.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐỖ TRỌNG NGUYỄN
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THEO DÕI ĐỘ SÂU GÂY MÊ BẰNG
ENTROPY TRONG GÂY MÊ
PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT ĐẠI – TRỰC TRÀNG
Chuyên ngành: GÂY MÊ HỒI SỨC
Mã số: CK 62 72 33 01
LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP II
Hƣớng dẫn khoa học: TS.BS. PHAN TÔN NGỌC VŨ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019
.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu kết quả trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất cứ
công trình nào khác.
Tác giả
Đỗ Trọng Nguyễn
.
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT, THUẬT NGỮ ANH - VIỆT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ........................................................................... 3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................ 4
1.1. Theo dõi độ mê bằng điện não số hóa ................................................. 4
1.2.
Nồng độ phế nang tối thiểu ............................................................... 13
1.3.
Sevoflurane ........................................................................................ 16
1.4.
Sự thay đổi sinh lý trong phẫu thuật nội soi ổ bụng .......................... 17
1.5.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đo độ mê trong GMHS bằng
Entropy......................................................................................................... 20
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA
HỌC ................................................................................................................ 24
2.1.
Đối tượng nghiên cứu ........................................................................ 24
2.2.
Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 25
2.3.
Xử lý số liệu và phân tích số liệu ...................................................... 39
2.4.
Đạo đức trong nghiên cứu ................................................................. 40
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 41
3.1.
Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu ở 2 nhóm ....................................... 41
3.2.
So sánh thời gian gây mê, thời gian phẫu thuật ................................ 43
3.3.
Các thuốc dùng trong gây mê. ........................................................... 43
3.4.
Sự thay đổi EtCO2 trong quá trình nghiên cứu giữa 2 nhóm ............ 44
3.5.
So sánh giá trị trung bình của Etsevoflurane giữa 2 nhóm ...................... 45
3.6.
Sự thay đổi MAC trong quá trình nghiên cứu giữa 2 nhóm ............ 46
.
3.7.
Sự thay đổi RE trong quá trình nghiên cứu giữa 2 nhóm ................. 48
3.8.
Sự thay đổi SE trong quá trình nghiên cứu giữa 2 nhóm .................. 49
3.9.
Tương quan Entropy MAC sevoflurane ............................................ 50
3.10. So sánh tiêu thụ thuốc mê giữa 2 nhóm ............................................ 51
3.11. So sánh thời gian thoát mê, thời gian rút nội khí quản ở 2 nhóm: .... 52
3.12. Thay đổi tần số tim tại các thời điểm nghiên cứu: ............................ 53
3.13. Sự thay đổi huyết áp trong quá trình nghiên cứu giữa 2 nhóm ......... 55
3.14. So sánh thay đổi mạch, huyết áp trong thời gian gây mê ở 2 nhóm . 56
Chƣơng 4. BÀN LUẬN ................................................................................. 57
4.1.
Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu ở 2 nhóm ....................................... 57
4.2.
Thời gian gây mê, thời gian phẫu thuật ............................................. 59
4.3.
Giá trị trung bình EtCO2 trong quá trình nghiên cứu giữa 2 nhóm ... 60
4.4.
So sánh giá trị trung bình MAC ở 2 nhóm: ....................................... 61
4.5.
Sự thay đổi RE, SE trong quá trình nghiên cứu giữa 2 nhóm: .......... 63
4.6.
So sánh giá trị trung bình Etsevoflurane ở 2 nhóm: ................................ 64
4.7.
Tương quan Entropy với MAC sevoflurane ..................................... 65
4.8.
So sánh tiêu thụ thuốc mê Sevoflurane ở 2 nhóm: ............................ 66
4.9.
