.
THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƢỜNG
1. Thông tin chung:
- Tên đề tài: Đánh giá kết quả điều trị bằng can thiệp nội mạch trong rò động
tĩnh mạch thận
- Mã số: 2016.3.1.139
- Chủ nhiệm đề tài: NGUYỄN THÀNH TUÂN Điện thoại: 0982587963
Email:
[email protected]
- Đơn vị quản lý về chuyên môn (Khoa, Tổ bộ môn): BM Tiết Niệu Học, Khoa
Y
- Thời gian thực hiện: từ tháng 09 năm 2016 đến tháng 09 năm 2017
2. Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị bằng can thiệp nội mạch trong rò động tĩnh
mạch thận
3. Nội dung chính: Đánh giá kết quả điều trị bằng can thiệp nội mạch trong rò động
tĩnh mạch thận tại bệnh viện Chợ Rẫy.
4. Kết quả chính đạt đƣợc:
Công bố trên tạp chí trong nước và quốc tế (tên bài báo, tên tạp chí, năm xuất
bản):
Nguyễn Thành Tuân, Thái Kinh Luân, Trần Trọng Trí, Thi Văn Gừng, Thái
Minh Sâm, Ngô Xuân Thái, Trần Ngọc Sinh (2016). Kết quả điều trị bằng
can thiệp nội mạch trong rò động-tĩnh mạch thận. Y Học Việt Nam, tập
445, số đặc biệt: 216-224.
.
.
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƢỢC TP. HỒ CHÍ MINH
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƢỜNG
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BẰNG CAN THIỆP
NỘI MẠCH TRONG RÒ ĐỘNG TĨNH MẠCH THẬN
Mã số: 2016.3.1.139
Chủ nhiệm đề tài: ThS.BS. Nguyễn Thành Tuân
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11/2018
.
.
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƢỢC TP. HỒ CHÍ MINH
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƢỜNG
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BẰNG CAN THIỆP
NỘI MẠCH TRONG RÒ ĐỘNG TĨNH MẠCH THẬN
Mã số: 2016.3.1.139
Chủ nhiệm đề tài
(ký, họ tên)
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11/2018
.
.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rò động - tĩnh mạch thận là những thông nối bất thường giữa hệ thống động
mạch và tĩnh mạch ở thận [34]. Những bất thường này có thể do bẩm sinh hoặc mắc
phải, trong đó nguyên nhân do mắc phải thường gặp hơn chiếm 70-80% các trường
hợp [72][12]. Bệnh nhân rò động - tĩnh mạch thận thường đến khám vì triệu chứng
tiểu máu đại thể. Chẩn đoán chủ yếu dựa vào hình ảnh học như siêu âm Doppler,
chụp cắt lớp điện toán và chính xác nhất là chụp hình mạch máu.
Rò động - tĩnh mạch thận là vấn đề ít gặp trên lâm sàng, tần suất bệnh ước
đoán vào khoảng 0,04% dân số chung [58][80]. Tuy nhiên tần suất rò động - tĩnh
mạch thận có xu hướng tăng vì sự phổ biến của phẫu thuật lấy sỏi thận qua da và
sinh thiết thận do các can thiệp này gây ra phần lớn các trường hợp rò động - tĩnh
mạch thận mắc phải. Ngoài ra, rò động - tĩnh mạch thận có thể gây ra tiểu máu,
thiếu máu, tăng huyết áp và suy tim. Những biến chứng này ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống, thậm chí đe dọa tính mạng bệnh nhân, đòi hỏi phải can thiệp,
thậm chí là cắt thận [34].
Phương pháp điều trị kinh điển của rò động – tĩnh mạch thận là cắt thận, tuy
nhiên đây là chọn lựa không mong muốn do không bảo tồn được phần nhu mô thận
không bị ảnh hưởng bởi bệnh lý rò động - tĩnh mạch thận. Từ những năm 1970, can
thiệp nội mạch và ghép thận tự thân bắt đầu được áp dụng trong rò động – tĩnh
mạch thận cho phép chúng ta có thêm lựa chọn trong điều trị bệnh lý này. Tuy
nhiên cho đến hiện nay các nghiên cứu về điều trị rò động - tĩnh mạch thận vẫn còn
ít. Các nghiên cứu trong nước về rò động - tĩnh mạch thận đều là báo cáo trường
hợp ca lâm sàng đơn lẻ [1][9][8][2][10]. Theo y văn thế giới thì phần lớn nghiên cứu
về vấn đề này vẫn là các báo cáo trường hợp ca lâm sàng đơn lẻ, chỉ có vài nghiên
cứu hàng loạt ca với số lượng mẫu nhỏ như nghiên cứu của Loffroy (12 trường
hợp), Lorenzen (20 trường hợp) và Takebayashi (30 trường hợp) [49] [50][73]. Vì
.
.
vậy mức độ chính xác của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh cũng như tỷ lệ thành
công của các phương pháp điều trị vẫn còn là vấn đề cần bàn luận thêm.
Nhận thấy bệnh lý này là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu nhằm góp
phần nâng cao tỷ lệ chẩn đoán chính xác và cải thiện kết quả điều trị cho bệnh nhân,
chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu “Đánh giá kết quả chẩn đoán và điều trị
rò động - tĩnh mạch thận” tại bệnh viện Chợ Rẫy với các mục tiêu sau:
1. Đánh giá kết quả chẩn đoán rò động - tĩnh mạch thận.
2. Đánh giá kết quả điều trị rò động - tĩnh mạch thận.
.
.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1
ĐỊNH NGHĨA RÒ ĐỘNG - TĨNH MẠCH THẬN
1.1.1. Định nghĩa:
Rò động - tĩnh mạch thận là những thông nối bất thường giữa hệ thống động
mạch và tĩnh mạch của thận. Những bất thường có thể do bẩm sinh hoặc mắc phải
[34].
1.1.2. Tần suất:
Rò động - tĩnh mạch thận được Varela mô tả lần đầu vào năm 1928 [78]. Rò
động - tĩnh mạch thận là bệnh hiếm gặp, tần suất ước lượng là 0,04% dân số chung
[58][80]. Trên lâm sàng, thường các trường hợp rò động - tĩnh mạch thận được phát
hiện thông qua các kĩ thuật hình ảnh tiết niệu hoặc mạch máu, tần suất thay đổi từ 1
ca trên 1000 đến 2500 bệnh nhân.
Rò động - tĩnh mạch thận bẩm sinh chiếm 20-30% các trường hợp rò động tĩnh mạch thận và thường ở cực trên thận [71]. Đa số các trường hợp này rò động tĩnh mạch thận bẩm sinh dạng ngoài thân hay còn gọi là dị dạng động tĩnh mạch
dạng giãn (cirsoid arteriovenous malformations) với biểu hiện là sự thông nối giữa
động mạch và tĩnh mạch thông qua nhiều mạch máu bất thường giãn ngoằn ngoèo
được gọi là “nidus”. Còn lại là rò động - tĩnh mạch thận bẩm sinh dạng tại thân hay
còn gọi là dị dạng động tĩnh mạch dạng hang (cavernous arteriovenous
malformations) biểu hiện là một mạch máu đơn lẻ giãn [24].
Rò động - tĩnh mạch thận mắc phải phổ biến hơn chiếm từ 70 – 80% các
trường hợp rò động - tĩnh mạch thận [72][12].
Tần suất rò động - tĩnh mạch thận trên thế giới chịu ảnh hưởng của sự phổ
biến của phẫu thuật thận qua da và sinh thiết thận vì những can thiệp này gây ra
phần lớn các trường hợp rò động - tĩnh mạch thận mắc phải [14][50].
.
.
1.1.3. Nguyên nhân
Nguyên nhân của rò động - tĩnh mạch thận bẩm sinh không rõ. Ngược lại,
nguyên nhân của rò động - tĩnh mạch thận mắc phải thường xác định được.
Sinh thiết thận qua da là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra rò động - tĩnh
mạch thận mắc phải. Ước lượng 3,8-10% các trường hợp sinh thiết dẫn đến rò động
tĩnh mạch ở các mức độ khác nhau [49][57]. Tuy nhiên 70% các rò động - tĩnh
mạch thận sau sinh thiết thận không có triệu chứng có thể tự hết, do vậy tỷ lệ rò
động - tĩnh mạch thận sau sinh thiết thận cần phải can thiệp chỉ chiếm 1,6%
[31][50].
Chấn thương là một nguyên nhân quan trọng gây rò động - tĩnh mạch thận dù
rằng hiếm gặp hơn. Ở bệnh nhân có tăng huyết áp sau chấn thương thì rò động - tĩnh
mạch thận có thể xảy ra ở một phần ba các trường hợp. Ở bệnh nhân có vết thương
thận, tỷ lệ rò động - tĩnh mạch thận lên đến 80% khi có tăng huyết áp sau vết
thương thận. Chấn thương trong lúc soi niệu quản hoặc sau cắt thận bán phần hiện
đã được mô tả như là nguyên nhân gây ra rò động - tĩnh mạch thận [53]
[51][43][19].
Rò động - tĩnh mạch thận vô căn được nghĩ là do xuất phát từ sự ăn mòn
hoặc vỡ tự phát của động mạch thận qua tĩnh mạch thận gần đó [69].
Rò động - tĩnh mạch thận có thể xuất hiện trong bệnh lý ác tính [24]. Ung
thư thận có xu hướng tăng sinh mạch máu, trong đó tương đối phổ biến là các mạch
máu tăng sinh lan đến tĩnh mạch thận. Các yếu tố sinh mạch máu của bướu được
cho là có liên quan và góp phần giải thích sự hình thành các rò động - tĩnh mạch
thận cùng với bướu thận [79][26].
