TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA LỊCH SỬ
ĐỀ TÀI
SỬ LIỆU HỌC: NỘI DUNG, CHƢƠNG TRÌNH
VÀ TỔ CHỨC GIẢNG DẠY Ở TRƢỜNG ĐẠI HỌC
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên đề
PHÂN LOẠI SỬ LIỆU
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
TS. Nguyễn Văn Hiệp
NGƢỜI THỰC HIỆN
TS. Trần Thuận
BÌNH DƢƠNG - THÁNG 12 NĂM 2014
Chuyên đề
PHÂN LOẠI SỬ LIỆU
1. Ý nghĩa của việc phân loại sử liệu
Tính tất yếu khách quan của việc phân loại các nguồn sử liệu bắt nguồn từ
sự đa dạng, phức tạp, muôn hình, muôn vẻ của các nguồn sử liệu; mỗi loại sử
liệu mang trong mình nó những yếu tố riêng biệt về chất liệu, loại hình, đặc
điểm, nội dung thông tin,…
“Trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, các hệ thống sử liệu lại rất phong
phú, có nhiều nét đặc thù và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nghiên cứu các
sự kiện lịch sử của bất cứ một thời kỳ, thời đại nào chúng ta cần phải tìm hiểu
được các quy luật, các mối liên hệ, các đặc điểm của những nguồn sử liệu được
sử dụng”1. Vì rằng, trong bất cứ một giai đoạn lịch sử nào, thuộc hình thái kinh
tế – xã hội nào, các nguồn sử liệu cũng đều xuất hiện và tồn tại một cách có quy
luật, phản ánh trình độ phát triển của một hình thái kinh tế – xã hội ấy.
Mỗi loại sử liệu có cách phản ánh thông tin riêng, do đó, việc khai thác,
sử dụng nó cũng đòi hỏi phải có cách thức, phương pháp khác nhau. Đó chính là
lý do cơ bản khiến các nguồn sử liệu cần được nghiên cứu, phân loại, và việc
phân loại sử liệu trở thành một yêu cầu bức thiết và có tầm quan trọng đặc biệt,
“nó phản ánh tính chất khoa học của bộ môn Sử liệu học với tư cách là một
ngành khoa học”2.
Việc phân loại các nguồn sử liệu để nghiên cứu có ảnh hưởng rất lớn đến
kết quả cuối cùng của người sử dụng. Thiếu nó, các nhà nghiên cứu sẽ khó phát
hiện được đầy đủ và chính xác những vấn đề khác nhau được nói đến trong sử
liệu. Bản thân Sử liệu học trong quá trình phát triển đã chứng minh rằng, các
nguồn sử liệu nếu được phân loại tốt trước hết, sẽ góp phần thúc đẩy sự phát
triển của chính Sử liệu học, mặt khác sẽ tạo ra một cơ sở sử liệu tin cậy, chính
xác và có hệ thống giúp cho Khoa học lịch sử phát triển một cách thuận lợi.
Ngoài ra, sự phân loại khoa học các nguồn sử liệu sẽ giúp cho các nhà sử học có
được phương hướng sưu tầm và sử dụng đúng đắn sử liệu vào việc nghiên cứu
lịch sử, làm cho các công trình sử học trở nên phong phú, sinh động và đáng tin
cậy hơn.
1
2
. GS.TSKH. Nguyễn Văn Thâm, Tlđd.
. GS.TSKH. Nguyễn Văn Thâm, Tlđd.
1
Đối với các nhà sử học, “nếu sử dụng được nhiều nguồn sử liệu theo một
hệ thống chặt chẽ, sẽ có khả năng nắm bắt được bản chất của vấn đề đặt ra,
nhận thức được quy luật phát triển của nó qua các nguồn sử liệu”3. Ngược lại,
nếu như các nguồn sử liệu không được phân loại một cách khoa học và sử dụng
một cách tùy tiện, thiếu cơ sở để phê phán về nội dung cũng như về hình thức sử
liệu thì chất lượng của tác phẩm nghiên cứu sẽ không tránh khỏi bị hạn chế.
Mục tiêu chủ yếu của việc phân loại các nguồn sử liệu là nhằm giúp các
nhà nghiên cứu có điều kiện tiếp cận và sử dụng một cách rộng rãi, chính xác,
chủ động các nguồn sử liệu về một thời kỳ, một sự kiện hay một vấn đề nào đó
trong quá trình phát triển của lịch sử một địa phương, lịch sử dân tộc cũng như
lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, vấn đề phân loại các nguồn sử liệu không thể giải
quyết chuyên môn thuộc các lĩnh vực khác nhau trong Khoa học lịch sử như
Khảo cổ học, Dân tộc học, thông sử và một số ngành khoa học bổ trợ có liên
quan như Văn bản học, Lưu trữ học,… mà “đòi hỏi phải xây dựng được hệ
thống lý luận và hệ thống nghiên cứu cụ thể. Chính trong quá trình đó, các
nguồn sử liệu sẽ có thể tự phản ánh một cách sâu sắc, có hệ thống các sự kiện
và quá trình lịch sử, do đó nhận thức lịch sử được nâng cao hơn, khách quan
hơn”4.
