đấu tranh của quần chúng nhân dân, khiến cho nhân dân cam chịu sự bóc lột,
thống trị của triều đình phong kiến.
Nếu như Mạnh Tử hệ thống hóa, xây dựng quan điểm “Thiên mệnh” của
Khổng Tử thành nội dung triết học duy tâm coi con người và thế giới vật chất do
trời sinh ra và quyết định – tiếp tục mắc sai lầm, hạn chế của Khổng Tử thì Tuân
Tử lại có những quan điểm duy vật, vô thần về vấn đề này. Trái với thuyết “Thiên
mệnh”, Tuân Tử cho rằng xã hội gồm ba bộ phận: trời, đất, người. Trời chỉ là bộ
phận của vũ trụ, không có linh hồn, ý thức, chỉ có đạo của nó. Theo Tuân Tử, đạo
trời diễn ra theo quy luật tự nhiên nhất định, không liên quan tới đạo người. Nó chi
phối biến hóa của vạn vật, không phụ thuộc vào con người. Với cách hiểu về đạo
trời như vậy, Tuân Tử phủ nhận thuyết “Thiên mệnh” của Nho giáo. Ông khuyên
con người hãy tự tin vào mình, hoạt động theo tự nhiên để quyết định để quyết
định cuộc sống của mình. “Các hiện tượng bất thường trong tự nhiên chỉ là sự biến
đổi của bản thân tự nhiên, chúng không hề chứa đựng điều lành hay dữ trong cuộc
sống”. Tuân tử còn phân biệt thiên chức khác nhau của trời, đất, người “trời có bốn
mùa, đất có sản vật, người có văn tự”. Những quan điểm đó đều là cơ sở quan
trọng để phát triển tư tưởng nhân sinh quan của mình. Có thể nói, bản thể luận
trong triết học của Tuân Tử là một bước tiến rõ rệt trong hệ thống triết học của
Trung Quốc cổ đại. Đạo trời của ông rất gần gũi với quy luật khách quan, phủ nhận
học thuyết “Thiên mệnh”, phân biệt thiên chức của các bộ phận trong vũ trụ. Tuân
Tử đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa vô thần, đưa ý thức con người từ hướng
về một thế giới siêu nhiên về chính bản thân mình. Chính tư tưởng triết học này
của Tuân Tử đã được Vương Sung – nhà triết học người Hán cho rằng nguyên khí
là yếu tố đầu tiên của thế giới. Còn Trương Tải – nhà triết học đời Tống đã xây
dựng học thuyết duy vật thô sơ từ những quan niệm nêu trên. Điều đó có nghĩa,
những tư tưởng nêu trên về bản thể luận trong triết học của Tuân Tử đã có những
giá trị nhất định trong thời kỳ lúc bấy giờ.
Nét nổi bật nhất trong triết học Nho giáo là vấn đề con người. Khi bàn đến
bản tính của con người, Khổng Tử cho rằng “tính của mỗi người đều do gần nhau,
do tập tành và thói quen mới do xa nhau”. Từ quan niệm này Tuân Tử và Mạnh Tử
đã phát triển nhiều học thuyết khác nhau.
Mạnh Tử cho rằng bản tính của con người vốn là thiện. Theo ông, đã là con
người, ai cũng có mầm thiện. Đó là lòng trắc ẩn, lòng tu ố, lòng từ nhượng, lòng
thị phi. Trong đó, lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân, lòng tu ố là đầu mối của nghĩa,
lòng từ nhượng là đầu mối của lễ, lòng thị phi là đầu mối của trí. Nếu biết cách
phát huy các đầu mối đó thì con người ngày càng mạnh. Ý nghĩa tích cực của học
thuyết này là nó phát huy những đầu mối làm mối cho phần tốt trong con người
ngày càng phát triển còn phần xấu thì bị thu hẹp.
Ngược lại, Tuân Tử cho rằng bản tính con người là ác. Vì vậy, ông có chủ
trương uốn nắn lại tính để không làm điều ác. Muốn làm được điều đó thì phải
dùng lễ nghĩa, lễ nhạc để sửa tính ác thành tính thiện, càng ngày càng được tích lũy
cho đến khi hoàn hảo.
Tuy học thuyết của Mạnh Tử và Tuân Tử có trái ngược nhau ở điểm xuất
phát nhưng thống nhất nhau ở chỗ coi trọng sự giáo hóa và đều nhằm phát triển
tính thiện của con người. Vì vậy, những học thuyết trên đều có những giá trị tích
cực nhất định trong giai đoạn hiện nay.
Triết học Nho giáo luôn hướng con người vào “tu thân”, thực hành đạo đức,
luôn coi đó là hoạt động thực tiễn căn bản nhất, luôn đặt vào vị trí quan trọng trong
sinh hoạt xã hội. Mục tiêu xây dựng con người của Nho giáo là giúp con người xác
định được năm mối quan hệ cơ bản (ngũ luân) và làm tròn trách nhiệm trong năm
mối quan hệ đó. Năm mối quan hệ đó quyết định đạo làm người, Nho giáo đưa ra
những đức tính cần thiết cho các mối quan hệ đó là vua nhân, tôi trung, cha từ, con
hiếu, anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng lời, bằng hữu phải có tín. Đó là
những phẩm chất mà mỗi người ở trong một địa vị nhất định phải có. Ngoài ra Nho
giáo cho rằng con đường phấn đấu của mỗi con người phải là ra sức tu dưỡng bản
thâm để xây dựng cuộc sống gia đình, góp phần quản lý đất nước rồi sau đó mới
đem vui cho thiên hạ “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” .
Có thể nói một cách khái quát rằng trong năm mối quan hệ (ngũ luân) mà
Nho giáo nhắc đến có ba mối quan hệ chính (tam cương) là vua tôi, cha con, vợ
chồng, trong đó mẫu chốt nhất là quan hệ vua tôi nhấn mạnh đức trung, quan hệ
cha con nhấn mạnh đức hiếu. Giữa trung và hiếu thì trung đứng đầu. Những đức
mà con người phải thường xuyên trau dồi là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Đứng đầu “ngũ
thường” là nhân nghĩa, trong đó nhân nghĩa nhân là chủ. Vì thế đạo của Khổng Tử
còn được gọi là đạo nhân. Những tư tưởng này góp phần xây dựng các triều đại
phong kiến vững mạnh, bảo vệ chủ quyền dân tộc. Công lao của Nho giáo là đã
đào tạo những tầng lớp nho sĩ kiệt xuất song toàn. Ở Việt Nam dưới thời kỳ phong
kiến có những nhà nho kiệt xuất đã làm rạng rỡ non sông đất nước như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chu Văn An… Trong giai đoạn hiện nay, những thành
tựu của Singgap trong việc ổn định trật tự xã hội, vấn đề giao thông và công cuộc
phòng chống tham nhũng một phần cũng nhờ tiếp thu Nho giáo. Tuy nhiên, cũng
chính những tư tưởng này là nguyên nhân của trì trệ xã hội. Với những “tam
cương”, “ngũ thường” và những luật lệ hà khắc của Nho giáo đã trói buộc con
người trong những chuẩn mực, kìm hãm sự phát triển tư duy trí tuệ của họ. Dưới
ảnh hưởng của Nho giáo, truyền thống tập thể đã biến thành chủ nghĩa gia trưởng,
chuyên quyền, độc đoán. Nho giáo phần nào gây nên trì trệ của xã hội, kìm hãm sự
phát triển của kinh tế và khoa học tự nhiên. Đó chính là những hạn chế lớn của
Nho giáo mà đến nay vẫn còn tồn tại rơi rớt ở các vùng nông thôn Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Một trong những thành tựu lớn nhất mà Nho giáo đạt được là tư tưởng về
giáo dục trước hết là thái độ của việc dạy và học. Khổng Tử đã từng có một câu nói
rất nổi tiếng “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Ông cho rằng tất cả mọi
sự hiểu biết đều do học. Người ta hơn nhau ở cái chí. Bởi vậy việc lập chí là hết
sức quan trọng. Khi đã lập được rồi tức phải xác định phương hướng cho cuộc đời
thì phải ra sức học và phải thực thi những cái đã được học.
Khổng Tử chủ trương “Hữu giáo vô loại” có nghĩa là việc dạy học không
phân biệt ai, ai cũng có thể được giáo hóa. Ta có thể thấy điều đó ở học trò của
ông. Học trò của ông có đủ loại người, xuất thân nhiều tầng lớp khác nhau: Có
Kính Thúc Nam Cung thuộc tầng lớp quý tộc, Nhan Uyên – xuất thân nghèo khó,
Nguyên Hiếu – một hiệp khách giang hồ, có Công Dã Trường đã từng ở tù… Điều
đó cho thấy ngay từ thời đó Khổng Tử đã quan niệm việc học không chỉ dành riêng
cho tầng lớp nào mà tất cả mọi đối tượng đều được học và có thể học.