1.2
GIẢI PHẪU BỆNH HỌC VÀ PHÂN LOẠI
1.2.1 Giải phẫu học của mạch máu thận
Kiến thức về giải phẫu mạch máu thận quan trọng trong việc nghiên cứu về
chẩn đoán và lên kế hoạch điều trị rò động - tĩnh mạch thận.
Động mạch thận là một nhánh tận cấp máu cho thận xuất phát từ động mạch
chủ bụng. Thường mỗi bên chỉ có một động mạch thận, tuy vậy có nhiều hơn một
.
.
động mạch thận là phổ biến với ít nhất 25% số bệnh nhân có từ hai động mạch thận
trở lên. Động mạch thận chia thành 4 hoặc 5 nhánh. Nhánh đầu tiên là nhánh sau, là
nguồn cung cấp máu các phần phía sau của thận. Động mạch chính sau đó đi vào
rốn thận trước khi tiếp tục phân chia thành các nhánh khác [7].
Hình 1.1: Giải phẫu mạch máu thận. Thận được nuôi bởi 2 nhánh động mạch
trước và sau xuất phát từ động mạch thận chính. Nhánh trước cấp máu cho mặt
trước và các cực của thận. Nhánh sau cấp máu cho mặt sau thận (vùng màu xanh
nhạt trên hình). Đường vô mạch Brödel phân cách vòng tuần hoàn phía trước và
phía sau. “Nguồn: Campbell’s Urology 9th 2007” [53]
Các nhánh động mạch thận chỉ có tuần hoàn bàng hệ tối thiểu giữa các nhánh
động mạch này. Các động mạch thùy nằm trong rốn thận và là nhánh của các nhánh
động mạch thận.
Các động mạch thùy chia thành các động mạch gian thùy trong nhu mô thận.
Các động mạch gian thùy gần với hệ thống thu thập. Các động mạch gian thùy chia
thành các động mạch cung, dẫn đến các động mạch gian tiểu thùy.
Các động mạch gian tiểu thùy dẫn đến các tiểu động mạch hướng tâm, cấp
máu cho mỗi cầu thận. Máu từ cầu thận đến các động mạch ly tâm, dẫn đến các
động mạch thẳng, đến lượt lại cung cấp cho các mạng lưới tĩnh mạch của thận.
.
.
Hệ thống tĩnh mạch tương tự sự phân nhánh của các động mạch. Tuy nhiên,
không giống như hệ thống động mạch, thông nối tồn tại nhiều giữa các nhánh trong
hệ thống tĩnh mạch.
Rò động - tĩnh mạch thận bẩm sinh dạng ngoài thân hay còn gọi là dị dạng
động tĩnh mạch dạng giãn (Cirsoid AVM) thường lớn hơn 1 cm đường kính và nằm
liền kề với hệ thống thu thập. Rò động tĩnh mạch dạng tại thân hay còn gọi là dị
dạng động tĩnh mạch dạng hang (Cavernosal AVM) có đường kính nhỏ hơn 1 cm
và thường nằm gần ngoại vi [20].
1.2.2 Bệnh học của rò động - tĩnh mạch thận
Từ tuần lễ thứ 3 phôi lớn nên không còn phù hợp với sự nuôi dưỡng qua cơ
chế khuếch tán đơn thuần. Hệ tuần hoàn bắt đầu xuất hiện để phôi có thể phát triển
nhanh, nhận hoặc thải các chất hiệu quả hơn. Sự tạo máu và các mạch máu khởi đầu
tại trung bì noãn hoàng và trung bì đệm. Do tác động cảm ứng từ nội bì túi noãn
hoàng, các tiểu đảo tạo máu Pander xuất hiện và phát triển thành các mạch nguyên
thủy có cấu trúc lưới (reticular structure), đây là giai đoạn ngoài thân (extratruncular
stage). Giai đoạn tại thân (truncular stage) xảy ra sau đó với sự hình thành các thân
động mạch, tĩnh mạch và bạch huyết nhằm hoàn thành quá trình biệt hóa của mạch
máu [3][21].
Như vậy rò động - tĩnh mạch thận bẩm sinh dạng ngoài thân (extratruncular)
xảy ra do sự ngừng phát triển của mạch máu trong giai đoạn sớm của quá trình phát
triển phôi thai, khi hệ thống mạch máu đang ở giai đoạn lưới (reticular stage). Dị
dạng này là tàn tích của quá trình phát triển phôi có nguồn gốc từ trung bì và mang
các đặc điểm của tế bào trung mô (angioblast). Các tế bào này có khả năng tăng
trưởng và tăng sinh khi gặp kích thích nội sinh (ví dụ như nội tiết tố, mang thai,
hành kinh…) hoặc kích thích ngoại sinh (ví dụ như phẫu thuật, chấn thương…). Vì
vậy dạng tổn thương giai đoạn ngoài thân có nguy cơ tái phát đáng kể sau một điều
trị không triệt để, biến tổn thương dạng tiềm ẩn thành dạng phát triển nhanh. Việc
phát triển của rò động - tĩnh mạch thận dạng ngoài thân thường gây chèn ép mô
xung quanh cũng như tác động lên huyết động của hệ mạch máu có liên quan [21].
.
.
Rò động - tĩnh mạch thận bẩm sinh dạng tại thân (truncular) xảy ra ở giai
đoạn sau, trong giai đoạn hình thành thân mạch máu của quá trình phát triển phôi.
Dạng thương tổn này mất đi đặc tính phôi thai của tế bào trung mô, nghĩa là dạng
này không có khả năng tăng trưởng hay tăng sinh. Vì vậy dạng tại thân này ít tái
phát sau điều trị hơn so với dạng ngoài thân, tuy nhiên dạng tại thân thường ảnh
hưởng lên huyết động học nghiên trọng hơn dạng ngoài thân [21].
1.2.3 Phân loại rò động - tĩnh mạch thận
Rò động - tĩnh mạch thận theo cách phân chia cổ điển thì gồm 2 loại là rò
động - tĩnh mạch thận bẩm sinh và mắc phải [4][24]. Cách phân loại này đơn giản,
dễ áp dụng nhưng chưa hỗ trợ tốt cho việc định hướng điều trị trên lâm sàng vì
không cung cấp được thông tin về giải phẫu và sinh lý bệnh của bệnh lý này, đặc
biệt là rò động - tĩnh mạch thận bẩm sinh có nhiều dạng khác nhau.
Sự phát triển các khái niệm đương thời về điều trị chuyên sâu của dị dạng
mạch máu bẩm sinh đã trải qua một con đường dài và khó khăn trong hàng thập
niên mặc dù có sự nỗ lực to lớn của các nhà nghiên cứu và phẫu thuật viên trên toàn
thế giới. Tuy nhiên dị dạng mạch máu bẩm sinh vẫn còn là một trong những vấn đề
khó hiểu của y học hiện đại. Năm 1988 tại một buổi họp của Tổ Chức Quốc Tế Về
Nghiên Cứu Các Bất Thường Mạch Máu (International Society for the Study of the
Vascular Anomalies) tại Hamburg đã công bố bảng phân loại mới của dị dạng mạch
máu bẩm sinh [16][17]. Bảng phân loại Hamburg là bảng phân loại quốc tế đầu tiên
sử dụng các thuật ngữ dựa trên các kiến thức về phôi thai học của dị dạng mạch
máu bẩm sinh được tích lũy qua nhiều thập niên nghiên cứu. Bảng phân loại này
đồng thời cung cấp thông tin về giải phẫu và sinh lý bệnh của các khiếm khuyết
bẩm sinh tại nhiều giai đoạn của quá trình hình thành phôi [46][47]. Định nghĩa và
phân loại mới của dị dạng mạch máu đã góp phần làm sáng tỏ bệnh lý này và ngày
càng được chấp nhận rộng rãi [37][45].
.
.
Bảng 1.1: Phân loại Hamburg về dị dạng mạch máu.
“Nguồn Belov S. Semin Vasc Surg 1993” [17]
Bảng phân loại Hamburg về dị dạng mạch máu
Dạng thương tổn
Phân nhóm chính
Động mạch
Tĩnh mạch
Bạch huyết
Thông nối động - tĩnh mạch
Tại thân (truncular)
Ngoài thân (extratruncular)
Bất sản hoặc tắc nghẽn
Lan tỏa
Giãn nở
Khu trú
Bất sản hoặc tắc nghẽn
Lan tỏa
Giãn nở
Khu trú
Bất sản hoặc tắc nghẽn
Lan tỏa
Giãn nở
Khu trú
Sâu
Lan tỏa
Nông
Khu trú
Động mạch và tĩnh mạch
Kết hợp/Hỗn hợp
không kèm thông nối
Lan tỏa
Mạch bạch huyết có hoặc
Khu trú
không có thông nối
Như vậy mỗi loại dị dạng mạch máu lại được phân chia tiếp thành 2 dạng là
dạng tại thân (truncular) và dạng ngoài thân (extratruncular), dựa trên các giai đoạn
phát triển về phôi thai học. Việc phân chia này giúp các nhà lâm sàng dự đoán được
bệnh cảnh lâm sàng, đáp ứng với điều trị và khả năng tái phát của từng dạng dị dạng
mạch máu.
.
.
Sơ đồ 1.1: Phân loại rò động - tĩnh mạch thận
Trong đó rò động - tĩnh mạch thận cũng được chia thành 2 dạng là rò động tĩnh mạch thận bẩm sinh dạng tại thân (truncular) và rò động - tĩnh mạch thận bẩm
sinh dạng ngoài thân (extratruncular). Trong đó rò động - tĩnh mạch thận dạng ngoài
thân được đặc trưng bởi cấu trúc “nidus”, rò động - tĩnh mạch thận bẩm sinh dạng
tại thân và rò động - tĩnh mạch thận mắc phải không có cấu trúc này [46].
Hình 1.2: Sơ đồ rò động mạch – tĩnh mạch bẩm sinh dạng ngoài thân với
dòng máu chảy từ động mạch qua cấu trúc “nidus” rồi đến tĩnh mạch
“Nguồn: Rutherford’s Vascular Surgery, 7th edition, 2010” [21]
.
.
Về cấu trúc “nidus”, đây là điểm đặc trưng của rò động - tĩnh mạch thận bẩm
sinh dạng ngoài thân và giúp phân biệt với dạng còn lại của rò động - tĩnh mạch
thận. Rò động - tĩnh mạch thận dạng ngoài thân có nhiều thông nối giữa các động
mạch và tĩnh mạch. Những đoạn thông nối này chính là tàn tích của các mạch máu
ngừng phát triển trong giai đoạn lưới (reticular stage) và được gọi là “nidus”. Hình
ảnh “nidus” thường có dạng các cuộn mạch, tạo thành một khối bên trong nhu mô
thận với các động mạch cấp máu phát sinh từ một hoặc nhiều nhánh động mạch
thận hoặc động mạch gian thùy thận.
1.3
SINH LÝ BỆNH RÒ ĐỘNG - TĨNH MẠCH THẬN
1.3.1 Ảnh hƣởng trên thận của rò động - tĩnh mạch thận
Rò động - tĩnh mạch thận với đặc trưng là luồng thông từ hệ thống động
mạch sang tĩnh mạch, từ đó gây ra các ảnh hưởng tại chỗ lên thận và toàn thân.
Rò động - tĩnh mạch thận với dòng máu chảy nhanh qua lỗ rò, gây giãn tĩnh
mạch thận và động mạch thận. Sự tiến triển của rò động - tĩnh mạch thận có thể gây
chèn ép mô xung quanh với biểu hiện trên hình ảnh học như là một khối bướu trong
thận. Tuy nhiên ảnh hưởng lên huyết động của cơ thể thường có vai trò quan trọng
hơn [21].
Khi rò động - tĩnh mạch thận vỡ, thường tại vị trí tĩnh mạch thoát lưu máu từ
lỗ rò, thì gây ra tiểu máu, ổ máu tụ trong thận hoặc đôi khi xuất huyết khoang sau
phúc mạc. Trong đó triệu chứng tiểu máu thường gặp ở rò động - tĩnh mạch thận
bẩm sinh dạng ngoài thân vì các đoạn mạch thông nối thường quanh co, giãn nở và
nằm ngay dưới lớp đệm của niệu mạc của hệ thống thu thập. Vì vị trí gần hệ thống
thu thập nên khi rò động - tĩnh mạch thận dạng này vỡ thường gây triệu chứng tiểu
máu [73][71].
Rò động - tĩnh mạch thận còn gây thiếu máu phần nhu mô thận được cấp
máu bởi động mạch chi phối cho rò. Tuy nhiên việc thiếu máu nhu mô thận này chỉ
khu trú ở một vùng trên một thận nên nhìn chung không gây suy thận trên bệnh
nhân rò động - tĩnh mạch thận. Tuy nhiên ảnh hưởng của suy tim và tăng huyết áp
.
.
về lâu dài có thể là nguyên nhân thúc đẩy suy thận dù rằng thận đối bên không có
bệnh lý.
1.3.2 Ảnh hƣởng toàn thân của rò động - tĩnh mạch thận
Ảnh hưởng lên toàn thân của rò động - tĩnh mạch thận phụ thuộc lưu lượng
của luồn thông từ động mạch qua tĩnh mạch, từ đó ảnh hưởng lên hệ mạch máu
cũng như huyết động toàn cơ thể. Triệu chứng suy tim cung lượng cao là hậu quả
trực tiếp của rò động - tĩnh mạch thận lên cơ thể. Ngoài ra việc thiếu máu của phần
nhu mô thận bị chi phối bởi động mạch của rò động mạch – tĩnh mạch làm kích hoạt
hệ thống renin-angiotensin-aldosteron, do đó bất kỳ loại rò động - tĩnh mạch thận
nào cũng có thể dẫn đến tăng huyết áp qua trung gian renin.
Chính vì sự thông nối động tĩnh mạch qua cấu trúc “nidus” nên rò động tĩnh mạch thận bẩm sinh dạng ngoài thân thường có lưu lượng máu qua rò thấp hơn
các dạng khác. Do vậy, rò động - tĩnh mạch thận dạng ngoài thân thường gây ra ảnh
huyết động thường ít hơn các dạng khác.
Rò động - tĩnh mạch thận bẩm sinh dạng tại thân thường ảnh hưởng nhiều
lên huyết động, từ đó ảnh hưởng mạnh mẽ lên hệ thống mạch máu. Sự thông nối
giữa động mạch và tĩnh mạch gây ra thiếu máu đến phần mô được cấp máu bởi
động mạch này và gây ra quá tải lên tĩnh mạch thoát lưu máu từ lỗ rò [44]. Sự tăng
lưu lượng máu về tim diễn tiến có thể gây ra suy tim. Dạng rò động - tĩnh mạch thận
này không có cấu trúc “nidus” và thường có một động mạch duy nhất cấp máu cho
đường rò duy nhất thông với một tĩnh mạch duy nhất [69].
Rò động - tĩnh mạch thận mắc phải là kết quả từ sự tổn thương do chấn
thương của mạch máu thận và thường chỉ có một động mạch cấp máu [35]. Một
đường rò giữa hệ thống động mạch và tĩnh mạch xuất hiện như là kết quả của chấn
thương. Ảnh hưởng lên huyết động của rò động - tĩnh mạch thận phụ thuộc vào vị
trí và kích thước lỗ rò [21].
.
.
1.4
CHẨN ĐOÁN RÒ ĐỘNG - TĨNH MẠCH THẬN
1.4.1 Lâm sàng:
Rò động - tĩnh mạch thận thường được chẩn đoán trong quá trình đánh giá
tiểu máu đại thể [28]. Triệu chứng này là dấu hiệu hoặc triệu chứng ban đầu trong
hầu hết bệnh nhân (khoảng 75%) có rò động - tĩnh mạch thận [33]. Tuy nhiên, trong
quá trình đánh giá các trường hợp tiểu máu vi thể không có triệu chứng, hiếm khi
một rò động - tĩnh mạch thận được tìm thấy và được xem là nguyên nhân của tiểu
máu.
Đau bụng có thể do các cục máu đông gây tắc nghẽn hệ thống thu thập hoặc
do xuất huyết trong thận gây căng giãn vỏ bao thận [24].
Một tỷ lệ đáng kể bệnh rò động - tĩnh mạch thận có tăng huyết áp. Một nửa
số bệnh nhân rò động - tĩnh mạch thận mắc phải và một phần tư của những bệnh
nhân rò động - tĩnh mạch thận bẩm sinh có huyết áp cao. Tăng huyết áp có từ trước,
bệnh lý chủ mô thận, sinh thiết vùng trung tâm thận và số mũi kim sinh thiết nhiều
được cho là yếu tố nguy cơ phát triển một lỗ rò sau một sinh thiết thận [49][50].
Ngược lại, tăng huyết áp phát triển sau khi sinh thiết có thể là do tăng tiết renin
được gây ra bởi giảm tưới máu tương đối ở đầu xa rò động - tĩnh mạch thận [49].
Tim to, suy tim hoặc cả hai có thể xuất hiện trong số các bệnh nhân được
đánh giá rò động - tĩnh mạch thận [24].
Hiếm khi, một bệnh nhân có biểu hiện hạ huyết áp gây ra bởi xuất huyết do
rò động - tĩnh mạch thận. Điều này đã được mô tả ở vài trường hợp, kể cả trong thời
kỳ mang thai.
Rò động - tĩnh mạch thận cũng được nhận thấy làm xấu đi chức năng thận ở
bệnh nhân bị bệnh thận mạn tính [77].
Tiền căn sinh thiết thận trước đó hoặc phẫu thuật thận qua da là một yếu tố
nguy cơ quan trọng cho sự phát triển của rò động - tĩnh mạch thận mắc phải [24].
Tiền căn chấn thương và vết thương thận, đặc biệt là vết thương xuyên thấu, cũng là
một yếu tố nguy cơ quan trọng cho việc phát triển rò động - tĩnh mạch thận.
.
.
Thăm khám có thể phát hiện dấu hiệu của âm thổi ở vùng hông. Một khối sờ
thấy được thường xuất hiện ở những bệnh nhân có khối bướu thận, bướu thận cũng
một trong những nguyên nhân của rò động - tĩnh mạch thận [24].
1.4.2 Cận lâm sàng
1.4.2.1Xét nghiệm sinh hóa:
Nhìn chung, việc các xét nghiệm cận lâm sàng được chỉ định tùy thuộc biểu
hiện lâm sàng của bệnh nhân.
Hemoglobin / hematocrit
Thiếu máu có thể góp phần vào mức độ nghiêm trọng của suy tim ở một số
bệnh nhân có rò động - tĩnh mạch thận.
Hơn nữa,sự xuất huyết đáng kể và sự bất ổn định huyết động học có liên
quan với rò động - tĩnh mạch thận. Trong những trường hợp này có chỉ định theo
dõi thường xuyên giá trị hemoglobin và hematocrit.
Xét nghiệm sinh hóa
Việc đánh giá chức năng thận dựa trên các giá trị creatinine huyết thanh được
chỉ định trước khi khảo sát bằng X quang có thuốc cản quang được thực hiện, đặc
biệt là trong các tình huống bệnh nhân có nguy cơ cao như trường hợp bệnh nhân
tiểu đường, những người trên 65 tuổi, những người suy thận đã được biết trước đó.
