Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Triết học đánh giá kết quả học tập của sinh viên...

Tài liệu đánh giá kết quả học tập của sinh viên

.DOC
8
454
82

Mô tả:

Nghiệp vị sư phạm
A, MỞ ĐẦU Bất cứ một quá trình nào lĩnh vực nào mà con người tham gia vào cũng nhằm tạo ra những biến đổi nhất định, muốn biết những biến đổi đó diễn ra ở mức độ nào thì cần phải đánh giá. Trong thực tiễn, đánh giá được thực hiện ở các lĩnh vực khác nhau và diễn ra trong những tình huống rất đa dạng, đánh giá là hoạt động của con người nhằm phán xét về một hay nhiều đặc điểm của sự vật, hiên tượng, con người theo những quan niệm và chuẩn mực nhất định mà người đánh giá cần tuân theo. Trong giáo dục, đánh giá là bộ phận hợp thành rất quan trọng, một khâu không thể tách rời của quá trình giáo dục và đào tạo, đánh giá có vai trò tích cực trong việc điều chỉnh giáo dục, là cơ sở cho việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. B, NỘI DUNG Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC 1.1 Khái niệm Bất cứ một quá trình nào lĩnh vực nào mà con người tham gia vào cũng nhằm tạo ra những biến đổi nhất định, muốn biết những biến đổi đó diễn ra ở mức độ nào thì cần phải đánh giá. Trong thực tiễn, đánh giá được thực hiện ở các lĩnh vực khác nhau và diễn ra trong những tình huống rất đa dạng, đánh giá là hoạt động của con người nhằm phán xét về một hay nhiều đặc điểm của sự vật, hiên tượng, con người theo những quan niệm và chuẩn mực nhất định mà người đánh giá cần tuân theo. Trong giáo dục, đánh giá là bộ phận hợp thành rất quan trọng, một khâu không thể tách rời của quá trình giáo dục và đào tạo, đánh giá có vai trò tích cực trong việc điều chỉnh giáo dục, là cơ sở cho việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Khái niệm đánh giá được sử dụng trong lĩnh vực giáo dục được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo C.E. Beeby (1997) “Đánh giá là sự thu thập và lý giải một cách có hệ thống những bằng chứng dẫn tới sự phán xét về giá trị theo quan điểm hành động”, khái niệm này nhấn mạnh vào khía cạnh giá trị, coi đánh giá là sự thu thập và lý giải một cách có hệ thống những bằng chứng dẫn tới sự phán xét về mặt giá trị, theo R.Tyler đánh giá thể hiện ở sự xem xét mức độ thích đáng giữa toàn bộ các thông tin với toàn bộ các tiêu chuẩn tương ứng với mục tiêu xác định, nhằm đưa ra một quyết định “Quá trình đánh giá là chủ yếu là quá trình xác định mức độ thực hiện các mục tiêu của chương trình giáo dục” (1984). Owen & Rogers (1999) “Đánh giá là việc thu thập thông tin một cách hệ thống và đưa ra những nhận định dựa trên cơ sở các thông tin thu được”. Như vậy, quan niệm về đánh giá được xem xét phù hợp với mục đích, đối tượng cụ thể cần đánh giá. Có thể hiểu đánh giá là sự thu thập thông tin một cách hệ thống về thực trạng của đối tượng được đánh giá, từ đó đưa ra những nhận định xác thực dựa trên cơ sở các thông tin thu được, làm cơ sở cho việc đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Đánh giá là một quá trình bao gồm việc chuẩn bị cho đánh giá, thu thập, phân tích, xử lý các thông tin thu được, chuyển giao kết quả đến những người liên quan để có được những quyết định thich hợp. Sản phẩm của đánh giá là các thông tin và bằng chứng thu được trong quá trình đánh giá, các nhận định rút ra trên cơ sở các thông tin và bằng chứng thu được, các kết luận. Đánh giá trong giáo dục bao gồm việc trả lời các câu hỏi như: mục đích của đánh giá; những gì cần được đánh giá; ai đánh giá; những thủ tục của đánh giá; phương pháp nào được sử dụng; đánh giá bằng những tiêu chuẩn nào. 1.2 Mục đích của đánh giá trong giáo dục Bất kể hoạt động đánh giá nào cũng hướng vào mục đích nhất định, đánh giá có nhiều mục đích khác nhau. Đánh giá nhằm xác định mức độ đạt được các mục tiêu giáo dục, đánh giá cuối cùng sẽ đi đến xác nhận kết quả của nó, đánh giá chứng thực cho khả năng của con người trong các lĩnh vực hoạt động xã hội, cũng như chất lượng của một tổ chức đảm bảo cho sự phát triển giáo dục Tuy nhiên, để đạt mục tiêu tốt hơn cần phải điều chỉnh hành động, từ đó cho phép can thiệp kịp thời và làm cho hành động thành công hơn. Đánh giá để giúp các cơ sở giáo dục luôn được giải trình với xã hội, với các cơ quan có thẩm quyền, với các bậc phụ huynh về việc cơ sở giáo dục thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của trường và kết quả đạt được là hợp lý. Đánh giá nhằm nâng cao chất lượng của tất cả các hoạt động giáo dục, chương trình giáo dục, sản phẩm giáo dục, đánh giá cần phải mang tính dự đoán, chi tiết, có tác dụng điều chỉnh, phát tiển nâng cao. Đánh giá cung cấp những thông tin để chỉ đạo kịp thời các hoạt động ở một đơn vị giáo dục, giúp cho việc điều chỉnh thường xuyên các hoạt động giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục. Đánh giá làm cơ cở cho các cấp quản lý có những quyết định cụ thể như: quyết định về đội ngũ cán bộ để nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, đội ngũ giáo viên; quyết định về quá trình giáo dục và đào tạo như vấn đề tiếp tục hay cần cải tiến phương pháp, nội dung, chương trình đào tạo .v.v ; quyết định đối với người học; những quyết định về nghiên cứu. 1.3 Chức năng của đánh giá Chức năng của đánh giá trong giáo dục căn cứ vào mục đích đánh giá, mục đich đánh giá giá khác nhau sẽ thực hiện các chức năng khác nhau Chức năng xác nhận, đòi hỏi đánh giá xem xét cơ sở giáo dục hay cá nhân có đạt được các chuẩn mực đặt ra hay không để có sự công nhận. Chức năng hỗ trợ nâng cao chất lượng: đánh giá chẩn đoán, điều chỉnh giúp một cơ sở giáo dục hay người học, biết được những điểm mạnh điểm yếu, từ đó phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu, rút các bài học kinh nghiệm để cải tiến chất lượng, làm cho chất lượng nhà trường hay sự phát triển cá nhân tốt hơn. Chức năng khích lệ, thúc đẩy: giúp cho đối tượng được đánh giá có trách nhiệm đối với kết quả hoạt động của mình, thúc đẩy cơ sở giáo dục và cá nhân mong muốn và nỗ lực không ngừng vươn lên để đạt kết quả đặt ra. Chương 2: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN THEO TIẾP CẬN NĂNG LỰC – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 2.1 Lý do phải tiếp cận năng lực người học Ngày 01 tháng 11 năm 2013, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ra Nghị quyết số 29/NQ-TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” Nghị quyết này đã được thông qua tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI. Trong phần đánh giá tình hình giáo dục và đào tạo, Nghị quyết đã chỉ ra những yếu kém, hạn chế là : “….chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, ….; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành.” Có nghiều nguyên nhân dẫn đến yếu kém, hạn chế. Trong đó, Nghị quyết cũng chỉ rõ “Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch và chương trình phát triển giáo dục-đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội.” Để thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo nhân lực trong các cơ sở đào tạo với yêu cầu của thị trường lao động thì cần thiết phải đổi mới, từ việc xây dựng nội dung chương trình đào tạo, xây dựng nội dung học phần đến đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tiêp cận năng lực người học. Xuất phát từ những yêu cầu cấp bách về chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển kinh tế – xã hội đòi hỏi mỗi cơ sở đào tạo cần nhanh chóng thoát khỏi mô hình giáo dục truyền thống, chuyển sang mô hình giáo dục theo định hướng tiếp cận năng lực người học, chuyển từ việc trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học. Nghĩa là phải thay đổi quan điểm, mục tiêu dạy học : từ chỗ chỉ quan tâm tới việc người học học được gì đến chỗ quan tâm tới việc người học làm được cái gì qua việc học. 2.2 Năng lực và phân loại năng lực 2.2.1 Năng lực Năng lực là một khái niệm trừu tượng, đa nghĩa, do đó, có nhiều cách phát biểu về khái niệm năng lực. Tuy nhiên, các phát biểu đều thống nhất rằng: Những thành tố cơ bản tạo nên năng lực là kiến thức, kỹ năng và thái độ. Song, không thể hiểu đơn giản rằng: Năng lực là sự gộp lại của các thành tố đó. Điểm chung của các cách phát biểu về khái niệm năng lực chính là khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng và thái độ để giải quyết một tình huống có thực trong cuộc sống. 2.2.2 Phân loại năng lực Năng lực của người học có thể chia thành hai loại chính: năng lực chung và năng lực cụ thể, chuyên biệt: Năng lực chung là năng lực cơ bản, thiết yếu để con người có thể sống và làm việc bình thường trong xã hội. Năng lực này được hình thành và phát triển do nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học. Đây