Trong hệ thống giáo dục của Khổng Tử có “Tứ dĩ tứ giáo” là “Văn, hành,
trung, tín”. Có nghĩa là văn là những tri thức về thi, thư, lễ, nhạc. Hành là những
thực tiễn trong cuộc sống xã hội còn trung là tấm lòng trung thành với mọi người.
Tín là sự tín ngưỡng trong quan hệ với người khác. Điều này cho ta thấy ngoài việc
học hỏi những tri thức thì trong việc học Khổng Tử nhấn mạnh nhiều hơn về bồi
dưỡng phẩm chất và năng lượng thực tiễn.
Khổng Tử thực hiện phương pháp dạy học theo khả năng. Đó là sử dụng
phương pháp dạy học khác nhau đối với những học trò có cá tính không giống
nhau. Ông rất hiểu học trò của mình cho nên khi giải đáp những thắc mắc của học
trò, dù là cùng một vấn đề nhưng với học trò khác nhau ông sẽ đưa ra cách giải
quyết khác nhau. Khi Lộ Tử hỏi “Nghe người khác nói một điều đúng có nên làm
theo không?” Khổng Tử đáp “Có gì còn có cha, anh để hỏi tại sao có thể nóng vội
cho được”. Nhưng khi Nhiễm Hữu hỏi như vậy Khổng Tử trả lời “Nghe việc đúng
như vậy thì nên làm ngay”. Khi được hỏi tại sao lại trả lời như vậy, Khổng Tử nói
“Nhiễm Hữu làm việc chần chừ, nên phải động viên anh ta còn Lộ Tử là người
nóng tính nên ta muốn khuyên ngăn anh ta”.
Khổng Tử là người đầu tiên đề ra dạy học dùng hình thức gợi ý để học trò tư
duy chứ không dạy bài hết từ đầu. Ông nói “Bất phẩm bất khải, bất phỉ bất phát.
Cử nhất ngung bất dĩ tam nhung phản, tắc bất phục dã” Chu Hi đã lý giải điều này:
kẻ căm phẫn, trong lòng muốn biết nhương lại không được biết, kẻ ấp úng không
biết biểu đạt, miệng muốn nói nhưng lại không thể diễn đạt nổi “khải” có nghĩa là
gợi ý ra mà học trò muốn biết, “phát” có nghĩa là diễn đạt ra mà học trò muốn nói.
Quan niệm trên là phải đợi học sinh suy nghĩ kỹ không ra được mới giảng giải, như
vậy học sinh mới thực học mới có thể “nói một điều hiểu ba điều”.
Ngoài ra những quan niệm học đi đôi với hành, đặc biệt là việc tự học. Ngay
từ 15 tuổi ông đã để trí vào học, thực tế ông đã học suốt đời và tự học. Tuy nhiên
chính cái học đó lại là để thực hiện đạo làm người, trở thành người có đạo đức,
thành nhân, thành người có trách nhiệm với gia đình, bạn bè, xã hội. Khổng Tử
khuyên người ta không nên lo là mình không có địa vị gì, người đời không biết đến
mình mà chỉ nên lo lắng mình không có năng lực gì để gánh vác việc đời, với xã
hội mà xem mình liệu có tài đức gì để được đặt vào vị trí ấy.
Tất cả những tư tưởng trên của Khổng Tử về giáo dục đều là những thành
tựu to lớn mà cho đến nay nó vẫn còn những giá trị tích cực. Ngày nay chúng ta
vẫn còn tiếp thu tinh thần học, chí học, ý nghĩa học của Nho giáo còn nội dung và
phương pháp học phải thay đổi cho phù hợp với thời đại.
Triết học Nho giáo hay nói rộng ra là triết học Trung Quốc đặc biệt quan
tâm đến vấn đề trị quốc và lý tưởng xã hội. Điều đó xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử
của nó. Xã hội Trung Quốc thời kỳ đó trở nên rối loạn vô cùng do xu hướng cát cứ
của thế lực phong kiến vì thế Khổng Tử đã đề ra một xã hội lý tưởng mà đặc trưng
cơ bản của xã hội này là thái bình ổn định có trật tự kỷ cương mọi người đều được
chăm sóc bình đẳng. Ông hướng tới một xã hội có giáo dục, xã hội đó là điều mong
ước của nhiều thế hệ lịch sử và được nhiều nhà nho cận đại tiếp thu và hấp thu.
Tuy nhiên, hạn chế của tư tưởng này là lấy giáo dục đạo đức làm điều cốt yếu. Đó
chính là điều không tưởng trong tư tưởng của ông. Xã hội Khổng Tử mong muốn
là một xã hội của quá khứ, một xã hội có nền tảng kinh tế của nó không phù hợp
với tình hình lúc bấy giờ. Vì thế nó không có hiệu quả trong đời sống xã hội và trở
thành chướng ngại vật cho sự phát triển.
Trong học thuyết của Khổng Tử nổi bật lên là học thuyết Nhân trị. Thuyết
Nhân trị được hiểu là sự cai trị của một đất nước dựa trên cơ sở bản thân của nhà
cầm quyền, nhà cầm quyền phải lấy đạo đức mà giáo hóa dẫn dắt dân chúng chứ
không dựa vào hình phạt. Ở đó vai trò đạo đức là phương thức chủ yếu để cai trị
đất nước, hoàn thiện con người, duy trì trật tự xã hội. Biện pháp cơ bản của thuyết
Nhân trị là chính danh. Vai trò tài đức của người cầm quyền và vai trò của người
dân là nền tảng chính trị. Có thể nói đây là một trong những thành tựu trong tư
tưởng triết học của Khổng Tử, nó hướng con người tới những chuẩn mực đạo đức,
hướng tới một xã hội mang đầy tính nhân văn. Tuy nhiên điểm hạn chế của nó lại
là nó quá đề cao đạo đức mà xem nhẹ vai trò của pháp luật. Nó hoàn toàn không
phù hợp với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ là vì thế nó không được các nhà cầm
quyền sử dụng.
Trong Nho giáo còn có học thuyết Nhân chính của Mạnh Tử. Mạnh Tử chủ
trương thuyết Nhân chính mà tư tưởng chủ yếu của nó là trị nước vì dân. Ông quan
niệm “dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Đó là tư tưởng lấy dân làm gốc.
Từ đó ông đưa ra chính sách bảo vệ dân mà theo ông có thể áp dụng cho mọi thế
lực cầm quyền. Nội dung của chính sách này ông nói “Phải thi hành chính sách
điền địa và chế độ giáo hóa dân, bất kỳ một vương giả nào muốn thâu tóm thiên hạ
cũng phải giữ hai phép ấy”. Xuất phát từ chủ trương Nhân chính và quan niệm
“dân vi quí” chứng kiến được cuộc chiến tranh tàn khốc của các nước chư hầu
Mạnh Tử cho rằng vua chúa, những kẻ phạm tội chiến tranh là những kẻ có tội. Có
thể coi đây là quan niệm hết sức tiến bộ mà được coi là thành tựu mà Mạnh Tử để
lại cho Nho giáo. Quan niệm này đã được các nhà nho yêu nước như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng một cách triệt để. Trong
bất cứ mọi hoàn cảnh nào của Đảng ta luôn lấy dân làm gốc. Từ những cuộc kháng
chiến chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước đến việc xây dựng và phát triển đất
nước ta luôn lấy dân làm gốc. Đó là bài học quan trọng đã được lịch sử của cả quá
khứ và hiện đại của dân tộc ta đúc kết.
Triết học Nho giáo đã đạt được nhiều thành tựu lớn lao và cũng chứa đựng
trong nó nhiều thành tựu lớn lao và cũng chứa đựng trong nó nhiều thiếu sót lớn
không thể tránh khỏi do hoàn cảnh lịch sử quy định. Khi đánh giá về triết học Nho
giáo ta cần phải có một cái nhìn biện chứng hết sức khách quan, để thấy được
những giá trị tích cực để phục vụ cho sự phát triển của xã hội, xây dựng đất nước
đồng thời cũng phải nhận ra những hạn chế của nó không để cho nó ảnh hưởng,
cản trở sự phát triển của xã hội.
______________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Doãn Chính (2004), Đại Cương Lịch Sử Triết Học Trung Quốc, NXB Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nội.
2. Lương Duy Thứ (1998), Đại Cương Văn Hoá Phương Đông, NXB Giáo Dục,
Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Hiến Lê (dịch) (1995), Luận Ngữ, NXB Văn Học,Thành phố Hồ Chí
Minh.
4. Nguyễn Hiến Lê (2007), Mạnh Tử, NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội.
Lê Phụng Hoàng (2000), Lịch Sử Văn Minh Thế Giới, NXB Giáo Dục, Thành phố
Hồ Chí Minh.
5. Trần Xuân Đề (2003), Tác Giả, Tác Phẩm Trung Quốc, NXB Giáo Dục, Thành
phố Hồ Chí Minh.
6. Lý Tường Hải (2007), Khổng Tử, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
7. Bộ giáo dục và Đào tạo (1999), Lịch sử Triết học (Giáo trình dùng cho các
trường Đại học và Cao đẳng), NXB Giáo dục, Hà Nội.
- Xem thêm -