So sánh thời gian thoát mê, thời gian rút NKQ ở 2 nhóm: ............... 71
4.10. So sánh thay đổi tần số tim, HATB ở 2 nhóm .................................. 73
4.11. Các tác dụng phụ ở 2 nhóm: .............................................................. 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
KIẾN NGHỊ ................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT, THUẬT NGỮ ANH - VIỆT
Tiếng Việt
BN
Bệnh nhân
Cs
Cộng sự
HA
Huyết áp
GMHS
Gây mê hồi sức
HATB
Huyết áp trung bình
kg
kilogram
mcg
microgram
ml
mililit
M
Mạch
NKQ
Nội khí quản
TTM
Tiêm tĩnh mạch
TB ± ĐLC
Trung bình ± Độ lệch chuẩn
Tiếng Anh
ASA
Hiệp Hội Gây Mê Hoa Kỳ
American Society of Anesthesiologists
BMI
Chỉ số khối cơ thể
Body Mass Index
BIS
Chỉ số lưỡng phổ
Bispectral Index
Ce
Nồng độ đích tại não
Effect Site Concentration
COPD
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính
Chronic obstructive pulmonary disease
.
CO2
Khí Các-bo-níc
ECG
Điện tâm đồ
Electro – Cardiogram
EEG
Điện não
Electro-encephalogram
EMG
Điện cơ
Electro-Myogram
FEMG
Điện cơ vùng mặt
Face Electro-Myogram
ED50
Liều hiệu dụng trung bình
Effective dose
EtCO2
CO2 cuối thì thở ra
End-tidal Carbon dioxide
Et(sevoflurane)
Sevoflurane cuối thì thở ra
FiO2
Phân suất ôxy trong khí thở vào
Fractional inspired oxygen
GABAA
Gamma aminobutyric acid loại A
Hợp chất A
fluromethyl-2, difluromethyl-1 và triflyuromethyl
JNC
Ủy ban liên hợp quốc gia
Joint National Committee
MAC
Nồng độ phế nang tối thiểu của thuốc mê
Minimum Alveolar Concentration
MAC-awake
(MAC- thức tỉnh): cho phép mở mắt khi ra lệnh trong khi
thoát mê.
MAC-incision
(MAC- rạch da): ngăn cản cử động trong lần rạch
da đầu tiên
.
MAC-intubation (MAC-đặt NKQ): ức chế cử động và ho trong khi đặt NKQ.
MAC-bar
(MAC-loại trừ phản ứng tăng tiết catecholamine do đau):
Ức chế giao cảm do đau.
MOAS/S
Thang điểm đánh giá mức độ an thần dựa trên quan sát
Modified Observer’s Assessment of Alertness Sedation
N2O
Khí Nitrous Oxide
PRST
Huyết áp tâm thu, tần số tim, mồ hôi, nước mắt
P: blood Pressure, R: heart Rate, S: Sweating, T: Tear
RE
Entropy đáp ứng
Respond Entropy
SE
Entropy trạng thái
State Entropy
SPO2
Độ bão hòa ôxy mạch nẩy hay độ bão hòa
ôxy máu mao mạch
Oxygen saturation measured by pulse oxymetry
TOF
Chuỗi bốn đáp ứng
Train of Four
Vt
Thể tích khí thường lưu
Tidal volume
.
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1 Vị trí tác động của thuốc mê lên hệ thần kinh trung ương ................ 6
Bảng 1.2 Giá trị sử dụng Entropy trong lâm sàng .......................................... 12
Bảng 1.3 Tần số và phạm vi hiển thị cho các tham số Entropy ...................... 12
Bảng 1.4 Giá trị MAC của thuốc mê hô hấp................................................... 14
Bảng 2.1 Bảng điểm PRST ............................................................................. 31
Bảng 2.2 Phân độ tăng huyết áp theo JNC 7(Joint National Committee 7) ... 32
Bảng 2.3 Xử lý huyết áp theo Gurman ........................................................... 32
Bảng 2.4 Thang điểm MOAS/S (Modified Observer’s Assessment of
Alertness Sedation). ........................................................................................ 33
Bảng 3.1 Đặc điểm bệnh nhân ........................................................................ 41
Bảng 3.2 Phân bố theo ASA, giới tính ............................................................ 42
Bảng 3.3 Bệnh lý nội khoa kèm theo .............................................................. 42
Bảng 3.4 So sánh thời gian gây mê, thời gian phẫu thuật .............................. 43
Bảng 3.5 Các thuốc dùng trong gây mê .......................................................... 43
Bảng 3.6 Thay đổi EtCO2 trong quá trình nghiên cứu giữa 2 nhóm .............. 44
Bảng 3.7 Etsevoflurane các thời điểm ở 2 nhóm .................................................. 45
Bảng 3.8 Nồng độ thuốc tối thiểu trong phế nang (MAC) các thời điểm ở 2
nhóm ................................................................................................................ 46
Bảng 3.9 Entropy đáp ứng (RE) các thời điểm ở 2 nhóm............................... 48
Bảng 3.10 Entropy trạng thái (SE) các thời điểm ở 2 nhóm ........................... 49
Bảng 3.11 So sánh lượng thuốc sử dụng khi gây mê ở 2 nhóm ..................... 51
Bảng 3.12 Thời gian thoát mê và rút NKQ ở 2 nhóm..................................... 52
Bảng 3.13 So sánh nhịp tim giữa 2 nhóm ...................................................... 53
Bảng 3.14 HATB giữa 2 nhóm ....................................................................... 55
Bảng 3.15 Thay đổi mạch, HA trong thời gian gây mê: ................................. 56
Bảng 3.16 Các thuốc tim mạch sử dụng: ........................................................ 56
.
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1 Vị trí gắn điện cực Entropy và module Entropy........................... 11
Hình 1.2 Đường biểu diễn MAC của Halothane ......................................... 15
Hình 2.1 Vị trí gắn điện cực theo dõi giãn cơ ............................................. 34
Hình 2.2 Các thông số được hiển thị trên màn hình theo dõi ...................... 35
Hình 3.1 Etsevoflurane các thời điểm ở 2 nhóm ................................................ 45
Hình 3.2 MAC tại các thời điểm ở 2 nhóm ................................................. 47
Hình 3.3 Tương quan MAC sevoflurane với Entropy đáp ứng (RE) .......... 50
Hình 3.4 Tương quan MAC sevoflurane với Entropy trạng thái (SE) ........ 50
Hình 3.5 Lượng thuốc sevoflurane trung bình (ml/giờ) trong quá trình duy
trì mê ở 2 nhóm ........................................................................................... 52
Hình 3.6 Thay đổi tần số tim tại các thời điểm nghiên cứu của 2 nhóm
nghiên cứu .................................................................................................... 54
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ nghiên cứu của hai nhóm.................................................. 27
.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đánh giá độ mê trên lâm sàng chủ yếu dựa vào các dấu hiệu mạch,
huyết áp và các cử động bất thường của bệnh nhân để bổ sung thuốc mê thuốc
giảm đau [26]. Khi gây mê có sử dụng thuốc giãn cơ, hoặc bệnh nhân trong
tình trạng huyết động không ổn định, thiếu máu, sốc chấn thương thì rất khó
đánh giá độ mê [37]. Do vậy một số trường hợp gây mê quá sâu để lại các
biến chứng trầm trọng cho bệnh nhân [17],[38]. Một số trường hợp gây mê
không đủ sâu để lại các sang chấn nặng nề về tinh thần [36].
Hiện nay, một số dấu hiệu khách quan được áp dụng để đánh giá độ mê
dựa vào tăng liều thuốc mê thì độ mê tăng(dose-response): Với thuốc mê bay
hơi thì nồng độ thuốc tối thiểu trong phế nang (MAC) được cho là cân bằng
với nồng độ trong não [30],[29], với thuốc mê tĩnh mạch thì nồng độ thuốc tại
não (Ce) được tính toán cho phép đánh giá độ mê và tiên lượng được thời
gian thức tỉnh của BN [24],[29]. Tuy nhiên trên cùng một MAC, thì mỗi BN
lại có một đáp ứng lâm sàng khác nhau. Kết hợp thuốc mê với thuốc giảm đau
nhóm á phiện đã làm giảm MAC một cách đáng kể tùy thuộc nồng độ loại á
phiện và mức kích thích đau [6],[47].
Trên thế giới, theo dõi độ sâu gây mê đánh giá độ mê dựa trên hoạt
động điện của vỏ não như chỉ số lưỡng phổ (BIS) hoặc dựa trên sự phân tích
mức độ thay đổi của điện não đồ phối hợp với điện cơ vùng mặt như chỉ số
ENTROPY (RE, SE) là những bằng chứng khách quan đã được khuyến cáo
[63].
Entropy là sự biến đổi hoạt động điện của các cơ vùng mặt và điện vỏ
não ở tần số cao khi tỉnh (RE: Respond entropy) và hoạt động điện vỏ não khi
.
mê (SE : State entropy). Entropy đồng thời cho ra 2 chỉ số là RE và SE nên
được coi là phương tiện đánh giá độ mê nhạy hơn và chính xác hơn BIS (chỉ
có 1 chỉ số) để phát hiện sớm sự thức tỉnh trong gây mê và hình ảnh điện não
ức chế - sóng bùng ( burst – suppression) trước khi mất hoạt động điện vỏ não
[46],[68],[71].
Đánh giá độ mê dựa vào máy theo dõi điện não đã chứng minh được
giảm nguy cơ thức tỉnh khoảng 82% [31]. Theo dõi Entropy trong gây mê
giảm tiêu thụ propofol và sevoflurane đáng kể (tương ứng 9% và 27%), rút
nội khí quản sớm, thời gian rời phòng hồi tỉnh sớm hơn [16],[32],[67].
Tại Việt Nam phương pháp đánh giá độ mê bằng Entropy đã được áp
dụng trong phẫu thuật nhưng chưa có nghiên cứu ở phẫu thuật nội soi cắt đại,
trực tràng. Do đó chúng tôi thiết kế nghiên cứu này với câu hỏi “Theo dõi độ
sâu gây mê bằng Entropy có giúp giảm sevoflurane tiêu thụ, có giúp ổn định
mạch, huyết áp, giảm thời gian thoát mê, thời gian rút NKQ hơn không so với
nhóm không Entropy trên bệnh nhân phẫu thuật nội soi cắt đại – trực tràng”?
Chúng tôi giả thuyết rằng nhóm theo dõi độ mê bằng Entropy có lượng
sevoflurane tiêu thụ thấp hơn, thời gian thoát mê, thời gian rút nội khí quản,
thời gian rời phòng hồi tỉnh ngắn hơn của nhóm không theo dõi bằng Entropy.
.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. So sánh lượng sevoflurane tiêu thụ trung bình trong mổ giữa nhóm
theo dõi độ mê bằng Entropy và nhóm chứng.
2. So sánh thời gian thoát mê, thời gian rút NKQ giữa hai nhóm.
3. So sánh thay đổi mạch, huyết áp trong quá trình gây mê ở 2 nhóm.
.
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Theo dõi độ mê bằng điện não số hóa
Để đạt được độ mê phù hợp với các kích thích phẫu thuật và tình trạng
lâm sàng của bệnh nhân luôn là điều mong muốn của các nhà gây mê. Mê
nhanh, tỉnh nhanh, tránh được sự thức tỉnh trong khi phẫu thuật cũng như quá
liều thuốc mê làm ảnh hưởng đến các chức năng sống như tuần hoàn, hô hấp,
thận, thần kinh thì không đơn giản. Trải qua nhiều thập kỷ, đã có nhiều
phương pháp được sử dụng để đánh giá độ mê. Năm 1847, Plomley là người
đầu tiên xác định độ mê gồm 3 giai đoạn: ngộ độc, kích thích và mức mê sâu
hơn. Cùng năm đó John Snow đã mô tả 5 mức độ khi gây mê bằng ether, 3
mức độ đầu tiên là giai đoạn khởi mê, 2 mức độ tiếp theo là giai đoạn gây mê
để mổ [26],[42],[65].
Năm 1937, Guedel đã xác định có 4 giai đoạn mê dựa trên các dấu hiệu
trương lực cơ, các thông số về hô hấp và các dấu hiệu về nhãn cầu [75], sau
đó Artusio đã mở rộng giai đoạn 1 thành 3 mức, ở mức 3 bệnh nhân hoàn toàn
không đau và quên hết các sự kiện trong mổ. Năm 1957, Woodbridge định
nghĩa gây mê gồm có 4 phần là ức chế cảm giác, ức chế vận động, ức chế các
phản xạ tự động và mất tri giác [26].
Năm 1984, Evans [35] dựa vào 4 triệu chứng quan sát được trên lâm
sàng là huyết áp tâm thu (systolic blood Pressure), tần số tim (heart Rate), vã
mồ hôi (Sweating) và chảy nước mắt (Tears) để đưa ra thang điểm PRST đễ
xác định độ mê. Mỗi triệu chứng quan sát được tác giả cho tối đa 2 điểm, nếu
tổng điểm PRST ≥ 3 điểm được coi là tỉnh và cần phải bổ sung thuốc mê. Tuy
nhiên thang điểm PRST không tin cậy để đánh giá độ mê lâm sàng vì huyết áp
và tần số tim bị ảnh hưởng khi mất máu, ưu thán hoặc sử dụng các thuốc
catecholamine.
.
Độ sâu của mê được xác định bằng sự ức chế thần kinh trung ương liên
tục và làm giảm đáp ứng đối với các kích thích [26],[49],[25]. Các kích thích
được chia làm 2 loại là kích thích lành tính và kích thích có hại (đau mạnh).
Kích thích lành tính (được gọi là tác động nhẹ) có thể chỉ được ức chế bằng
thuốc mê đơn thuần hoặc một liều nhỏ thuốc giảm đau. Kích thích đau mạnh
như soi thanh môn, đặt NKQ, rạch da…cần được ức chế bằng thuốc giảm đau
mạnh.
Các loại thuốc á phiện có xu hướng loại bỏ phản ứng huyết động trước
khi loại bỏ cử động, trong khi đó thuốc mê có xu hướng loại bỏ phản ứng cử
động trước khi loại bỏ phản ứng về huyết động. Bởi vậy để ức chế các phản
ứng về huyết động như tăng huyết áp, mạch nhanh đòi hỏi phải gây mê sâu
hơn với liều thuốc lớn hơn.
Năm 1988, Glass đề xuất rằng tri giác có thể được cảm nhận như là một
sự cân bằng trong vỏ não giữa sự ức chế và hung phấn. Mất tri giác (mê) là do
vỏ não bị ức chế bởi thuốc mê. Các thuốc họ á phiện và N2O cũng có tính chất
an thần do ức chế vỏ não, nhưng chủ yếu tác dụng lên vùng đồi thị và não
giữa [21], là nơi kích thích của các luồng xung động đau đi qua và truyền vào
vỏ não, còn thuốc tê thì tác động lên tủy sống làm giảm sự dẫn truyền cảm
giác đau đến vỏ não, từ đó làm giảm lượng thuốc mê cần để đạt được tình
trạng mất tri giá [63]
Các thuốc mê tác dụng lên hệ thần kinh trung ương thông qua các thụ thể
dẫn truyền thần kinh như gamma aminobutyric acid loại A (GABAA), glycin,
glutamate, serotonin, nicotinic acetylcholine, các kênh K+, Na+, Ca++ làm ảnh
hưởng đến hoạt tính các kênh kết hợp thần kinh (synap) mang tính ức chế gây
nên trạng thái hôn mê có hồi phục hay nói cách khác là gây mê được thể hiện
trên bảng 1.1[70]
.
Bảng 1.1 Vị trí tác động của thuốc mê lên hệ thần kinh trung ƣơng[2]
Kênh ion
Hành vi bị ảnh
Hoạt tính đối với
hưởng
các kênh ion
Các kênh ion ức Thụ thể GABAA
Gia
tăng
hoạt Cải thiện
chế hậu synap
tính gây giải lo
âu, an thần quên,
giản cơ, chống
co giật
Thụ thể Glycine
Ức chế các thụ Cải thiện
thể phản xạ tủy
sống
Các
kênh
ion Thụ thể nicotinic Trí nhớ, các chức Ức chế
kích thích synap
acetylcholine
năng tự động
Thụ thể serotonin Thức tỉnh, nôn
Ức chế( yếu)
type 3
Thụ thể glutamate
Trí
nhớ,
nhận Ức chế
thức, tri giác
Các kênh khác
Kênh K+ điện thế Dẫn truyền thần Ức
hoạt động
chế
kinh, hoạt động không
của tim
hoặc
có
tác
dụng gì
Kênh Na+ điện thế Dẫn truyền thần Ức chế( yếu)
hoạt động
kinh, hoạt động
của tim
Kênh Ca++ điện thế Co
hoạt động
thắt
tim, Ức chế( yếu)
trương lực mạch
máu
Hầu hết tế bào thần kinh đều có thụ thể GABAA và có một quan điểm
đang bàn cãi rằng tác dụng chính để gây nên tình trạng mất tri giác là nằm ở
.
ức chế vỏ não, ở hệ thống đồi thị hoặc là ở sự tương tác giữa đồi thị và vỏ não
[68],[41].
Một trong các tác dụng chính của thuốc mê toàn thân là ức chế tri giác
cũng có nghĩa là làm cho bệnh nhân không tỉnh. Biện pháp thích hợp nhất để
phòng người bệnh tỉnh trong mổ và chỉ dẫn cho việc sử dụng liều lượng thuốc
mê là phải theo dõi hoạt động điện não (EEG) bằng cách đo điện thế ức chế
và kích thích sau synap của các tế bào thần kinh sọ não. Các điện thế sau
synap này tập trung ở vỏ não và truyền tới vùng trán mặt ngoài hộp sọ. Ngoài
các điện thế sau synap, các dòng điện ở trong tế bào cũng tạo nên sự hoạt hóa
các kênh ion và đóng góp vào hoạt động của điện não.
Thông thường việc đo điện não được tiến hành nhờ sự chênh lệch điện
thế theo thời gian giữa 2 điện cực được gắn vào trán – thái dương và nó được
so sánh với một điện cực thứ 3. Các sóng điện não được tính toán và số hoá
thành các con số tự nhiên từ 0 đến 100, trong đó các giá trị thấp chứng tỏ độ
mê sâu và các giá trị cao chứng tỏ bệnh nhân tỉnh. Máy theo dõi độ mê phải
có khả năng sử dụng thông tin của vỏ não từ các tín hiệu điện não và thông tin
dưới vỏ não từ các tín hiệu điện cơ của mặt và phân tích thành 2 loại thông tin
này trong máy để có thể giúp phát hiện nhanh hơn các trường hợp bệnh nhân
tỉnh lại, đồng thời phải phát hiện được hình ảnh điện não ức chế - sóng bùng
trong gây mê [19],[49].
Có nhiều loại máy theo dõi độ mê đã được sử dụng như chỉ số lưỡng
phổ ( Bispectral Index: BIS) của Mỹ. Tuy nhiên những người phát minh ra
BIS vẫn chưa biết rõ cơ chế gây mê nên họ tuyên bố rằng: “Bất kỳ phương
tiện nào về điện não để đánh giá độ mê đủ sâu cũng phải tương ứng với việc
bệnh nhân không còn cử động khi rạch da”. Mất vài năm sau đó các nhà phát
minh này mới nhận ra rằng cử động khi rạch da chính là phản xạ của tủy sống
.
do vậy không thể dùng dấu hiệu đó để tiên lượng hoạt động điện của vỏ não
[46].
Theo sau BIS còn có các máy theo dõi độ mê như NacotrendR của Đức
[45], máy theo dõi Entropy (S/5 entropy module) của Mỹ [71].
1.1.1. Hình ảnh điện não ức chế - sóng bùng
Hình ảnh điện não ức chế - sóng bùng là hình ảnh của điện não đồ
trước lúc đẳng điện, là kiểu biến đổi điện não có thể gây ra bởi một liều lượng
lớn các thuốc mê đã sử dụng.
Trong hình ảnh ức chế - sóng bùng, điện não được đặt trưng bởi các
giai đoạn ức chế xảy ra ngay lập tức. Khi gây mê sâu, thời gian ức chế điện
não bắt đầu kéo dài và trong hình ảnh ức chế - sóng bùng chỉ số Entropy < 20.
Theo sau hình ảnh ức chế - sóng bùng là hình ảnh hoạt động chuyển hóa của
não giảm đi tối đa, kết hợp với hạ thân nhiệt hoặc thiếu máu não, có thể dẫn
đến mất hoạt động điện não. Nên việc nhận biết hình ảnh ức chế - sóng bùng
phải là một phần không thể thiếu của tất cả các máy theo dõi độ mê.
1.1.2. Hoạt động điện cơ vùng mặt
Hoạt động điện cơ vùng mặt (EMG) nằm ở tần số 0 - 200Hz [14], trong
khi đại đa số tín hiệu điện não nằm trong khoảng tần số từ 0-70Hz. Biên độ
EMG lớn nhất nằm ở gần vùng trán trong khoảng 23 -30Hz, và ở vùng thái
dương từ 40- 80Hz. Hoạt động điện cơ ở mặt tăng và giảm đi đồng hướng. Cả
hoạt động điện cơ vùng trán và thái dương đều có sự biến đổi rất khác nhau
giữa các cá thể. Vì điện cơ mặt có dãy tần số bao trùm che lấp các tín hiệu
điện não nên đó là nguồn gốc gây nhiễu đáng kể đối với các máy theo dõi độ
mê.
.
Mặt khác, theo dõi điên cơ có thể dùng để theo dõi việc gây mê đủ sâu.
Trong quá trình mổ, hoạt động điện cơ mặt tăng cho biết đáp ứng của bệnh
nhân tăng lên và có thể gắn với việc bệnh nhân tỉnh lại bởi vì các cơ mặt được
chi phối bởi các sợi dẫn truyền tự động từ vỏ não và các đường dẫn truyền
cảm giác từ thân não. Lưu ý các cơ vùng mặt có sức đề kháng cao hơn với các
thuốc giãn cơ so với các cơ ở ngón tay vẫn thường được theo dõi dẫn truyền
thần kinh cơ, nên các cơ ở mặt không có giá trị tiên lượng giãn cơ tồn dư.
1.1.3. Theo dõi độ mê bằng chỉ số lƣỡng phổ ( Bispectral Index)
Chỉ số lưỡng phổ là một thông số phức hợp được tính toán dựa trên sự
kết hợp theo thời gian, tần số và quang phổ của điện não đồ và được số hóa
thành các con số tự nhiên từ 100 đến 0 [12],[62]. BIS có tương quan tốt với
tình trạng an thần và mê nhưng không áp dụng với tất cả thuốc mê hay thuốc
an thần. BIS cho phép dự đoán về mức độ tri giác khi sử dụng các thuốc mê
propofol, isoflurane, sevoflurane [39],[48].
Sau khi sử dụng thuốc mê, chỉ số BIS giảm dần từ 100 ( tỉnh táo) xuống
và mất tri giác có xu hướng xảy ra khi giá trị BIS từ 80 - 70. Giai đoạn duy trì
mê nên giữ BIS 60 - 40 là đủ sâu và giúp hồi tỉnh nhanh sau khi thoát mê.
Giá trị BIS < 40 biểu hiện mê sâu, BIS < 20 là mê quá sâu, đó là biểu hiện của
biến đổi của hình ảnh điện não ức chế - sóng bùng. BIS = 0 biểu hiện không
có hoạt động điện não [64].
Các nghiên cứu ngẫu nhiên, có kiểm soát chứng tỏ tác động của gây mê
dưới sự hướng dẫn của BIS lên kết quả của bệnh nhân được so sánh với thực
hành lâm sàng chuẩn cho thấy chỉ số BIS có liên quan đáp ứng về huyết động
đối với đặt nội khí quản, đáp ứng của bệnh nhân với rạch da và đáp ứng với
lời nói trong gây mê bốc hơi cũng như gây mê tĩnh mạch.
0.
Điều chỉnh liều thuốc gây mê chủ yếu để duy trì giá trị của BIS trong
phạm vi đích (giá trị BIS từ 40 – 60 trong giai đoạn duy trì mê), làm giảm liều
thuốc mê trong giai đoạn thoát mê và hồi tỉnh sẽ làm giảm chi phí sử dụng
thuốc mê, giảm thời gian nằm hồi tỉnh, giảm sự rối loạn huyết động cũng như
tỉnh và nhớ lại trong khi mổ và là công cụ tốt để chuẩn liều thuốc mê trong
phẫu thuật có nguy cơ cao, bệnh nhân lớn tuổi, trẻ em [48],[68].
BIS rất hữu ích nhưng có một vài nhược điểm: BIS biểu hiện chức năng
của vỏ não mà không phản ánh trực tiếp của cấu trúc dưới vỏ bao gồm tủy
sống ( các phản ứng vận động gián tiếp chủ yếu đối với kích thích đau) nên
BIS không đáng tin cậy cho dự đoán đáp ứng với kích thích đau [46].
Một vài tình huống lâm sàng có thể ảnh hưởng đến độ chính xác của
BIS như ảnh hưởng điện từ các cơ vùng trán (EMG), nhiễu do điện và cơ học
từ các thiết bị y tế, tình trạng bất thường của điện não đồ (EEG) và một số
thuốc như ketamine, N2O dẫn đến giá trị của BIS cao [61].
1.1.4. Theo dõi độ mê bằng Entropy
Entropy là một sản phẩm, một phương tiện theo dõi độ mê mới đưa vào
Việt Nam. Nguyên tắc hoạt động dựa trên sự phân tích mức độ thay đổi của
điện não đồ (EEG) phối hợp với điện cơ vùng mặt (FEMG) và được chuyển
thành một trị số thông qua thuật toán ENTROPY [19],[71]. Giá trị này biểu
hiện trực tiếp hoạt động của vỏ não, giúp người thầy thuốc đánh giá độ sâu
của bệnh nhân gây mê một cách khách quan. Entropy là sự biến đổi hoạt động
điện của các cơ vùng mặt và điện vỏ não hoạt động ở tần số cao khi tỉnh (RE:
Respond Entropy hay Entropy đáp ứng) và hoạt động điện vỏ não ở tần số
thấp khi mê (SE: State Entropy hay Entropy trạng thái).
Entropy sử dụng 3 điện cực dán vào vùng trán đến thái dương để theo
dõi điện não và điện cơ. Khi gây mê, các sóng điện não sẽ chuyển sang
1.
dạng nhịp chậm SE (0,8 – 32 Hz) và khi BN tỉnh sẽ xuất hiện các sóng điện
não có tần số cao RE (32 – 47 Hz) và sóng hoạt động của các cơ vùng mặt.
Cách gắn điện cực đo Entropy: 3 miếng điện cực được dán ở vùng trán và thái
dương, nối liền với một dây cáp gắn vào module ENTROPY trên monitor, trị
số RE và SE sẽ hiện lên màn hình ở dạng số và đồ thị dạng sóng.
Hình 1.1 Vị trí gắn điện cực Entropy và module Entropy [27]
Entropy đồng thời cho ra hai chỉ số là RE và SE nên được coi là
phương tiện đánh giá độ mê nhạy hơn và chính xác hơn BIS (một chỉ số) để
phát hiện sớm sự thức tỉnh trong khi gây mê và hình ảnh điện não ức chế sóng
bùng (Burst – Supression) trước khi mất hoạt động điện vỏ não [22],[69],.
Entropy có hai thang điểm: RE và SE. RE (Response Entropy) là chỉ số hoạt
động của các cơ vùng mặt, có giá trị: 0 – 100, SE ( State Entropy) là chỉ số
hoạt động của vỏ não, có giá trị : 0 – 91. Giá trị ENTROPY khi tỉnh: 100-85,
an thần: 84-65, khi gây mê đủ sâu: 64-40 và mê sâu mất hoàn toàn điện não:
ENTROPY=0. ENTROPY được giữ trong giai đoạn duy trì mê từ 40-60 [14].
Hiệu số RE - SE được coi là một phép đo của cân bằng giữa hoạt động
điện não và điện cơ vùng mặt, hiệu số RE - SE ≤ 3 khi mê đủ sâu, hiệu số
RE - SE tăng lên trong mổ gợi ý có khả năng thuốc mê chưa đủ liều hoặc
BN đang tỉnh lại [9],[11],[62] . Trên lâm sàng có thể gặp một số tình huống:
- Xem thêm -