Chức năng thận cũng có thể ảnh hưởng đến sự chọn lựa và thời gian của các
can thiệp phẫu thuật. Phẫu thuật bảo tồn thận với cắt thận bán phần là một lựa chọn
điều trị quan trọng ở những bệnh nhân có suy thận từ trước. Ngoài ra, việc đánh giá
chẩn đoán có sự thay đổi ở những bệnh nhân suy thận. Cuối cùng, tắc nghẽn hệ niệu
có thể là kết quả của tiểu máu đại thể với cục máu đông. Can thiệp phẫu thuật (nếu
không cấp cứu hoặc cần thiết để làm giảm sự tắc nghẽn) sẽ được trì hoãn cho đến
khi đạt được sự phục hồi tối đa chức năng thận.
Các thông số đông máu
Bệnh rối loạn đông máu có thể chịu trách nhiệm để chảy máu cho thấy sự
hiện diện của một rò động - tĩnh mạch thận.
.
.
Rối loạn đông máu cần được điều chỉnh trước khi các can thiệp khác được
thực hiện.
Xét nghiệm renin máu tĩnh mạch thận: Một cách để kiểm tra huyết áp cao
do nguyên nhân mạch máu thận. Dưới hướng dẫn của chụp hình mạch máu đặt một
ống thông ở vùng bẹn vào tĩnh mạch đùi. Ống thông được đặt lên đến mức độ của
từng tĩnh mạch thận và một mẫu máu được lấy. Thông thường, cả hai quả thận tiết
ra cùng một lượng renin, một bệnh nhân bị tăng huyết do rò động - tĩnh mạch thận
sẽ tăng nồng độ renin ở phía bên của rò động - tĩnh mạch thận [74].
Tổng phân tích nƣớc tiểu và cấy nƣớc tiểu
Hiếm khi rò động - tĩnh mạch thận có thể được phát hiện trong quá trình
đánh giá của tiểu máu vi thể. Nhiễm trùng đường tiểu nên được loại trừ trước khi
tiến hành can thiệp.
1.4.2.2Chẩn đoán hình ảnh
Xét nghiệm chẩn đoán ban đầu của tiểu máu có thể gây tranh cãi vì không có
xét nghiệm đơn lẻ nào phát hiện tất cả các bệnh lý gây ra tiểu máu.
Siêu âm thận đã được ủng hộ như là một xét nghiệm ban đầu lý tưởng vì siêu
âm thận là phương tiện không xâm lấn, tương đối rẻ tiền và giúp phát hiện nhiều
loại tổn thương ở thận [57].
CT scan đang được ủng hộ ở một số trung tâm vì tốc độ ghi hình và sự chi
tiết của hình ảnh nhu mô thận. Với máy CT scan và phần mềm hiện đại, việc đánh
giá hệ thống thu thập cũng được cải thiện qua việc dựng hình hệ niệu dựa trên hình
ảnh CT scan của hệ niệu có bơm thuốc cản quang giai đoạn. Dựng hình ba chiều với
các phương tiện phù hợp có thể cung cấp thông tin về giải phẫu một cách chi tiết.
Vì vậy, các xét nghiệm ban đầu cho việc đánh giá triệu chứng tiểu máu phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cơ sở hạ tầng của bệnh viện, sự lựa chọn của bác sĩ
Tiết Niệu, bác sĩ Chẩn Đoán Hình Ảnh và bệnh cảnh lâm sàng của bệnh nhân.
X-Quang hệ niệu có cản quang:
Những lợi thế của xét nghiệm này bao gồm có hình ảnh chi tiết về giải phẫu,
đặc biệt là các hệ thống thu thập, và thông tin về tưới máu, chức năng, và bế tắc.
.
.
Những khuyết điểm bao gồm chi phí, tiếp xúc với bức xạ và chất cản quang,
và không nhạy đối với các tổn thương nhỏ. Trong nhiều trường hợp, UIV là một xét
nghiệm ban đầu hợp lý cho việc đánh giá tiểu máu đại thể. Tuy nhiên UIV không
cung cấp nhiều thông tin trong chẩn đoán rò động - tĩnh mạch thận [28].
Rò động - tĩnh mạch thận có một số đặc điểm trên hình ảnh UIV. Một tổn
thương dạng khối có thể được quan sát trên hình ảnh X Quang hệ niệu có cản
quang, đặc biệt là ở khu vực tủy thận, chèn ép hệ thống thu thập. Giảm tưới máu
đầu xa của rò động - tĩnh mạch thận có thể hiện diện, biểu hiện là hình ảnh khuyết
hình nêm hoặc một thùy không thấy được. Hình ảnh khuyết thuốc của hệ thống thu
thập cũng có thể thấy được. Rò động - tĩnh mạch thận có thể tạo ra hình ảnh chèn ép
bất thường lên hệ thống thu thập, và cục máu đông có thể lấp đầy và gây bế tắc một
đài thận hoặc bể thận. Tuy nhiên các dấu hiệu này không đặc hiệu và không phải lúc
nào cũng xuất hiện trong rò động - tĩnh mạch thận và kết quả UIV có thể bình
thường ở những bệnh nhân có rò động - tĩnh mạch thận.
Siêu âm Doppler
Gần đây, siêu âm đã được ủng hộ như là một phương tiện chẩn đoán không
xâm hại để phát hiện rò động - tĩnh mạch thận [24][54].
Hình 1.3: Phổ Doppler trên siêu âm cho thấy rò động - tĩnh mạch thận
“Nguồn: Carrafiello et al. Journal of Medical Case Reports 2011 5:510” [36]
.
.
Siêu âm nhạy trong việc phát hiện khối choán chỗ nhỏ ở thận và có thể giúp
phân biệt chính xác khối dạng nang hay đặc. Tuy nhiên, siêu âm thận ít chính xác để
xác định các tổn thương của hệ thống thu thập và chỉ cung cấp thông tin gián tiếp về
chức năng thận.
Doppler nhạy cảm trong việc phát hiện các tổn thương mạch máu [57]. Một
số trường hợp đã được báo cáo trong đó tổn thương dạng khối choán chỗ được xác
định chính xác là một rò động - tĩnh mạch thận bởi việc sử dụng siêu âm Doppler
màu. Các tổn thương được xác định là rò động - tĩnh mạch thận dựa trên lưu lượng
máu chảy mạnh mẽ trong một khối dạng nang [54].
Chụp cắt lớp điện toán
CT scan thường là bước tiếp theo trong việc đánh giá các tổn thương thận
được phát hiện bằng siêu âm Doppler hoặc UIV. Chụp CT scan có tiêm thuốc cản
quang có thể giúp xác định các tổn thương tăng bắt thuốc cản quang của thận,
thường nằm gần trung tâm hệ thống thu thập.
Hình 1.4: Hình ảnh chụp cắt lớp điện toán có cản quang của rò động – tĩnh mạch
thận. Cho thấy động mạch uốn khúc với một nhánh nhỏ dạng xoắn ốc, đầu mũi tên
cho thấy thuốc cản quang xuất hiện sớm trong tĩnh mạch thận ở thì động mạch, mũi
tên chỉ động mạch thận, dấu hoa thị chỉ chỗ rò động - tĩnh mạch thận.
“Nguồn: Carrafiello et al. Journal of Medical Case Reports 2011 5:510” [36]
.
.
Dấu hiệu điển hình bao gồm lấp đầy thuốc cản quang sớm ở tĩnh mạch thận
và tĩnh mạch chủ, giãn tĩnh mạch thận và đôi khi giãn động mạch thận cấp máu
[39]. Tăng cường bắt thuốc cản quang trong giai đoạn vỏ thận có thể hữu ích, đặc
biệt là nếu khối này nằm trong tủy thận, bình thường kém bắt thuốc trong giai đoạn
này.
Với máy quét CT xoắn ốc hiện đại và truyền nhanh chất cản quang, thông tin
chi tiết về giải phẫu và chức năng có thể được thu được và có thể dẫn đến chẩn đoán
chính xác rò động - tĩnh mạch thận.
CT hệ niệu đã thay thế UIV trong một số trung tâm cho việc đánh giá ban
đầu của tiểu máu. Với trang thiết bị thích hợp, CT hệ niệu, chụp động mạch, hoặc cả
hai có thể cung cấp thông tin về chức năng thận, cũng như mô tả chi tiết về giải
phẫu học, bao gồm các hệ thống mạch máu và thu thập. Như vậy, CT chụp động
mạch đã thay thế chụp mạch máu truyền thống cho nhiều chỉ định, bao gồm cả đánh
giá người hiến thận sống và lập kế hoạch trước phẫu thuật cắt thận bán phần phức
tạp.
Cộng hƣởng từ mạch máu
Cộng hưởng từ mạch máu là một công nghệ đầy hứa hẹn cho việc đánh giá
khối choán chỗ ở thận.
Cộng hưởng từ mạch máu là đặc biệt hữu ích trong những bệnh nhân không
thể dung nạp chất cản quang có iot. Một số báo cáo đã xác nhận tính hữu ích trong
chẩn đoán của cộng hưởng từ mạch máu trong việc chẩn đoán rò động - tĩnh mạch
thận [24].
Chụp mạch máu xóa nền kĩ thuật số (DSA)
Chụp mạch máu xóa nền kĩ thuật số (DSA) vẫn là tiêu chuẩn vàng trong chẩn
đoán rò động - tĩnh mạch thận [14][24]. Ngoài ra, chụp động mạch còn kết hợp với
phương pháp điều trị là thuyên tắc mạch qua catheter.
.