UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Thông tin chung
-
Tên đề tài: Chế tạo đồ chơi trong dạy học vật lý THCS
Sinh viên thực hiện: Lưu Trung Kiên
-
Lớp: C14VL01
Khoa: Khoa học tự nhiên
Năm thứ 2
Số năm đào tạo: 3 năm.
-
Người hướng dẫn: Th.S. Mai Thị Anh Đào.
2. Mục tiêu đề tài
Giúp học sinh:
Nắm vững kiến thức cơ bản,tính chất vật lý của một số hiện tượng thông
qua việc tự chế tạo một số đồ chơi đơn giản rẻ tiền dưới sự hướng dẫn của giáo
viên đứng lớp.
Rèn luyện và phát triển cho học sinh kĩ năng tư duy độc lập, kĩ năng tìm tòi
kiến thức, thực hành thí nghiệm, hình thành tác phong nghiên cứu khoa học.
Giúp giáo viên:
Bồi dưỡng kỹ năng tự tạo và sử dụng đồ chơi dạy học đơn giản phục vụ cho
chính bản thân
3. Kết quả nghiên cứu : Bảy món đồ chơi và cuốn tài liệu hướng dẫn chế tạo
và sử dụng.
4. Công bố khoa học của sinh viên từ kết quả nghiên cứu của đề tài.
Ngày 25 tháng 3 năm 2016
Sinh viên thực hiện
(ký và ghi rõ họ tên)
1
UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN
I.SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN
Họ và tên: Lưu Trung Kiên
Sinh ngày: 27/09/1995
Nơi sinh: Bình Dương
Lớp: C14VL01
Khóa: 2014 – 2017
Khoa: Khoa học tự nhiên
Địa chỉ liên hệ: 59Đ3/8D,khu phố Đồng An 3, Bình Hòa, Thuận An, Bình
Dương.
Điện thoại: 0974833643
Email:
[email protected]
II.QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
Năm thứ nhất:
Ngành học: Sư phạm Vật lý
Khoa: Khoa học tự nhiên
Kết quả xếp loại học tập:TB -K
Sơ lược thành tích:
Năm thứ hai:
Ngành học: Sư phạm Vật lý
Khoa: Khoa học tự nhiên
Kết quả học tập: Khá
Bình Dương, Ngày
tháng
năm
viên
thực
Xác nhận của lãnh đạo khoa
Sinh
hiện( ký và ghi rõ họ tên )
( ký và ghi rõ họ tên )
2
UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I.SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN
Họ và tên: Trần Hoài Nam
Sinh ngày: 23/01/1995
Nơi sinh: Bình Dương
Lớp: C14VL01
Khóa: 2014 – 2017
Khoa: Khoa học tự nhiên
Địa chỉ liên hệ: xã Bạch Đắng , Tân Uyên, Bình Dương.
Điện thoại:01654483988
Email:
II.QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
Năm thứ nhất:
Ngành học: Sư phạm Vật lý
Khoa: Khoa học tự nhiên
Kết quả xếp loại học tập:TB
Sơ lược thành tích:
Năm thứ hai:
Ngành học: Sư phạm Vật lý
Khoa: Khoa học tự nhiên
Kết quả học tập: TB
Bình Dương, Ngày
tháng
năm
Xác nhận của lãnh đạo khoa
Sinh viên thực hiện
( ký và ghi rõ họ tên )
( ký và ghi rõ họ tên )
3
THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I.SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN
Họ và tên: LÊ TRUNG TÍNH
Sinh ngày: 24/2/1996
Nơi sinh: Bình Dương
Lớp: C14VL01
Khóa: 2014 – 2017
Khoa: Khoa học tự nhiên
Địa chỉ liên hệ: C321 kp Bình Đức I, Thuận An, Bình Dương.
Điện thoại: 0963443930
Email:
[email protected]
II.QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
Năm thứ nhất:
Ngành học: Sư phạm Vật lý
Khoa: Khoa học tự nhiên
Kết quả xếp loại học tập:TB -K
Sơ lược thành tích:
Năm thứ hai:
Ngành học: Sư phạm Vật lý
Khoa: Khoa học tự nhiên
Kết quả học tập: TB
Bình Dương, Ngày
tháng
năm
Xác nhận của lãnh đạo khoa
Sinh viên thực hiện
( ký và ghi rõ học tên )
( ký và ghi rõ họ tên )
4
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]Giáo trình tâm lý học đại cương- Nguyễn Quang Ẩn
[2] Tuyển Tập Các Đồ Chơi Làm Bằng Tay- Phạm Văn Hựu
[3]Sách tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm- Đỗ Văn Thông
[4]Capstone Project Physics Toys-Mikko Korhonen
[5]J Guemez, C Fiolhais, M Fiolhai 2009 Toys in physics lecture sand
demonstrations-abrief review Physics Education
[6]www.arvindguptatoy.com – Toys From Trash
5
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................................8
2. Mục tiêu đề tài.....................................................................................................9
3.Mục đích ............................................................................................................... 9
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 9
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 6...............................................................10
1.2. Đồ chơi vật lý và vai trò của nó trong dạy học vật lý...................................14
1.3. Tóm tắt nội dung chương trình vật lý lớp 6..................................................16
1.3.1 : CƠ HỌC......................................................................................................16
1.3.2 : NHIỆT HỌC...............................................................................................17
CHƯƠNG 2.THIẾT KẾ - CHẾ TẠO ĐỒ CHƠI VẬT LÝ LỚP 6
2.1. Phần cơ học.....................................................................................................18
2.1.1. Lực – Hai lực cân bằng ...................................................................18
2.1.2. Trọng lực -đơn vị lực........................................................................19
2.1.3. Lực đàn hồi........................................................................................19
2.1.4. Khối lượng riêng - Trọng lượng riêng.............................................20
2.1.5. Mặt phẳng nghiêng...........................................................................21
2.2. Phần nhiệt học...............................................................................................22
2.2.1. Sự nở vì nhiệt của chất lỏng, chất khí...............................................22
2.2.2. Sự nóng chảy và đông đặc.................................................................23
CHƯƠNG 3.SỬ DỤNG ĐỒ CHƠI TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ 6
3.1. Bộ đồ chơi lính nhảy dù.......................................................................24
3.2. Bộ đồ chơi chim gõ kiến, hộp bất ngờ................................................25
3.3. Bộ đồ chơi đèn Lava............................................................................26
3.4. Bộ đồ chơi vượt dốc.............................................................................27
6
3.5. Bộ đồ chơi tàu hơi nước.......................................................................28
3.6. Bộ đồ chơi tượng sáp...........................................................................29
3.7. Chú hề...................................................................................................31
CHƯƠNG 4.KẾT QUẢ
4.1.BẢNG TÓM TẮT KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ VẤN ĐỀ SỬ DỤNG ĐỒ
CHƠI TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ CỦA CÁC BẠN HỌC SINH...................32
4.2.Ý kiến của giáo viên bộ môn...........................................................................35
4.3.KẾT LUẬN......................................................................................................38
ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ.........................................................................................39
Phụ lục ...................................................................................................................40
Giáo án 1: LỰC – HAI LỰC CÂN BẰNG..........................................40
Giáo án 2: TRỌNG LỰC – ĐƠN VỊ LỰC..........................................43
Giáo án 3: LỰC ĐÀN HỒI....................................................................46
Giáo án 4: MẶT PHẲNG NGHIÊNG..................................................49
Giáo án 5: SỰ NÓNG CHẢY – SỰ ĐÔNG ĐẶC................................54
Giáo án 6: KHỐI LƯỢNG RIÊNG – TRỌNG LƯỢNG RIÊNG..........58
Giáo án 7: SỰ NỞ VÌ NHIỆT CỦA CHẤT LỎNG ..............................62
PHIẾU KHẢO SÁT HỌC SINH TRƯỜNG THCS Tân Bình ..................70
CHÚ THÍCH HÌNH ẢNH VÀ KÍ HIỆU.....................................................73
7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay các nước trên thế giới điển hình là Nhật Bản, chương trình giáo dục
và đào tạo của họ là sử dụng theo phương hướng đồ dùng dạy học trong phương
pháp. Học sinh ở nước họ tự tìm tòi sáng tạo hay nói cách khác chủ yếu chú trọng
vào thao tác thực hành.
Trong những năm gần đây, song song với chương trình đổi mới sách giáo
khoa, các trường phổ thông đã được trang bị đồng bộ các thiết bị dạy học và thiết bị
thí nghiệm theo danh mục tối thiểu của Bộ Giáo Dục (BGD). Tuy nhiên việc khai
thác và sử dụng các thiết bị đó vẫn còn rất hạn chế dẫn đến hiệu quả sư phạm thấp,
kìm hãm khả năng của học sinh (HS) và giáo viên (GV), gây lãng phí lớn trong việc
đầu tư thiết bị dạy học vì không được sử dụng. Hạn chế này do một số những
nguyên nhân sau: Trình độ của đa số GV còn hạn chế, nhất là sự hiểu biết và kỹ
năng, kỹ thuật, ngoại ngữ khi chuẩn bị thao tác trên các thiết bị dạy học hiện đại.
Mặc dù đã có tổ chức tập huấn cho giáo viên nhưng do thời gian thực tập ngắn và
chưa thực sự chất lượng nên những hạn chế trên chưa được cải thiện. Hơn nữa việc
tập huấn sử dụng cho giáo viên thông thường do các công ty trực tiếp cung cấp thiết
bị dạy học đảm nhiệm nên phần lớn chỉ hướng dẫn lắp đặt, vận hành về mặt kỹ
thuật, chưa đi sâu vào việc sử dụng các thiết bị thí nghiệm đó trong dạy học[5].
Việc nâng cao chất lượng học tập ở bộ môn mà giáo viên trực tiếp giảng dạy
là việc làm thường xuyên, cần thiết, là mục tiêu chính của giáo dục hiện nay.
Phương pháp truyền đạt kiến thức kĩ năng chủ yếu phát huy tính tự lực, tích cực của
học sinh. Môn vật lý là môn khoa học thực nghiệm gần như chiếm chủ yếu, nên
việc hình thành kiến thức - kĩ năng cho học sinh khi dạy đa số là xuất phát từ thực
nghiệm. Thí nghiệm chính học sinh tự làm, tự phân tích... rút ra kết luận. Do đó đồ
dùng dạy học vật lý đóng vai trò quan trọng trong quá trình dạy thực nghiệm của
giáo viên. Yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực đã đặt ra những đòi hỏi phải đổi
mới mục tiêu, nội dung của quá trình đào tạo ở mọi cấp học, bậc học trong hệ
thống giáo dục quốc dân ở nước ta. Nhiều hoạt động nhằm đổi mới phương pháp
dạy học đã được phát động và triển khai dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy
8
nhiên, vẫn còn nhiều biện pháp dạy học phát huy tính tích cực học tập cho HS vẫn
chưa được triển khai, một trong những kỹ thuật dạy học chưa được đông đảo giáo
viên quan tâm sử dụng đó là kỹ thuật sử dụng đồ chơi trong dạy học. Việc sử dụng
đồ chơi trong dạy học là một biện pháp dạy học phù hợp với xu hướng đổi mới dạy
học hiện đại.
Đồ chơi vật lý 6 sẽ giúp cho các em hiểu rõ hơn về bài học Vật Lý của mình,
từ đó các em sẽ nắm vững kiến thức hơn, giúp các em hiểu rõ hơn về bản chất của
những khái niệm vật lý mà mình đã được học.
Xuất phát từ thực tế hiện nay khi dụng cụ thí nghiệm còn hạn chế, do đó việc
chế tạo đồ chơi Vật Lý 6 là hết sức cần thiết.
2. Mục tiêu đề tài:
Giúp học sinh:
Nắm vững kiến thức cơ bản,tính chất vật lý của một số hiện tượng thông qua
việc tự chế tạo một số đồ chơi đơn giản rẻ tiền dưới sự hướng dẫn của giáo viên
đứng lớp.
Rèn luyện và phát triển cho học sinh kĩ năng tư duy độc lập, kĩ năng tìm tòi
kiến thức, thực hành thí nghiệm, hình thành tác phong nghiên cứu khoa học.
Giúp giáo viên:
Bồi dưỡng kỹ năng tự tạo và sử dụng đồ chơi dạy học đơn giản phục vụ cho
chính bản thân.
3.Mục đích: Nhằm giúp cho quá trình dạy học vật lý hiệu quả hơn để nâng cao chất
lượng giáo dục.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng: Giải pháp làm và sử dụng đồ dùng dạy học đơn giản rẻ tiền có
hiệu quả trong dạy học Vật lý lớp 6
Phạm vi nghiên cứu: chương trình vật lý lớp 6
Phương pháp:
- Nghiên cứu, tổng hợp tài liệu liên quan
- Điều tra sư phạm
- Thực nghiệm sư phạm
9
- Kiểm tra, đối chứng so sánh với phương pháp dạy học Vật lý khác.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tuổi thiếu niên, ứng với tuổi học sinh trung học cơ sở (THCS), học sinh từ lớp 6- 9
(theo hệ thống giáo dục ở Việt Nam). Đây là lứa tuổi đã được chứng minh là rất thú
vị song cũng gây nhiều khó khăn cho thầy cô trong nhà trường, bởi đặc điểm tâm
sinh lý đặc trưng của lứa tuổi này.
1.1. Đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 6
Những biến đổi đặc điểm tâm sinh lý của trẻ thiếu niên, ảnh hưởng đến
hoạt động học tập:
Khi bước vào môi trường học đường THCS, điều đầu tiên mà trẻ nhận ra là sự
thay đổi điều kiện đời sống của trường học: sự xuất hiện của nhiều thầy cô giáo,
chương trình, tài liệu, hình thức học tập trên lớp phức tạp hơn; kinh nghiệm thực tế
ngoài nhà trường, sự giao tiếp với bạn bè cùng trang lứa được mở rộng hơn. Đây
chính là điều kiện làm nảy sinh khát vọng phải chiếm lĩnh một vị trí mới trong quan
hệ với người lớn, có tính độc lập và hành động tự chủ cao, xây dựng quan hệ theo
cách mới với bạn bè cùng lứa.
Cũng như mọi giai đoạn phát triển lứa tuổi khác, tuổi thiếu niên có những thế
mạnh riêng của mình. Những thế mạnh đó là: luôn sẵn sàng một cách có lựa chọn
với mọi khía cạnh liên quan đến việc học tập, nếu như những việc đó thể hiện được
tính người lớn theo suy nghĩ của chúng; khả năng tri giác tăng, tính nhạy cảm cao
với mọi khía cạnh của việc học. Trẻ tuổi này rất hay bị thu hút vào các hình thức
hoạt động tự quản trong giờ học, vào các tài liệu học tập phức tạp và có khả năng
tự thiết kế hoạt động nhận thức vượt ra khỏi khuôn khổ của nhà trường. Tuy nhiên,
cái khó của trẻ ở lứa tuổi này là tâm thế, sự sẵn sàng của chúng không dễ được hiện
thực hoá do chưa làm chủ được các phương pháp thực hiện và hình thức mới của
hoạt động học tập.
10
Khó khăn càng trở nên sâu sắc hơn khi những đặc điểm nêu trên của trẻ mang
tính chất không ổn định xuất hiện trong quá trình hình thành và trưởng thành, vì yêu
cầu trẻ lứa tuổi này đưa ra bao giờ cũng vượt lên trước so với kinh nghiệm sống và
khả năng thực thi một cách độc lập của chúng. Nói cách khác, trẻ - thiếu niên
thường có khát vọng xây dựng hình ảnh cuộc sống của mình không chỉ ứng với khả
năng của bản thân, mà còn vượt quá các khả năng đó. Điều này đòi hỏi phải có các
các phương pháp khác nhau cả trong giáo dục( theo nghĩa hẹp), lẫn trong dạy học
cho học sinh từ các lớp đầu đến cuối cấp THCS.
Hứng thú học tập, sự quan tâm đến các vấn đề nhà trường của học sinh
tuổi thiếu niên có phần bị giảm sút. Điều này thực sự gây nên sự lo lắng cho thầy
cô giáo và cha mẹ học sinh THCS. Trẻ thiếu niên luôn có xu hướng với các hoạt
động tích cực để minh chứng cho tính người lớn của mình và để nhận được những
tình cảm tôn trọng từ phía mọi người xung quanh. Nhưng đáng tiếc, những dạng
hoạt động này lại ít diễn ra trong trường học và các phương thức thực thi chúng thì
trẻ lại không được học. Trẻ phải tìm kiếm cơ hội khẳng định bản thân ở các dạng
hoạt động diễn ra ngoài nhà trường và vì thế, các hoạt động này thu hút trẻ hơn, so
với các giờ học trên lớp.
Quan hệ của trẻ với việc học không diễn ra trực tiếp mà được khúc xạ
thông qua các mối quan hệ phức tạp của trẻ với người lớn (trong đó có thầy cô
giáo) và với bạn bè của chúng.
Khát vọng được khẳng định tính tự lập và tính được làm người lớn của trẻ sẽ
không được thoả mãn, thậm chí còn gây hậu quả âm tính nếu như giáo viên THCS
sử dụng các phương pháp dạy và giao tiếp truyền thống. Trẻ thiếu niên không thoả
mãn với vai trò của một thính giả thụ động trên lớp, các em cũng không hứng thú
với việc ghi chép những gì giáo viên đọc cho hay chép lại các bài giải mẫu ở trên
bảng. Trẻ lứa tuổi này thích chờ đợi vào các hoạt động làm quen với tài liệu mới,
mang tính chất hoạt động của tư duy, mang tính độc lập, mà chỉ khi đó chúng có cơ
hội thể hiện sự tích cực của mình
Học sinh THCS có quan điểm của mình với bài làm, hoạt động đã thực hiện
và có thể phát biểu điều này trên lớp. Các em rất thích khi được sự tán đồng của
thầy cô về khả năng trí tuệ và rất thích các hình thức thi đua trong học tập, thích so
11
sánh kết quả làm bài giữa học sinh với nhau. Học sinh THCS không chỉ bị thu hút
vào các hình thức hoạt động học tập mới, tạo ra cơ hội cho chúng biểu hiện tính tích
cực, mà cả việc học các tri thức mới. Chúng dễ tự ái hoặc phật ý khi phải trả lời các
câu hỏi quá đơn giản, các bài tập quá dễ, ngược lại, trẻ thích các kiến thức đòi hỏi
phải suy nghĩ, phải khái quát.
Cách dạy và phong thái giao tiếp của người lớn, của thầy cô giáo dạy môn học
là “sức hút” mạnh, gây tình cảm, hứng thú, “ thích học ” với môn học của học sinh.
Học sinh THCS thích thâu tóm các sự kiện thực tế bằng suy nghĩ:
V.A. Xukhômlixnki khi nói về bản chất của việc học trên lớp của học sinh
THCS thì cho rằng: “ kích thích gây hứng thú cho tất cả mọi học sinh, tất nhiên, đấy
là những hình ảnh trực quan rực rỡ, nhưng với học sinh THCS, cái chính lại không
phải điều đó... Chúng ta phải thức tỉnh “vùng cảm xúc” bằng mối tương quan của
cái cụ thể với cái trừu tượng. Cảm xúc ngạc nhiên được xuất hiện bởi trong các đồ
vật cụ thể ẩn chứa nguồn gốc sự thật thế giới quan. Cái trở nên hứng thú với việc
học ở thiếu niên không phải là những gì đặc biệt, những gì mang tính trợ giúp, mà là
chính tài liệu học tập”.
Tài liệu học tập chủ yếu của học sinh THCS là sách giáo khoa. Những gì mà
V.A. Xukhômlixnki đã biểu đạt cũng chính là định hướng cho việc biên soạn sách
giáo khoa cho học sinh trung học nói chung, học sinh THCS nói riêng. Sự diễn tả
các tài liệu học tập theo hướng trên là cách tìm ra “tiếng nói chung”, sự tương thích
giữa nội dung tài liệu và đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh THCS.
Quan hệ của trẻ thiếu niên đối với tài liệu học tập mang tính nghiên cứu;
nghĩa là, các em có khuynh hướng đưa ra các câu hỏi về nguyên nhân sâu xa của
các hiện tượng, đưa chúng vào thảo luận một cách sống động theo các quan điểm
khác nhau. Trong giờ học trên lớp, các em yêu thích các hình thức hoạt động như:
tự nghiên cứu đưa ra các kết luận và các khái quát hoá, chọn các sự kiện hoặc các
đoạn văn tương thích với vấn đề, các giờ tự học thực hành hoặc trong phòng thí
nghiệm (với các dụng cụ, máy móc, mô hình).
Sự tự tiếp nhận kiến thức ở ngoài nhà trường (đọc các tài lệu tham khảo,
tìm kiếm các nguồn thông tin khác nhau). Đây là nhu cầu lớn, “tự thân vận động”
của trẻ thiếu niên, xuất phát từ đặc điểm tâm lý muốn trở thành và được xã hội công
12
nhận được làm người lớn, trong khi các kiến thức học được trong nhà trường không
cho phép các em thỏa mãn nhu cầu này.
Sẽ là yếu tố thuận lợi, thúc đẩy “ sự ham học ”của học sinh, nếu các thầy cô
giáo nhanh chóng định hướng cho học sinh cách lựa chọn tài liệu “có ích” để tham
khảo, hình thành cách tự học, hướng vào việc học đang diễn ra trong nhà trường.
Khó khăn cho giáo viên khi làm công việc mang tính “đạo đức nghề nghiệp” này là
học sinh THCS, đặc biệt ở đầu cấp, luôn có xu hướng tự lập, trong khi chưa biết
cách tổ chức hoạt động trí tuệ của mình, chưa làm chủ được các thủ pháp làm việc
với tài liệu, ghi nhớ và tập trung chú ý vào tài liệu.
Các điều kiện thuận lợi và khó khăn để hình thành việc tự điều khiển
hoạt động học tập (hay việc tự học ở học sinh THCS) xuất hiện:
+ Trẻ đầu bậc THCS đã biết tập trung chú ý có chủ định đến từng khía cạnh
khác nhau của tài liệu, bao gồm cả những khía cạnh đã được trừu tượng hoá. Biết
tập trung chú ý có chủ định là một thế mạnh trong phát triển tâm lý của học sinh
THCS: các em hoàn toàn có thể tập trung chú ý trong suốt cả thời gian một tiết học,
biết phân phối chú ý cho các dạng hoạt động học tập khác nhau, đôi khi còn biết đẩy
nhanh tốc độ bài học. Một số học sinh ở lứa tuổi này đã có thói quen làm việc tập
trung, mà theo đánh giá của các nhà tâm lý, điều này có nghĩa đã chuyển từ chú ý có
mục đích, có chủ định thành chú ý sau chủ định. Đấy là minh chứng về khả năng
làm việc cao của thiếu niên.
+ Việc lĩnh hội các phương thức ghi nhớ ngày càng tăng theo tuổi. Các nghiên
cứu của Tâm lý học cho thấy, trí nhớ của học sinh THCS phát triển theo một số
hướng. Ở đầu bậc học, các phương pháp ghi nhớ có chủ định được tích luỹ, tuy
nhiên, khối lượng không lớn: ghi nhớ, trong nhiều trường hợp vẫn diễn ra một cách
tự nhiên, không cần phải sử dụng đến các thủ pháp nào, nghĩa là, nhớ trực tiếp. Ở
các lớp cao hơn trong trường THCS, các thủ pháp ghi nhớ ngày càng trở nên được ý
thức, đa dạng, linh hoạt, phụ thuộc vào đặc điểm của tài liệu học. Học sinh các lớp
lớn trong nhà trường THCS có xu hướng ý thức các hành động học tập của mình
hơn, hiểu trật tự của việc học.
+ Tuy nhiên, người giáo viên cũng gặp phải khó khăn khi trẻ tự tổ chức việc
học cho bản thân: trẻ không phải lúc nào cũng ý thức được các thủ pháp ghi nhớ mà
13
chúng đã sử dụng; chú ý của chúng đôi lúc vẫn không ổn định, không chủ định, phụ
thuộc vào sự hứng thú, vào cái mới của tài liệu. Khi phân tích và đánh giá công việc
của mình, học sinh THCS thường sử dụng tự kiểm soát theo kết quả (hoặc theo
mẫu). Ở chúng, nếu không được dậy dỗ một cách có chủ định thì hiếm khi quan sát
thấy trẻ biết kiểm tra tiến trình công việc, đánh giá các bước trung gian từ góc độ
kết quả phải đạt được. Trẻ - thiếu niên, đặc biệt gặp khó khăn khi phải tự kiểm tra
tiến độ công việc sẽ diễn ra. Chúng không phải lúc nào cũng biết lập kế hoạch
chung: xác định được các giai đoạn, dự báo được các khó khăn có thể xảy ra. Mặc
dù học sinh tuổi thiếu niên cũng hay đề ra các kế hoạch, song những kế hoạch này
lại không chỉ đạo được hành động, mà chỉ là các “cơn bộc phát” của chúng[6].
1.2. Đồ chơi vật lý và vai trò của nó trong dạy học vật lý
Trẻ em tiếp thu rất tốt khi chơi. Ở bậc mẫu giáo, các bậc phụ huynh rất lo lắng, sốt
ruột vì thấy trường mẫu giáo cho cháu chơi nhiều hơn học. Chơi là chương trình
học rất tốt!
Những vật hình khối giúp trẻ nhận thức được không gian ba chiều, khái niệm sau
này sẽ là nền tảng cho những bài hình học, vật lý, kiến trúc và kỹ thuật. Qua đó, trẻ
thể hiện sự hiểu biết về những mối tương quan kích cỡ trong thế giới thật.
Khi chơi với những đồ chơi như xe hơi, xe tải, máy bay, tàu lửa..., và giả vờ hồi hộp
vì tốc độ, trẻ mẫu giáo cảm thấy lớn mạnh và trưởng thành. Khi trẻ tưởng tượng và
chơi trò đi xe trên một con đường dài, có thể trẻ đang nghĩ cách vượt qua nỗi lo lắng
vì phải xa rời người thân.
Vui chơi là công việc của trẻ em. "Vui chơi đóng vai trò là cơ chế tiếp sức cho
những suy nghĩ mang tính can đảm, sáng tạo và nghiêm túc ở tuổi trưởng thành.”
(TheoTina Bruce – tác giả hàng đầu về Giáo Dục Mầm Non).
Và cũng như người lớn làm việc, công cụ “làm việc” của trẻ nhỏ là đồ chơi. Đồ chơi
là nguồn vui, là người bạn gần gũi, thân thiết và không thể thiếu trong cuộc sống
của trẻ. Đồ chơi có khi là đối tượng để trẻ khám phá thế giới xung quanh, có khi lại
là công cụ đểtrẻ thao tác các hoạt động, là chỗ dựa cho các trò chơi tưởng tượng của
trẻ. Chính vì vậy mà đồ chơi có tác động rất lớn tới sự phát triển và tư duy của trẻ
nhỏ và cũng từ đó mà đồ chơi giáo dục ra đời như một lẽ tất yếu trong lịch sử phát
triển của chúng ta.
14
Đối với nhiều người có lẽ khái niệm về đồ chơi giáo dục còn chưa thực sự rõ ràng
và sáng tỏ. Chúng ta chỉ nghĩ đơn giản đồ chơi là đồ để cho trẻ vui chơi, nghịch
ngợm, đồ chơi giáo dục thì cũng chỉ là đồ chơi thôi. Tuy nhiên, không phải mọi loại
đồ chơi đều là đồ chơi giáo dục.
Đồ chơi giáo dục thực chất là đồ chơi cho trẻ em mà ở nó có mang chức năng giáo
dục, tức là món đồ chơi đó hỗ trợ và dạy cho các em về các kĩ năng, kiến thức nhất
định nào đó.
Thực tế, trẻ em có khả năng biến mọi đồ vật thành đồ chơi cho bản thân mình: một
hòn đá, viên sỏi hay một chiếc túi nilon cũng có thể trở thành đồ chơi cho các em.
Tuy nhiên, đồ chơi giáo dục thực sự khác biệt ở giá trị mà nó đem lại. Đồ chơi giáo
dục sẽ kích thích, thúc đẩy cho sự phát triển của thể chất, tư duy và tinh thần cho
các bé, nó có thể chỉ hướng đến sự giáo dục về một kĩ năng, lĩnh vực, khía cạnh cụ
thể hoặc nó sẽ mang tính giáo dục tổng hợp. Tóm lại, đồ chơi giáo dục sẽ đem lại sự
giáo dục nhất định cho trẻ trong quá trình các em tương tác, vui chơi với món đồ
chơi đó.
Theo bà Swati Popat Vats - một chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục cũng đồng thời
là giám đốc của chuỗi trường mầm non Podar Jumbo Kids ở Ấn Độ: Trẻ cần được
chơi những trò chơi mang tính xây dựng và lành mạnh. Các đồ chơi chạy bằng pin,
trò chơi điện tử, điện thoại, máy tính ngày nay không được coi là đồ chơi lành mạnh
bởi chúng gây ra các vấn đề về sức khỏe nhận thức, cảm xúc và xã hội[1].
Hơn nữa về phương diện giải phẫu học, giáo sư về Nhi đồng học Glenn Doman đã
cho biết: “Cấu trúc và chức năng các tế bào não rất đặc biệt, chúng được thiết kế
theo kiểu là nếu chúng ta càng sử dụng chúng nhiều thì chúng càng phát triển. Còn
ngược lại nếu chúng ta không sử dụng chúng thì sẽ dần dần chúng sẽ mất chức năng
về sự kết nối nhanh nhạy vốn có".
Thay vì mua cho con những chú robot đắt tiền, những con búp bê bạn có thể mua
cho con những đồ chơi kích hoạt trí tuệ như: xếp hình, cắt dán, tô màu, vẽ, đồ chơi
phân biệt màu sắc, hình dạng, kích thước, so sánh phân loại con vật, đồ vật theo đặc
điểm, suy luận. Đó chính là những đồ chơi mang tính giáo dục, kích hoạt trí tuệ này
là thay vì đưa cho con một “sản phẩm đã hoàn thành”, đồ chơi giáo dục thử thách
các con phải hoàn thành sản phẩm từ những công cụ, thành phần cơ bản nhất được
15
cung cấp. Từ một bộ xếp hình khối tuy chỉ bao gồm những thanh gỗ chữ nhật, tam
giác, vuông tròn nhưng hãy quan sát xem, qua đôi bàn tay con bạn chúng sẽ trở
thành những ngôi nhà, vườn thú, con vật, cây cỏ tùy theo trí tưởng tượng của các
con. Và như thế, não bộ các con sẽ phải hoạt động tích cực và sẽ ngày một phát
triển.
Cùng với những ý tưởng đó, đề tài của chúng tôi là giúp các em học sinh lớp sáu từ
những vật dụng đơn giản, rẻ tiền hoặc những vật dụng gần gũi ngay trong cuộc sống
thường ngày các em có thể ứng dụng kiến thức vật lý học ở trường để tạo ra một số
đồ chơi cho riêng mình. Từ đó giúp các em thích học môn vật lý, yêu thích khoa
học và ham học hỏi, hình thành cho các em óc tư duy sáng tạo.
Trước khi chế tạo đồ chơi cho học sinh của mình, chúng ta thường đặt ra những tiêu
chuẩn mà món đồ chơi đó có phù hợp với lứa tuổi, bài học của các em không ?
- Món đồ chơi này sẽ giúp các em phát triển kỹ năng gì ?
- Vật liệu để làm đồ chơi có dễ tìm thấy trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày
của các em không ?
- Vật liệu để làm đồ chơi có an toàn cho sức khỏe của các em không ?
- Món đồ chơi tạo ra, khi các em sử dụng có an toàn cho các em không ?
- Món đồ chơi đó có mang tính nhân văn không ?
- Món đồ chơi này ứng dụng vào bài học vật lý nào trong chương trình học
của các em?
- Các em có thích món đồ chơi đó không?
Hiển nhiên, đồ chơi giáo dục sẽ khiến chúng ta yên tâm về những gì các em học
được khi tương tác và chơi cùng những món đồ chơi đó. Hơn nữa, đồ chơi giáo dục
luôn là những sản phẩm được chăm chút về thiết kế, hình thức, chức năng chuyên
biệt và đặc biệt là về chất lượng, an toàn. Những sản phẩm đồ chơi giáo dục của
chúng tôi được ứng dụng trong các bài giảng vật lý ở trường. Khi thiết kế chế tạo
các đồ chơi vật lý này, chúng tôi luôn chú ý đến tính nhân văn, các tính chất vật lý
được áp dụng trong đồ chơi và điều quan trọng hơn hết là các em học sinh có thể tự
làm được các món đồ chơi vật lý bằng các vật liệu rất dễ tìm trong cuộc sống sinh
hoạt hằng ngày[3].
1.3. Tóm tắt nội dung chương trình vật lý lớp 6
16
1.3.1 : CƠ HỌC
Bài 1.
Đo độ dài
Bài 2.
Đo độ dài (tiếp theo)
Bài 3.
Đo thể tích chất lỏng
Bài 4.
Đo thể tích vật rắn không thấm nước
Bài 5.
Khối lượng - đo khối lượng
Bài 6.
Lực - Hai lực cân bằng
Bài 7.
Tìm hiểu kết quả tác dụng của lực
Bài 8.
Trọng lực - Đơn vị lực
Bài 9.
Lực đàn hồi
Bài 10.
Lực kế - Phép đo lực - Trọng lượng và khối lượng
Bài 11.
Khối lượng riêng - Trọng lượng riêng
Bài 12.
Thực hành : xác định khối lượng riêng của sỏi
Bài 13.
Máy cơ đơn giản
Bài 14.
Mặt phẳng nghiêng
Bài 15.
Đòn bẩy
Bài 16.
Ròng rọc
Bài 17.
Tổng kết chương I: Cơ học.
1.3.2 : NHIỆT HỌC
Bài 18.
Sự nở vì nhiệt của chất rắn
Bài 19.
Sự nở vì nhiệt của chất lỏng
Bài 20.
Sự nở vì nhiệt của chất khí
Bài 21.
Một số ứng dụng của sự nở vì nhiệt
Bài 22.
Nhiệt kế - Thang nhiệt độ
Bài 23.
Thực hành đo nhiệt độ
Bài 24.
Sự nóng chảy và sự đông đặc
Bài 25.
Sự nóng chảy và sự đông đặc (tiếp theo)
Bài 26.
Sự bay hơi và sự ngưng tụ
Bài 27.
Sự bay hơi và sự ngưng tụ (tiếp theo)
Bài 28.
Sự sôi
Bài 29.
Sự sôi (tiếp theo)
17
Bài 30.
Tổng kết chương II : Nhiệt học.
CHƯƠNG 2
THIẾT KẾ - CHẾ TẠO ĐỒ CHƠI VẬT LÝ LỚP 6
Chương trình vật lý 6 gồm hai phần Cơ học và Nhiệt học, chúng tôi chọn một số bài
để thiết kế đồ chơi vật lý đáp ứng yêu cầu và các tiêu chí đặt ra ở chương 1. Chúng
tôi sẽ trình bày các vật liệu dùng để chế tạo đồ chơi, cách làm và cách sử dụng đồ
chơi cho các em học sinh.
2.1. Phần cơ học
2.1.1. Lực – Hai lực cân bằng
Bộ đồ chơi : Chú hề cân bằng
a. Vật liệu :
- 1 miếng carton nhỏ có kích thước
10x10cm
- 2 vật nặng ( hai loong đền , hai viên bi )
- 1 thanh gỗ que kem
- Kheo và giấy màu
b. cách làm :
Hình 1. Vật liệu làm chú hề thăng bằng
- Bước 1 : Vẽ hình chú hề lên tấm bìa carton sao cho hai cách tay bằng nhau
- Bước 2 : Cắt chú hề ra khỏi tấm bìa carton và cắt 1 hình tam giác từ thanh gỗ que
kem .
- Bước 3 : Dán miếng tam giác vào đầu chú hề và dán hai vật nặng vào tay của chú
hề sao cho chúng đều nhau không bị lệch.
- Bước 4 : Trang trí bằng giấy màu ( tùy theo ý thích )
c. Cách sử dụng: Đặt chú hề lên trên tay hoặc lên trên cạnh bàn chú hề sẽ thăng
bằng
18
Hình 2. Chú hề thăng bằng
2.1.2. Trọng lực -đơn vị lực
Bộ đồ chơi: Lính nhảy dù[2].
a. Vật liệu:
- 4 đoạn dây có chiều dài bằng nhau ( 20 cm)
- 1 túi nhựa nilon
- 1 vật nặng ( chú lính nhựa )
b. Cách làm:
- Bước 1: Cắt túi nhựa nilon , mở ra sau đó cắt thành hình vuông gấp thành đầu mũi
tên.
- Bước 2: Cắt 4 sợi chỉ có chiều dài bằng nhau ( 20 cm) và dán vào 4 góc của hình
vuông
- Bước 3: Nắm ngay chính giữa cho sợi chỉ buông xuống , nắm lấy 4 đầu dây rồi cột
vào chú lính nhựa.
c. Cách sử dụng: Chỉ cần quấn lại rồi tung lên cao thì nó sẽ xòe ra và rơi xuống
đất .
Hình 3. Sản phẩm lính nhảy dù
19
2.1.3. Lực đàn hồi
Bộ đồ chơi: Chim gõ kiến, hộp bất
ngờ[2].
a. Vật liệu:
- 1 thanh gỗ có hình trụ dài khoảng 25cm
( có thể thay thế bằng giá đỡ trong thí
nghiệm vật lý )
- 1 chú chim được tô màu và cắt ra từ
mảnh giấy được gấp đôi lại có kích thước
2.6cmx3.8cm
- 1 lò xo được làm từ sợi dây kim loại
Hình 4. Vật liệu làm chú chim gõ kiến
b. Cách làm:
- Bước 1 : Làm dây lò xo, quấn sợi dây quanh một thanh tre nhỏ để làm lò
xo.
- Bước 2 : Làm cột trụ, dựng đứng thanh gỗ lên và cố định chân của thanh
gỗ lại .
- Bước 3 : Gắn 1 đầu lò xo vào thân cây rồi xoắn 3-4 vòng, kéo rộng ra .
- Bước 4 : Gấp đôi mảnh giấy lại vẽ lên một mặt của tờ giấy hình 1 chú
chim gõ kiến
c. Cách sử dụng: Chỉ cần kéo đầu của con chim gõ kiến ra và buông nhẹ là chú
chim tự động mổ vào thanh gỗ liên tục.
Hình 5. Sản phẩm chú chim gõ kiến
Hình 6. Vật liệu làm đèn Lava
20