2. Cơ sở phân loại sử liệu
Các nhà nghiên cứu có quan điểm khác nhau trong việc phân loại các
nguồn sử liệu. Tuy nhiên, khi phân loại sử liệu, dù có quan điểm thế nào thì các
nhà nghiên cứu vẫn phải dựa vào một số đặc trưng cơ bản nhất định sau đây:
Phân loại theo thời kỳ lịch sử,
Phân loại theo địa bàn tồn tại của sử liệu,
Phân loại theo đặc điểm hình thức của sử liệu,
Phân loại theo chất liệu của sử liệu,
Phân loại theo tính chất thông tin có trong sử liệu (tức nội dung phản ánh
cảu sử liệu như: kinh tế, chính trị, văn hóa,…),
Phân loại theo đặc điểm ngôn ngữ,
Phân loại theo thể loại sử liệu (ký ức, biên niên, so sánh,…),
Phân loại theo sự kết hợp giữa nội dung với thể loại,
Phân loại theo chuyên ngành khoa học.
Phân loại theo thời kỳ lịch sử
Cho đến nay, các nhà sử học vẫn chưa thể thống nhất trong sự phân kỳ
lịch sử (từ lịch sử thế giới cho đến lịch sử dân tộc, lịch sử địa phương), tuy
nhiên, về đại thể, căn cứ vào đặc điển, đặc trưng của mỗi thời đại, các nhà sử
3
. GS.TSKH. Nguyễn Văn Thâm, Tlđd.
. GS.TSKH. Nguyễn Văn Thâm, Tlđd.
63
2
học có thể chia lịch sử thành các thời kỳ: tiền sử, sơ sử, cổ đại, trung đại, cận
đại, hiện đại.
Về sử liệu, nếu căn cứ vào cách phân kỳ trên, các nguồn sử liệu có thể
chia thành các loại tương ứng:
Sử liệu thời tiền sử,
Sử liệu thời sơ sử,
Sử liệu thời cổ đại,
Sử liệu thời trung đại,
Sử liệu thời cận đại,
Sử liệu thời kỳ hiện đại.
Trong mỗi thời kỳ lịch sử trên đây, người học sử, nghiên cứu lịch sử có
thể phân loại sử liệu chi tiết hơn theo từng giai đoạn trong thừng thời kỳ.
Cách phân loại trên sẽ giúp cho nhà nghiên cứu định hướng được việc sưu
tầm và sử dụng các nguồn sử liệu liên quan đến mỗi thời kỳ cụ thể của lịch sử
thế giới, hay lịch sử dân tộc,... Tuy nhiên, sử liệu ở mỗi thời kỳ hết sức phong
phú về thể loại, về chất liệu, về kỹ thuật, về cách thức phản ánh,… do đó, cần
kết hợp với các cách phân loại khác.
Phân loại theo địa bàn tồn tại của sử liệu
Từ lâu, để thuận lợi cho việc nghiên cứu, các nhà sử học một mặt phân
chia lịch sử theo thời đại (phân kỳ lịch sử), mặt khác có thể phân chia theo khu
vực để dễ tiếp cận, trong đó đặc điểm vùng, khu vực đóng vai trò chủ đạo.
Lịch sử phương Đông, phương Tây, lịch sử Tây Âu trung đại, lịch sử
vùng Trung Cận Đông,… theo cách này, các nguồn sử liệu cũng được phân chia
thành các nhóm mang đặc trưng vùng, khu vực.
Trong mỗi quốc gia, sử liệu cũng được chia ra thành các nhóm: sử liệu ở
trung ương, ở địa phương (tỉnh, huyện, xã); sử liệu ở trong nước và ở nước
ngoài,… Cách phân chia trên có phần phức tạp, tuy nhiên sẽ cung cấp thông tin
sử liệu về một vấn đề cụ thể, hay thông tin mang tính tổng hợp của một vùng,
khu vực từ địa phương đến trung ương. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về cuộc khởi
nghĩa Nam kỳ năm 1940, cần phân biệt một số nguồn sử liệu hình thành ở các
địa phương khác nhau (Sài Gòn – Gia Định, Tiền Giang, Bạc Liêu,… thậm chí
cả ở nước ngoài), bởi mỗi nơi phản ánh cuộc khởi nghĩa này với một sắc thái
khác nhau, trên cơ sở thực tế cuộc khởi nghĩa nổ ra khác nhau, kết quả khác
nhau. Hoặc khi nghiên cứu về phong trào đô thị ở miền Nam Việt Nam trong
những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước,... việc phân biệt các sử liệu theo
địa bàn hình thành của nó là việc làm hết sức cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc tiếp cận, nghiên cứu của các nhà sử học. Khi tiếp cận hệ thống sử liệu,
các nhà nghiên cứu dù muốn hay không cũng phải hướng sự chú ý của mình vào
3
việc khai thác các nguồn sử liệu được hình thành, lưu giữ ở các thành phố lớn
như Huế, Sài Gòn,… những nơi được xem là trung tâm, ngọn cờ tiêu biểu của
phong trào đô thị ở miền Nam nước ta trước ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng.
Phân loại theo đặc điểm hình thức của sử liệu
Mỗi sử liệu chứa đựng trong đó những đặc trưng riêng và được thể hiện
bằng một hình thức cụ thể. Chẳng hạn một chiếc rìu đá, một bình gốm, một di
tích tín ngưỡng, một bản kim văn, một lá truyền đơn, một đồng tiền giấy, một
văn kiện đại hội, một chiếc kèn lá, một lá bùa, một tấm ảnh, một đoạn film, một
địa danh, một âm sắc vùng miền,… Căn cứ vào đặc điểm hình thức của các
nguồn sử liệu, có thể phân chúng thành 6 loại chính:
Sử liệu viết (sử liệu thành văn),
Sử liệu vật chất,
Sử liệu kỹ thuật,
Sử liệu dân tộc học,
Sử liệu ngôn ngữ học,
Sử liệu truyền miệng.
Đây là cách phân loại khá phổ biến hiện nay, tất nhiên, cách phân chia
thành 6 loại như trên vẫn còn là ước lệ và mang tính tương đối. Mỗi loại lại cần
có sự phân loại chi tiết hơn, chẳng hạn như khi nghiên cứu sử liệu chữ viết, ta
thấy có hàng trăm, thậm chí hàng ngàn loại khác nhau, bản gốc, bản sao, bản
dịch, bản chép tay, bản in, bản photocopy,...
Về chất liệu, phần lớn các sử liệu thành văn được viết trên giấy, nhưng
trước khi có giấy và ngay cả ngày nay vẫn có loại sử liệu được viết trên lụa, trên
tre, trên da thú, trên gỗ, trên đá, trên đồng, trên sắt,... Trong thực tiễn đời sống
xã hội, có không ít những gia phả, chúc thư, văn khế chia ruộng đất ở nhiều địa
phương nước ta được khắc trên gỗ, trên đá, trên đồng,... xuất hiện vào các thế kỷ
XVII, XVIII, thậm chí có nhiều văn bản còn có niên đại sớm hơn. Bản thân các
nguồn sử liệu này vừa thuộc nhóm sử liệu chữ viết, vừa thuộc nhóm sử liệu vật
chất, có thể xếp đặt ở nhiều nhóm sử liệu khác nhau.
Sử liệu viết cũng có thể phân loại theo nội dung khác nhau,… trong thực
tế, ngành Văn bản học đã phân chúng ra thành nhiều nhóm, chẳng hạn văn bản
hành chính, văn bản ngoại giao, văn bản pháp luật,...
Phân loại theo chất liệu của sử liệu
Mỗi loại được làm nên bởi các chất liệu khác nhau, trong đó, mỗi chất liệu
cùng với kỹ thuật chế tác mang tính thời đại, dựa vào đặc điểm đó mà nhà
nghiên cứu có thể chia thành các loại:
Sử liệu đá,
4
Sử liệu gốm,
Sử liệu kim loại,
Sử liệu giấy,
Sử liệu kỹ thuật nghe nhìn,
Sử liệu kiến trúc,
…
Cách phân loại này chỉ có ý nghĩa về đại thể, gắn với sự phân kỳ lịch sử
theo ngành Khảo cổ học, Bảo tàng học,... Tuy nhiên, cách phân loại này không
thể bao quát hết các loại sử liệu, còn nhiều sử liệu với các chất liệu khác không
nằm trong các nhóm trên. Đơn cử như loại sử liệu “phi vật thể” không thể xếp
vào nhóm sử liệu nào, do vậy, cách phân loại này chỉ mang tính hỗ trợ cho các
cách phân loại khác và thường áp dụng cho ngành Bảo tàng học nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho việc bảo quản hiện vật theo chất liệu sử liệu.
Phân loại theo tính chất thông tin có trong sử liệu
Trong mỗi sử liệu, giá trị lớn nhất chính là những thông tin lịch sử mà
chúng phản ánh, có thể nói đó là hệ thống thông tin lịch sử đa dạng, phong phú,
muôn màu muôn vẻ phản ánh hoạt động thực tiễn trên tất cả các bình diện từ
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội loài người. Topolski – nhà sử học Ba
Lan đã từng khẳng định: “Nguồn sử liệu là mọi thông tin về đời sống con người
trong quá khứ cùng với các kênh thông tin”5. Tuy nhiên, về cơ bản, chúng ta có
thể tổng hợp và chia chúng thành các mảng thông tin lớn, những vấn đề cơ bản
của cuộc sống mà sử liệu phản ánh. Thông thường, các nhà khoa học chia sử
liệu ra làm hai loại:
Sử liệu thông tin trực tiếp,
Sử liệu thông tin gián tiếp6.
Sử liệu trực tiếp: là những sử liệu xuất hiện cùng với sự kiện, thuộc về sự
kiện và thường được coi là nguồn sử liệu gốc, có giá trị khoa học cao. Chẳng
hạn, văn bản hiệp ước, hiệp định (Hiệp ước Nhâm Tuất – 1862, Hiệp ước Giáp
Tuất - 1874, Hiệp định Genève – 1954, Hiệp định Paris – 1973,…); xác máy bay
B52 bị bắn rơi ở Hà Nội năm 1972; chiếc xe tăng T54 húc đổ cổng Dinh Độc lập
ngày 30.4.1975,…
Sử liệu gián tiếp: là sử liệu phản ánh sự kiện lịch sử qua những thông tin
gián tiếp, với mục đích truyền đạt thông tin – qua tác giả sử liệu (chẳng hạn như
hồi ký), ở đó, các sự kiện xảy ra không đồng thời với sử liệu (trước thời điểm
hồi ký được viết ra).
5
6
. M.G. Lebedev (2005), Phương pháp luận sử học, Nxb. Khoa học xã hội, M., tr. 99.
. Người đặt nền móng cho cách phân loại này là nhà sử học người Ba Lan Hendensman vào năm 1928.
5
Khi phân chia các loại sử liệu theo tính chất thông tin mà nó phản ánh một
cách cụ thể hơn, các nhà khoa học có thể chia ra thành các loại:
Sử liệu về hình thái kinh tế – xã hội, về phương thức sản xuất,
Sử liệu về đời sống và sinh hoạt của giai cấp thống trị,
Sử liệu về đời sống và sinh hoạt của giai cấp bị trị,
Sử liệu về các chính sách đô hộ của ngoại bang,
Sử liệu về các lĩnh vực trong đời sống xã hội: Kinh tế – xã hội, Chính trị –
ngoại giao, Quốc phòng – an ninh, Văn hóa – giáo dục, Y tế – môi trường,…
Phân loại theo đặc điểm ngôn ngữ chữ viết
Trên thế giới có biết bao thứ ngôn ngữ đã xuất hiện và được sử dụng trong
giao tiếp cộng đồng. Ngay trong mỗi quốc gia cũng xuất hiện và tồn tại nhiều
ngôn ngữ khác nhau, đặc biệt là Việt Nam – một quốc gia đa tộc người với 54
tộc người anh em. Mỗi ngôn ngữ lại có cách thể hiện khác nhau, hơn nữa trong
quá trình phát triển, sự giao thoa ngôn ngữ diễn ra đã tạo nên nhiều sắc thái của
ngôn ngữ mà các nhà sử học khi nghiên cứu cần hết sức lưu ý.
Ở Việt Nam, ngoài sử liệu ngôn ngữ, chữ viết của 54 dân tộc, mà trung
tâm là chữ Quốc ngữ, trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc còn xuất hiện
thêm các loại ngôn ngữ chữ viết như Hán, Nôm, Sanskrit, Anh, Pháp, Nga,…
Mỗi loại ngôn ngữ, chữ viết thể hiện trong sử liệu phản ánh tính chất lịch
sử và mối quan hệ giữa nước sở tại với các quốc gia láng giềng, trong khu vực
hay trên thế giới. Đặc điểm ngôn ngữ, chữ viết còn thể hiện tính chất thời đại
được phản ánh trong sử liệu (chữ tượng hình; đại triện, tiểu triện, phồn thể, giản
thể trong chữ Hán; chữ Sankrit, chữ Latin...). Ngoài ra, các ngôn ngữ tạo nên sử
liệu còn thể hiện bản sắc dân tộc, sắc thái tộc người (tiếng Mường, tiếng Thái,
tiếng Chăm, tiếng Khmer,…).
Một đặc điểm dễ nhận ra là những sử liệu bằng văn tự ở nước ta trước
Cách mạng tháng Tám 1945 đa số bằng chứ Hán, chữ Nôm, chữ Pháp, còn bằng
chữ quốc ngữ không nhiều, nhưng từ sau Cách mạng tháng Tám trở đi, tình hình
có khác, thậm chí đảo ngược hoàn toàn.
Phân loại theo đặc điểm ngôn ngữ, chữ viết, giúp nhà sử học dễ dàng tiếp
cận nội dung, đặc điểm thông tin phản ánh trong sử liệu. Từ đó góp phần vào
việc xác định hướng nghiên cứu và phương thức tiếp cận nguồn sử liệu phục vụ
cho công trình nghiên cứu.
Với sự đa dạng, phong phú của sử liệu ngôn ngữ, chữ viết, không dễ gì có
được một phương án phân loại sử liệu hoàn hảo và được mọi người đồng thuận
của các nhà nghiên cứu. Các nhà Sử liệu học cần kết hợp với các ngành liên
quan, nghiên cứu kỹ lưỡng đặc trưng của mỗi loại hình, mỗi nguồn tư liệu để đề
6
xuất phương án tối ưu cho mỗi chuyên ngành thuộc Khoa học lịch sử, nhằm hỗ
trợ đắc lực cho việc nghiên cứu.
Hầu như các ngành khoa học như Khảo cổ học, Gia phả học, Lịch sử
Đảng, Lịch sử thế giới, Lịch sử dân tộc,… đều có cách phân loại riêng. Tuy
nhiên, việc áp dụng đặc trưng nào trong số các đặc trưng nói trên để phân loại
các nguồn sử liệu là tùy thuộc ở nhu cầu thực tế của công việc nghiên cứu, sử
dụng sử liệu, đồng thời do đặc điểm của các nguồn sử liệu về mỗi thời kỳ lịch sử
quyết định.
Có nguồn sử liệu không thể phân loại theo đặc trưng này nhưng lại có thể
phân loại theo đặc trưng khác. Chẳng hạn, nguồn sử liệu phim ảnh, không nên
phân loại theo địa bàn mà nên phân loại theo loại hình của chúng như phim tư
liệu, phim thời sự, phim tài liệu, phim phóng sự tài liệu,… Hay đối với nguồn sử
liệu báo chí, tài liệu lưu trữ,… nên phân biệt loại ở trung ương và loại ở địa
phương, loại ở trong nước, loại ở ngoài nước, loại tài liệu của ta và loại tài liệu
của địch,…
Phân loại theo tính chất sử liệu
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, sử liệu tuy rất phong phú nhưng tựu trung
chỉ có hai loại:
Sử liệu vật chất,
Sử liệu phi vật chất.
Để phân loại toàn bộ các nguồn sử liệu theo tính chất sử liệu, cần phải dựa
vào nhiều đặc trưng khác nhau, tức kết hợp hai hay nhiều đặc trưng với nhau
trong phân loại. Bên cạnh đó, cũng có thể kết hợp nhiều đặc trưng để phân loại
các nguồn sử liệu trong một đặc trưng cơ bản. Đó là điều cần phải làm từng
bước và đòi hỏi phải có những công trình Sử liệu học sâu rộng.
Việc phân loại tổng hợp theo tính chất sử liệu sẽ giúp cho các nhà nghiên
cứu có cái nhìn toàn diện đối với các nguồn sử liệu, đồng thời dễ dàng nhận thấy
mối liên hệ giữa chúng với nhau trong mỗi giai đoạn, thời kỳ lịch sử cụ thể, đặc
biệt là việc nhận diện các quy luật vận động khách quan của sử liệu.
Phân loại theo khả năng thông tin của sử liệu
Nhà sử học Ba Lan – J. Lelewel cho rằng, các nguồn sử liệu có thể chia
thành 3 nhóm, đó là:
Sử liệu thông tin bằng truyền miệng (sử liệu truyền thống),
Sử liệu câm (sử liệu không được viết ra),
Sử liệu thành văn (sử liệu được viết ra).
Theo ông, các nguồn sử liệu thuộc nhóm 1 và nhóm 2 nêu trên có thể
chuyển thành sử liệu thuộc nhóm 3, nghĩa là thuộc nhóm sử liệu thành văn khi
các nhà sử học tiếp cận, nghiên cứu và đọc được chúng rồi ghi chép lại.
7
3.2.2.j. Phân loại theo dấu vết còn lại của sự kiện lịch sử và người thông
tin
Năm 1908, khi nghiên cứu về sử liệu, E Bernheim - nhà sử học Đức đã
chia thành 2 nguồn cơ bản:
Sử liệu di tích,
Sử liệu truyền thống,
Nguồn sử liệu di tích là tất cả các vết tích còn lại của các sự kiện lịch sử,
nghĩa là toàn bộ sử liệu vất chất – sản phẩm của quá trình hoạt động thực tiễn
đều là sử liệu di tích. Nguồn sử liệu truyền thống là các nguồn thông tin thông
báo về các sự kiện lịch sử nói trên mà con người nhận thức được.
Sử liệu không phải là một phiên bản sao chép lại mọi điều trong thực tế
cuộc sống một cách máy móc rồi tái hiện lại một cách đầy đủ trước mắt người
nghiên cứu. Thực tế chứng minh rằng, có không ít những nguồn sử liệu chưa
được kiểm chứng, xác minh, trong đó còn biết bao điều thực hư mà nhà khoa
học chưa thể khẳng định một cách chắc chắn. Để đảm bảo tính khoa học và độ
tin cậy của sử liệu khi đưa vào sử dụng, công tác xác minh, phê phán sử liệu là
một nhiệm vụ mang tính bắt buộc đối với nhà sử học.
Thông thường, các sử liệu thiếu độ tin cậy xuất phát từ những lý do sau:
Cách xa về thời gian, không gian,
Chủ quan của người tham gia thiết lập sử liệu,
Quan điểm chính trị trong xã hội có giai cấp,
Yếu tố “tam sao thất bổn” (sao chép, trùng tu,…),
Yếu tố kỹ thuật trong quá trình chế tác, tạo lập sử liệu,
Độ bền của chất liệu và sự tác động của thiên nhiên và con người.
Và cũng không loại trừ những sử liệu được “ngụy tạo” vì những mục đích
khác nhau của con người.
Do vậy, vì mục đích khoa học, không cho phép nhà nghiên cứu dễ dãi, tùy
tiện, thiếu trách nhiệm khi sử dụng sử liệu. Đứng trước một sử liệu, nhà nghiên
cứu phải trả lời được những câu hỏi: Đây là sử liệu thật hay sử liệu giả? Được
công bố bởi cơ quan, cá nhân nào? Bản gốc hay phiên bản? Sử liệu trực tiếp hay
gián tiếp? Nội dung của sử liệu phản ánh vấn đề gì? Thông tin mà sử liệu phản
ánh có đáng tin cậy không? Có gì đáng nghi ngờ không?…
GS. Hà Văn Tấn khi bàn về “Lịch sử, Sự thật và Sử học” đã từng chỉ rõ:
“Viết sử là một nghề, nói như người Pháp là Métier d’historien. Người viết sử
phải được rèn luyện tay nghề, tức các sách viết về phương pháp sử học, thường
nói đến hai bước cơ bản trong công tác sử học: bước thứ nhất là từ sử liệu, khôi
phục sự kiện, bước thứ hai là giải thích và đánh giá sự kiện. Ngay từ bước thứ
8
nhất, đã có những khả năng dẫn nhà sử học xa rời sự thật. Đó là vì sử liệu thiếu,
và phổ biến hơn, vì sử liệu không được phê phán nghiêm túc. Người ta chia sử
liệu ra làm hai loại: Sử liệu trực tiếp và sử liệu gián tiếp.
Sử liệu trực tiếp xuất hiện cùng thời với sự kiện, là di tích của sự kiện, là
một mảnh của sự kiện. Chẳng hạn, trống đồng Ngọc Lũ, khẩu pháo Điện Biên,
hay văn bản hiệp định Paris,… là sử liệu trực tiếp.
Còn sử liệu gián tiếp là sử liệu nói đến sự kiện qua một người thông tin
gián tiếp, tức tác giả sử liệu. Loại sử liệu này cần được giám định cẩn thận, vì
thông tin nhận được đã qua trung gian người thông tin. Chẳng hạn hồi ký là sử
liệu gián tiếp. Ở đây, các sự kiện đã xảy ra không đồng thời với sử liệu, tức là
trước lúc hồi ký được viết. (…)
Hiện nay, nhiều công trình sử học của chúng ta đã sử dụng nguồn sử liệu
gián tiếp một cách thiếu thận trọng,…
Các nhà sử học thường dựa chủ yếu vào nguồn sử liệu viết, mà ở nước ta,
các văn bản sử liệu thường bị biến chuyển ghê gớm. Đó là chưa kể, sự xuất hiện
những tài liệu giả. Nếu trình bày sự kiện mà dựa vào sử liệu đã bị biến đổi hay
sử liệu giả thì hiển nhiên không tránh khỏi sai lầm.
Chẳng hạn, quyển Binh thư yếu lược hiện có, được coi là của Trần Hưng
Đạo là một cuốn sách giả từ đầu đến cuối. Các nhà nghiên cứu ở Viện Hán Nôm
vừa làm một việc có ý nghĩa là chứng minh được quyển sách giả mạo đó đã hình
thành như thế nào”7. Do đó, sau khi tiếp cận với sử liệu, công việc tiếp theo của
nhà sử học là phải phân tích, phê phán các sử liệu đó trước khi sử dụng.
Mục đích của công việc này là làm sáng tỏ tính xác thực về lai lịch, thời
đại, tác giả của tài liệu; xem xét tài liệu đó có còn nguyên vẹn hay đã bị sửa đổi,
nội dung của nó có chính xác, khách quan hay không; xem xét mối quan hệ giữa
tác giả với sự kiện, tác giả với nội dung thông tin được phản ánh (tác giả có thực
sự tham gia hoặc chứng kiến (trực tiếp thấy hoặc nghe); xem xét tác giả có đủ
khả năng để nghi nhận (quan sát) sự việc xảy ra, có thành thật và vô tư không,…
Trong trường hợp sử liệu được bảo đảm bởi bằng chứng của nhiều người,
thì nhà sử học phải tiến hành so sánh, đối chiếu xem chúng có phù hợp với nhau
không, có khớp giữa các nhân chứng không. Khi đã có sự tương ứng, trùng khớp
giữa những nhân chứng, cần phải xem xét có hiện tượng cùng sai không và
nguyên nhân của nó là gì (có sự sắp xếp trước, thông đồng giữa các nhân chứng?
có sự gặp gỡ chung về quyền lợi? có một tâm trạng giống nhau?...). Cuối cùng,
nhà sử học phải xem xét những sử liệu ấy có trái với các quy luật khách quan
hay không.
7
. Dẫn theo Xưa & Nay số 445, tháng 3-2014, tr. 6.
9
Dễ dàng hiểu rằng, một sử liệu không tốt, thiếu chính xác nếu được sử
dụng để tái dựng hiện thực lịch sử sẽ mang lại kết quả nghiên cứu sai lệch,
không đảm bảo tính khoa học và sẽ gây nên tác động không tốt đối với đời sống
xã hội, thậm chí có tác động tiêu cực đối với cuộc sống của nhiều người. Một sử
liệu tốt là một sử liệu phản ánh đúng sự thật lịch sử và người sử dụng dễ dàng
nhận ra giá trị chân thực của nó, sử liệu đó phải đảm bảo tính khách quan, trung
thực, không bị áp đặt bởi bất kỳ một yếu tố nào không phải là yếu tố tự thân.
Thực tế cho thấy, giá trị của một sử liệu bị suy giảm xuất phát từ những
yếu tố sau đây:
Do chủ quan của người tham gia thiết lập sử liệu,
Do quan điểm chính trị trong xã hội có giai cấp,
Do khả năng nhận thức của người sử dụng,
Do yếu tố “tam sao thất bổn” (sao chép, trùng tu,…),
Do độ bền của chất liệu và sự tác động của thiên nhiên và con người.
Từ đó đòi hỏi người nghiên cứu phải luôn có ý thức phê phán để trả lại
đúng giá trị cho sử liệu trước khi sử dụng, có như vậy, sử liệu mới được khai
thác một cách triệt để và có hiệu quả.
Nhân chứng lịch sử là những người tham gia trực tiếp hoặc chứng kiến
trực tiếp hiện thực lịch sử đã diễn ra. Do vậy, có thể xem nhân chứng lịch sử là
một “sử liệu sống” để kiểm chứng các sử liệu liên quan. Trong thực tế đã có
không ít những công trình lịch sử khi đưa ra nghiệm thu được các nhân chứng
phản biện một cách mạnh mẽ, đặc biệt là việc tái dựng lịch sử ở các địa phương
ở Việt Nam trong thời kỳ hiện đại. Để tiệm cận đến chân lý lịch sử, việc xác
minh sử liệu, nhà nghiên cứu không thể không cần đến nhân chứng lịch sử để
khai thác và kiểm chứng sử liệu trước khi sử dụng.
Có hai điều cần lưu ý, nhân chứng lịch sử là người có thể cung cấp những
thông tin chính xác về sự kiện, nhưng nhân chứng vẫn thường có ý thức chủ
quan, khó kiềm chế cái tôi cá nhân, nên đôi khi làm cho thông tin sử liệu bị
nhiễu. Nhân chứng là con người, tuổi thọ có giới hạn, do đó, để nhớ lại những
việc đã qua, sự thiếu chính xác, lẫn lộn, gây nhiễu là điều không thể tránh khỏi.
Do vậy, cùng với việc tranh thủ tối đa để khai thác thông tin sử liệu khi nhân
chứng còn có thể cung cấp và việc thẩm định, xác minh, phê phán sử liệu khai
thác được từ nhân chứng lịch sử trước khi sử dụng là những việc làm cần thiết.
Trường hợp hai chiếc xe tăng tấn công vào cổng Dinh Độc lập ngày 30-41975 là một ví dụ điển hình. Một thời gian khá lâu sau ngày miền Nam giải
phóng, các nhà nghiên cứu vẫn công bố rằng, chiếc xe tăng mang số hiệu 843
của trung úy Bùi Quang Thận đã húc đổ cánh cổng sắt để đi vào Dinh Độc lập.
10
Từ hiểu biết trên, trong sân Dinh Độc lập, chiếc xe tăng được trưng bày vẫn là
chiếc xe tăng mang số hiệu 843.
Nhà báo Huy Đức trong tác phẩm “Bên thắng cuộc” tập một: “Giải
phóng” có viết: “Trong suốt hai mươi năm, bốn người lính trên chiếc tăng 390
tiếp tục chiến đấu ở Campuchia, ở phía Bắc rồi lầm lũi mưu sinh chứ không hề
tìm kiếm vinh quang. Khi coi phim tài liệu, thấy Bùi Quang Thận cầm một lá cờ
rất to, loại cờ chưa từng xuất hiện trong những chiếc xe tăng tiến vào Dinh
trong ngày 30-4-1975, Thiếu úy Lê Văn Phượng lại tặc lưỡi nghĩ rằng, “lịch sử
đôi khi được làm bằng báo chí”...!
Sáng 1-5-1975, khi rút về căn cứ Long Bình, Lê Văn Phượng đã viết
tường trình đúng như những gì xảy ra: “lịch sử thành văn” chỉ nhắc đến chiếc
xe của Bùi Quang Thận. Những thước phim, những bức ảnh “húc đổ cổng Dinh
Độc Lập” được phục dựng đã thế chỗ sự thật và số phận của những người được
nói đến thật cách biệt với những người im lặng”.
Mãi đến khi những tấm ảnh của Bà Francoise De Mulder, một phóng viên
người Pháp có mặt tại Đinh Độc lập vào thời khắc lịch sử đó được công bố trong
một cuộc triển lãm ở Paris vào năm 19958, thì sự thật lịch sử lúc bấy giờ mới
được công nhận. Chiếc xe tăng đầu tiên tấn công vào cổng Dinh Độc lập ngày
30-4-1975 không phải mang số hiệu 843 của trung úy Bùi Quang Thận mà là
8
. Năm 1995, khi nữ ký giả Pháp có tên là Francoise De Mulder đến Việt Nam, những người lính tăng trên chiếc
xe làm nên lịch sử ấy mới có dịp gặp nhau.
Francoise De Mulder là người phụ nữ mà sau khi tăng 390 cán qua cổng Dinh đã chụp được tấm hình Lê Văn
Phượng nhô đầu ra khỏi tháp xe và nhìn thấy bà trong một khoảng thời gian rất ngắn. Francoise De Mulder sinh
năm 1944, sang Việt Nam làm phóng viên ảnh từ năm 1963, lúc mười chín tuổi. Năm 1976, bà có mặt ở
Lebanon, nơi có hàng trăm người tị nạn Palestine bị hành quyết bởi lực lượng vũ trang cánh hữu Phalang. Tại
trại tị nạn ở quận Quarantaine – Beirut, bà chụp được cảnh một phụ nữ đang van xin các binh lính tha chết cho
chồng trên một đường phố đang bốc cháy, ngay giữa thủ đô Beirut. Tấm hình này đoạt giải nhất của Giải WPPA
lần thứ 20, là ảnh báo chí xuất sắc nhất thế giới năm 1976. Bà cũng là nữ ký giả ảnh đầu tiên đoạt giải này. Năm
2003 De Mulder bị bệnh bạch cầu và liệt người. Năm 2005, bà mất tại Paris, thọ 61 tuổi.
Năm 1995, tại Paris, bà Francoise De Mulder tổ chức triển lãm những tấm ảnh bà chụp được trong ngày 30-41975. Những bức ảnh đã gây chú ý cho một sỹ quan khi ấy đang làm tùy viên quân sự tại Pháp, anh đã giúp đỡ
để đầu tháng 3-1995, bà Francoise De Mulder về đến Việt Nam. Người đầu tiên mà bà gặp là anh Nguyễn Văn
Tập, lái tăng 390, khi ấy đang lái xe ba gác ở Thái Bình. Rồi bà gặp anh Vũ Đăng Toàn, chính trị viên đại đội,
khi ấy đang nuôi heo ở Hưng Yên. Bà không tìm ra anh Ngô Sỹ Nguyên, pháo thủ I, vì khi ấy anh Nguyên
không sống ở địa phương. Cuối cùng, bà đến Sơn Tây gặp Lê Văn Phượng đúng khi anh đang hành nghề cắt tóc.
Sau cuộc gặp đó, ngày 22-6-1995, Thiếu úy Lê Văn Phượng được mời dự lễ kỷ niệm ngày thành lập Lữ đoàn
203, bấy giờ đã phiên thành Trung đoàn xe tăng 203.Ở đó, Lê Văn Phượng gặp lại Nguyễn Văn Tập và Vũ Đăng
Toàn rồi cả ba được vào tham quan Dinh, bấy giờ đã có tên là Dinh Thống Nhất. Khi đó, họ mới biết chiếctăng
843 “hiện vật” vẫn được trưng bày tại Bảo tàng Tăng Thiết Giáp, Hà Nội, còn chiếc “843” sau này trưng bày
trong Dinh chỉ là một chiếc tăng cùng loại được sơn và ghi số hiệu vào. Trong khi chiếc xe của Bùi Quang Thận
được sơn phết, bảo dưỡng, lau chùi, nâng niu từ sau 30-4-1975 đến nay, tăng 390 vẫn rong ruổi trên chiến trường
Campuchia, mãi đến sau 1995 mới được đem về Bảo tàng Tăng Thiết Giáp.
Chuyến đi của Bà Francoise De Mulder được phát trên VTV và sau đó được thể hiện lại trong một cuốn phim
xúc động. “Bốn chiến sĩ xe tăng 390” cũng trở nên nổi tiếng nhưng là dưới một biệt danh mới do người xem đặt
ra: Ông gác đầm cá Vũ Đăng Toàn; Ông đánh giậm Nguyễn Văn Tập; Ông lái xe lam Ngô Sĩ Nguyên; Ông cắt
tóc bị công an đuổi ở Bờ Hào Lê Văn Phượng.
11
chiếc xe tăng mang số hiệu 390 của bốn chiến sĩ Lê Văn Phượng, Vũ Đăng
Toàn, Nguyễn Văn Tập, Ngô Sỹ Nguyên.
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
TS. Nguyễn Văn Hiệp
NGƢỜI THỰC HIỆN
TS. Trần Thuận
12
- Xem thêm -