là loại năng lực được hình thành xuyên chương trình. Năng lực cụ thể, chuyên biệt là năng lực riêng được hình thành và phát triển do một lĩnh vực/môn học nào đó. Đây là dạng năng lực chuyên sâu, góp phần giúp mọi người giải quyết các công việc chuyên môn trong lĩnh vực công tác hẹp của mình. Năng lực chỉ có thể thấy được khi quan sát hoạt động của sinh viên ở các tình huống nhất định. Năng lực được hình thành không chỉ trong quá trình học tập tại trường mà cả ngoài trường và xã hội. 2.3 Những vấn đề đặt ra đối với đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực 2.3.1 Xác định hệ thống năng lực Đây là vấn đề được đặt ra ngay từ khi xây dựng chương trình đào tạo. Thiết kế và thực hiện chương trình theo hướng phát triển năng lực cần phải nhất quán từ hệ thống năng lực, mục tiêu, chuẩn năng lực, đặc điểm của các năng lực, kết quả cần đạt về năng lực và tiêu chí đánh giá các năng lực. 2.3.2 Xác định năng lực ở từng học phần trong chương trình đào tạo Khi xây dựng chương trình học phần (đề cương chi tiết học phần), ngoài việc đưa ra mục tiêu (Về kiến thức, Về kỹ năng, Về thái độ) cần thể hiện rõ mối quan hệ giữa nội dung giảng dạy với năng lực mà người học cần đạt được. Đây là cơ sở để tổ chức triển khai đào tạo, đo lường và đánh giá kết quả đào tạo theo chuẩn năng lực đầu ra đối với mỗi học phần cũng như toàn bộ chương trình đào tạo 2.3.3 Thiết kế nội dung học phần theo hướng tiếp cận năng lực người học Từ kết quả xác định năng lực ở từng học phần dựa vào yêu cầu những khả năng/kỹ năng mà người học cần đạt được để thiết kế nội dung học phần theo từng môđun. 2.3.4 Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận năng lực người học Khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. 2.3.5 Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV theo hướng tiếp cận năng lực Bấy lâu nay, các cơ sở đào tạo thường chỉ đánh giá người học thông qua kiến thức đã được trang bị. Đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực thì việc đánh giá người học cũng phải được đổi mới. Đánh giá ở từng học phần và công nhận tốt nghiệp trên cơ sở kiến thức, năng lực thực hành. C, KẾT LUẬN Đánh giá kết quả học tập phải dựa vào các bằng chứng được thu thập từ nhiều hoạt động khác nhau, các phương pháp đánh giá rất đa dạng như kiểm tra tự luận, trắc nghiệm khách quan, vấn đáp, thực hành.v.v. Các phương pháp phải được lựa chọn, sử dụng phù hợp với mục tiêu dạy học và tuân thủ những nguyên tắc nhất định, nó phải là bộ phận khăng khít của quá trình dạy học. Ngày nay, xu hướng của đánh giá kết quả học tập là: Chuyển dần trọng tâm từ việc đánh giá kết quả cuối cùng sang đánh giá cả quá trình, đảm bảo cho việc đánh giá toàn diện hơn, đầy đủ hơn nội dung môn học, giúp họ có nhiều cơ hội hơn để thể hiện mình và giảm bớt sức ép từ việc kiểm tra đánh giá; Từ đánh giá các kỹ năng riêng lẻ, các sự kiện sang các kỹ năng tổng hợp, không phải chỉ là đánh giá khả năng nhớ và hiểu mà còn đánh giá khả năng hiểu sâu, lập luận, đánh giá kỹ năng vận dụng kiến thức, nhấn mạnh đến kỹ năng tư duy, làm việc nhóm Từ đánh giá dựa trên ít thông tin sang đánh giá dựa trên nhiều thông tin đa dạng, người học tự đánh giá và đánh giá từ các chủ thể khác nhau; Chuyển từ xem xét đánh giá như là một hoạt động độc lập với quá trình dạy học sang là một bộ phận tích hợp của quá trình dạy học , chúng được tiến hành liên tục trong quá trình giảng dạy nhằm giúp cho giảng viên có những quyết định phù hợp trong các thời điểm giảng dạy, giúp sinh viên tích cực hơn trong học tập; Kiểm tra đánh giá chuyển từ việc giữ kín tiêu chuẩn, tiêu chí sang công khai các tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá; TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. (2013). Nghị quyết số 29NQ/TW Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Hà Nội. Nguyễn Vũ Bích Hiền. (2012). Các xu hướng phát triển chương trình đào tạo theo quan điểm lấy người học làm trung tâm. Tạp chí khoa học, 57, 148-155. Đặng Bá Lãm. (2015). Chương trình giáo dục hướng tới phát triển năng lực người học. Tạp chí Quản lý giáo dục, 4, 47–49. Nguyễn Thanh Sơn (2015). Phát triển năng lực người học đáp ứng yêu cầu xã hội tại các trường đại học Việt Nam. Bản tin khoa học và giáo dục, 4-7
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan