BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------------------------
NGUYỄN THỊ NGỌC YẾN
CHẤT LƢỢNG CUỘC SỐNG CỦA
BỆNH NHÂN RỐI LOẠN CƢƠNG DƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƢỠNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------------------------
NGUYỄN THỊ NGỌC YẾN
CHẤT LƢỢNG CUỘC SỐNG CỦA
BỆNH NHÂN RỐI LOẠN CƢƠNG DƢƠNG
Chuyên ngành: Điều Dƣỡng
Mã số: 60.72.05.01
Luận văn Thạc sĩ Điều Dƣỡng
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TRẦN THIỆN TRUNG
TS. CARLO PARKER
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu kết quả trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Yến
MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các Bảng
Danh mục các Biểu đồ
Danh mục các Hình
Danh mục các Sơ đồ
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................. 4
1.1. Tổng quan về rối loạn cương dương .......................................................... 4
1.1.1. Định nghĩa ........................................................................................... 4
1.1.2. Nguyên nhân ....................................................................................... 5
1.1.3. Tình hình rối loạn cương dương trong dân số .................................... 7
1.1.4. Sinh lý cương dương vật ................................................................... 10
1.1.5. Bảng chỉ số quốc tế về chức năng cương dương vật IIEF ................ 14
1.1.6. Bảng chỉ số quốc tế về chức năng cương dương vật rút gọn ............ 16
1.2. Chất lượng cuộc sống ............................................................................... 18
1.2.1. Định nghĩa chất lượng cuộc sống ..................................................... 18
1.2.2. Khái niệm chung về chất lượng cuộc sống ....................................... 19
1.2.3. Khái niệm chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe................. 20
1.2.4. Tầm quan trọng của việc đánh giá chất lượng cuộc sống liên quan
đến sức khỏe .................................................................................... 20
1.2.5. Các loại thang đo chất lượng cuộc sống ........................................... 21
1.2.6. Ưu điểm đánh giá chất lượng cuộc sống bằng bộ câu hỏi SF-36 ..... 22
1.3. Các nghiên cứu trước ............................................................................... 29
1.4. Lý thuyết điều dưỡng và mô hình nghiên cứu ......................................... 30
Chƣơng 2 ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............. 34
2.1. Đối tượng và thiết kế nghiên cứu ............................................................. 34
2.2. Phương pháp chọn mẫu – tiêu chuẩn chọn mẫu ...................................... 34
2.3. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu ................................................ 35
2.4. Xử lý và phân tích số liệu ........................................................................ 36
2.5. Liệt kê và định nghĩa các biến số nghiên cứu .......................................... 37
2.6. Y đức trong nghiên cứu............................................................................ 39
2.7. Tính ứng dụng của nghiên cứu................................................................. 40
Chƣơng 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ......................................................... 41
3.1. Đặc điểm chung........................................................................................ 41
3.2. Mô tả đặc điểm lâm sàng ......................................................................... 46
3.3. Điểm số chất lượng cuộc sống của người có rối loạn cương dương ....... 49
3.4. Mối liên quan giữa SKTC, SKTT và CLCS với đặc điểm chung và đặc
điểm lâm sàng của người bệnh ............................................................... 51
Chƣơng 4 BÀN LUẬN .................................................................................. 62
4.1. Đặc điểm dân số học và đặc điểm lâm sàng của
các đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 62
4.2. Những mối liên quan ................................................................................ 63
4.3. Điểm số chất lượng cuộc sống của người có rối loạn cương dương ....... 64
4.4. Liên quan giữa sktc, sktt và clcs với đặc điểm chung và đặc điểm lâm
sàng của người bệnh ............................................................................... 65
4.5. Điểm mạnh và yếu của nghiên cứu .......................................................... 67
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 69
KIẾN NGHỊ .................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
RLCD
: Rối loạn cương dương
CLCS
: Chất lượng cuộc sống
IIEF (International Index of Erectile Function): Bảng chỉ số quốc tế về chức
năng cương dương vật
SF-36 (The 36-item Short Form Health Survey): Mẫu khảo sát sức khỏe 36
mục
CÁC THUẬT NGỮ Y HỌC – MEDICAL ITEMS
Tiếng Việt
Viết tắt
Ý nghĩa
English
Acronym
Mean
SKTC
Sức khỏe thể chất
PH
Physical Health
SKTT
Sức khỏe tinh thần
MH
Mental Health
HĐCN
Hoạt động chức năng
PF
Physical Function
GHCN
Giới hạn chức năng
RF
Role Physical
CNĐĐ
Cảm nhận đau đớn
BP
Bodily Pain
ĐGSK
Đánh giá sức khỏe
GH
General Health
CNSS
Cảm nhận sức sống
VT
Vitality
HĐXH
Hoạt động xã hội
SF
Social Function
GHTL
Giới hạn tâm lý
RE
Role Emotional
TTTQ
Tâm thần tổng quát
GM
General Mental
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Nguyên nhân rối loạn cương ............................................................ 7
Bảng 1.2. Bảng chỉ số quốc tế về chức năng cương dương vật ...................... 16
Bảng 1.3. Ý nghĩa 8 mục khảo sát Sức khỏe trong SF-36 .............................. 28
Bảng 3.1.1. Đặc điểm nhân khẩu học của người bệnh.................................... 41
Bảng 3.1.2. Mô tả bệnh mạn tính .................................................................... 45
Bảng 3.2.1. Đặc điểm lâm sàng của người bệnh............................................. 46
Bảng 3.2.2. Những mối liên quan đến rối loạn cương .................................... 47
Bảng 3.3.1. Điểm số 8 lĩnh vực CLCS của bệnh nhân theo SF - 36............... 49
Bảng 3.3.2. Điểm số 2 thành phần SKTC và SKTT của bệnh nhân theo
SF – 36 ........................................................................................... 50
Bảng 3.4.1. Mối liên quan giữa SKTC, SKTT và CLCS với đặc điểm chung
của người bệnh ............................................................................... 51
Bảng 3.4.2.1 Mối tương quan giữa 8 lĩnh vực CLCS với phân độ RLCD ......... 56
Bảng 3.4.2.2. Sự tương quan giữa rối loạn cương dương và chất lượng cuộc
sống ................................................................................................ 56
Bảng 3.4.2.3. Mối liên quan giữa SKTC, SKTT và CLCS với đặc điểm
lâm sàng của người bệnh................................................................ 57
Bảng 3.5. Tương quan tuyến tính giữa tuổi với điểm số SKTC, SKTT và
CLCS .............................................................................................. 60
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1. Tuổi ............................................................................................. 43
Biểu đồ 3.2. Nghề nghiệp................................................................................ 43
Biểu đồ 3.3. Tình trạng hôn nhân.................................................................... 44
Biểu đồ 3.4. Trình độ học vấn ......................................................................... 44
Biểu đồ 3.5. Điểm CLCS theo nhóm tuổi ....................................................... 54
Biểu đồ 3.6. Điểm CLCS theo nghề nghiệp.................................................... 54
Biểu đồ 3.7. Điểm CLCS theo tình trạng hôn nhân ........................................ 55
Biểu đồ 3.8. Điểm CLCS theo trình độ học vấn ............................................. 55
Biểu đồ 3.9. Điểm CLCS theo phân độ rối loạn cương dương ....................... 59
Biểu đồ 3.10. Điểm CLCS theo thời gian bị RLCD ....................................... 59
Biểu đồ 3.11. Tương quan tuyến tính giữa tuổi với điểm số SKTC ............... 60
Biểu đồ 3.12. Tương quan tuyến tính giữa tuổi với điểm số SKTT ............... 60
Biểu đồ 3.13. Tương quan tuyến tính giữa tuổi với điểm số CLCS ............... 61
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 1.1. Mặt cắt ngang của dương vật .......................................................... 10
Hình 1.2. Cơ chế sự cương dương vật tại xoang mạch máu ........................... 11
Hình 1.3. Cơ chế sự cương dương vật tại tế bào – chu trình NO- cGMP ...... 13
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 1.1. Mối tương quan giữa 8 lĩnh vực và hai thành phần sức khỏe thể
chất và tinh thần trong SF-36 ......................................................... 25
Mô hình 1.1. Cấu trúc của SF-36 .................................................................... 27
Sơ đồ 1.2. Mô hình lý thuyết chất lượng cuộc sống của Wilson và Cleary ... 31
Sơ đồ 1.3. Mô hình nghiên cứu chất lượng cuộc sống ................................... 32
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn cương dương (RLCD) là tình trạng người đàn ông không thể
đạt tới hay duy trì được sự cương dương vật đủ cứng để giao hợp thỏa mãn.
Rối loạn cương dương là một bệnh thường gặp. Theo nghiên cứu của
Feldman [24] về nam giới lão hóa được tiến hành trên 1290 đàn ông tuổi từ
40 – 70 ở Massachusetts từ năm 1986 – 1989 ghi nhận 52% có RLCD ở các
mức độ khác nhau, trong đó mức độ nhẹ 17,2%, trung bình 25,2% và nặng
9,6%. Tại Việt Nam tần suất RLCD năm 2002 khoảng 15,7% [2], đến năm
2007 nghiên cứu của Cao Vũ Triều Giang, Nguyễn Thành Như, Vũ Lê
Chuyên [3] cho thấy tỷ lệ RLCD là 33,9% ở bệnh nhân trên 40 tuổi.
Ngày nay có nhiều phương pháp điều trị rối loạn cương dương và đem
lại kết quả tốt [65], tuy nhiên, số bệnh nhân đến khám và điều trị còn thấp
mặc dù họ không hài lòng về chất lượng cuộc sống của mình [61]. Do ảnh
hưởng về mặt tâm lý nên đa số bệnh nhân RLCD thường giấu bệnh. Ở Mỹ, có
75% bệnh nhân không khai RLCD khi họ đi khám về niệu khoa vì cảm thấy
bối rối, 82% muốn bác sĩ hỏi và đề cập đến vấn đề RLCD của họ [15]. Ở Việt
Nam do ảnh hưởng về phong tục tập quán nên người RLCD thường giấu bệnh
và ngại khai với Bác sĩ mặc dù họ có nhu cầu điều trị [1]. Nghiên cứu của
Phạm Nam Việt [9] cho biết có 75,22% bệnh nhân RLCD ở bệnh nhân đái
tháo đường có nhu cầu điều trị bệnh.
Rối loạn cương dương thường đi kèm với biến chứng của các bệnh mạn
tính như bệnh tim mạch, đái tháo đường, cao huyết áp, suy thận mãn và bệnh
thần kinh [21]. Các nghiên cứu ngoài nước cho thấy tỷ lệ RLCD ở bệnh nhân
đái tháo đường là 64% [51], ở bệnh nhân tăng huyết áp là 35,29% [32], suy
thận mạn lọc máu định kỳ là 87,7% [55].
2
Tại Việt Nam tần suất rối loạn cương dương ở bệnh nhân suy thận mạn
lọc máu định kỳ là 76,33% [7], RLCD ở bệnh nhân đái tháo đường là 64,28%
[9], RLCD ở bệnh nhân tăng huyết áp là 66,83% [4].
Như vậy, cùng với việc gia tăng của các bệnh mạn tính thì tỷ lệ rối loạn
cương dương ngày càng gia tăng, chất lượng cuộc sống của nam giới càng bị
ảnh hưởng và nhu cầu điều trị rối loạn cương dương cũng tăng theo.
Mặc dù rối loạn cương dương không gây tử vong, cũng như không cần
xử trí cấp cứu nhưng ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống. Người bệnh
luôn luôn trong trạng thái mặc cảm tự ti, từ đó gây ra chán nản trong công
việc, trong các sinh hoạt giao tiếp đời thường, trầm cảm trong suy tư và là
nguồn gốc của nhiều chứng bệnh về thần kinh [5]. Bên cạnh đó RLCD còn
ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, hậu quả nặng nề là ly thân hoặc ly dị [23].
Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Chất lƣợng cuộc sống
của bệnh nhân rối loạn cƣơng dƣơng” để khảo sát chất lượng cuộc sống
của những người có rối loạn cương dương và xác định các yếu tố liên quan
3
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Có mối liên quan giữa chất lượng cuộc sống và các đặc điểm của
bệnh nhân bị rối loạn cương dương không?
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu tổng quát
Xác định chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan đến chất
lượng cuộc sống của những bệnh nhân bị rối loạn cương dương đến khám
tại phòng khám Nam khoa bệnh viện Bình Dân – Thành phố Hồ Chí Minh.
Mục tiêu cụ thể
1. Xác định chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân bị rối loạn
cương dương bằng bộ công cụ SF – 36.
2. Xác định mối liên quan giữa chất lượng cuộc sống và đặc điểm cá
nhân, đặc điểm lâm sàng của những bệnh nhân bị rối loạn cương
dương.
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về rối loạn cƣơng dƣơng
1.1.1. Định nghĩa
Rối loạn cương, thay thế cho từ bất lực, là tình trạng mà một người
đàn ông không thể đạt tới hay duy trì được sự cương dương vật đủ cứng để
giao hợp thỏa mãn [11], [34], [49]. Định nghĩa này giúp phân biệt rối loạn
cương với các thể rối loạn tình dục khác là rối loạn ham muốn tình dục, rối
loạn cực khoái và rối loạn cảm giác tình dục. Ngoài ra, tình trạng rối loạn
cương cần phải kéo dài hay lặp đi lặp lại trong ít nhất là 3 tháng hay 6
tháng [6]. Tuy nhiên, trên thực tế, những bệnh nhân trẻ tuổi thường đến
khám bệnh vì rối loạn cương sau một vài ngày dương vật cương không đạt
đủ cứng. Vì rối loạn cương thường đi kèm với những bệnh mạn tính như
tiểu đường, bệnh tim mạch, cao huyết áp và những bệnh tâm thần, thần
kinh khác [33], nên thầy thuốc thuộc nhiều lĩnh vực chuyên khoa khác
nhau đều có thể gặp những bệnh nhân này. Rối loạn cương có ảnh hưởng
xấu trên sự tự tin của bản thân, chất lượng sống và có thể gây tổn hại cho
mối quan hệ vợ chồng.
Rối loạn cương nguyên phát là tình trạng rối loạn cương xảy ra từ
khi trưởng thành, trong khi rối loạn cương thứ phát là tình trạng mất khả
năng cương bình thường trước đó. Rối loạn cương chủ yếu do căng thẳng
tâm lý và chiếm khoảng 10% - 50% các trường hợp rối loạn cương. Rối
loạn cương thực thể là rối loạn cương chủ yếu gây ra do các mạch máu,
thần kinh, nội tiết hay bệnh thực thể khác, chiếm khoảng 50% - 80% các
trường hợp. Đa số đàn ông bị rối loạn cương vừa có yếu tố tâm lý, vừa có
yếu tố thực thể, và một kế hoạch điều trị hoàn chỉnh cần phải lưu ý tới
điểm này [6].
5
Rối loạn cương là một bệnh do nhiều nguyên nhân khác nhau. Không
một bài thuốc nào điều trị được tất cả các rối loạn cương [2].
1.1.2. Nguyên nhân
Chức năng cương bình thường đòi hỏi sự phối hợp của các yếu tố sinh
lý, nội tiết, thần kinh, mạch máu và thể hang. Sự biến đổi của bất cứ thành
phần nào trong các yếu tố trên đều có thể gây ra rối loạn cương (Bảng 1.1.).
Một loạt các vấn đề về thể chất và tâm lý hay tình cảm có thể gây ra rối loạn
cương dương. Nguyên nhân thể chất bao gồm thiệt hại cho các dây thần kinh,
mạch máu, cơ trơn, và các mô xơ trong dương vật. Bệnh và rối loạn gây ra
thiệt hại và có thể dẫn đến rối loạn cương dương bao gồm:
Huyết áp cao
Bệnh tiểu đường, một nhóm phức tạp của bệnh đặc trưng do đường
huyết cao, cũng được gọi tăng đường huyết
Xơ vữa động mạch, sự tích tụ của một chất được gọi là mảng bám ở
bên trong của động mạch
Bệnh tim và mạch máu
Bệnh thận mạn tính
Đa xơ cứng, một bệnh tự miễn dịch tấn công các dây thần kinh
Chấn thương từ phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt, kể cả xạ
trị và phẫu thuật tuyến tiền liệt
Tổn thương dương vật, tủy sống, tuyến tiền liệt, bàng quang, hoặc
khung xương chậu
Phẫu thuật ung thư bàng quang
Bệnh Peyronie, một rối loạn trong đó các vết sẹo, gọi là mảng bám, các
hình thức trong dương vật
6
Lựa chọn lối sống, chẳng hạn như hút thuốc, uống quá nhiều rượu, sử
dụng ma túy bất hợp pháp, thừa cân, và không tập thể dục, có thể dẫn đến
RLCD.
Các vấn đề về tâm lý hoặc tình cảm cũng có thể gây ra cho rối loạn
cương, chẳng hạn như:
Lo âu
Trầm cảm
Nỗi sợ thất bại tình dục
Có lỗi
Lòng tự trọng thấp
Căng thẳng
Ngay cả khi rối loạn cương có một nguyên nhân thể chất, yếu tố tâm lý
hay tình cảm có thể làm cho tình trạng tồi tệ hơn. Ví dụ, một vấn đề thể chất
làm chậm sự kích thích tình dục của một người đàn ông có thể tạo ra sự lo
lắng và làm trầm trọng thêm tình trạng rối loạn cương.
Ngoài ra, rối loạn cương có thể là một tác dụng phụ của nhiều loại
thuốc thông thường như thuốc hạ huyết áp, thuốc kháng histamin, thuốc
chống trầm cảm, thuốc an thần, thuốc gây chán ăn, và thuốc loét [49].
Sự phối hợp nhiều yếu tố gây rối loạn cương cũng thường gặp.
Trước đây, trong những năm 50, 90% trường hợp rối loạn cương được
nghĩ là do nguyên nhân tâm lý, nhưng hiện nay, rối loạn cương được biết là
do bệnh thực thể gây ra, nhất là bệnh nhân lớn tuổi. Tuy nhiên dạng phối hợp
giữa hai yếu tố thực thể và tâm lý là hay gặp nhất. Hiện tại, đa số các biện
pháp điều trị rối loạn cương là không đặc hiệu, có thể áp dụng cho đa số
những trường hợp rối loạn cương cho dù nguyên nhân gì, chỉ còn ba nguyên
nhân có điều trị đặc hiệu là rối loạn cương do tâm lý, suy tuyến sinh dục và
một vài dạng đặc biệt của rối loạn cương mạch máu [6].
7
Bảng 1.1. Nguyên nhân rối loạn cương
Nguyên nhân
Ví dụ
Tuổi cao
Rối loạn tâm lý
Trầm cảm, lo lắng.
Rối loạn thần kinh
Bệnh não, chấn thương tủy sống, bệnh cột sống,
bệnh thần kinh ngoại vi, tổn thương thần kinh thẹn.
Rối loạn nội tiết
Suy tuyến sinh dục, cường prolactin huyết, cường
hay suy giáp, hội chứng Cushing, bệnh Addison.
Rối loạn mạch máu Xơ vữa mạch máu, bệnh tim thiếu máu, bệnh mạch
máu ngoại vi, suy tĩnh mạch, bệnh lý thể hang.
Do thuốc
Thuốc hạ áp, thuốc chống trầm cảm (giảm ham
muốn), estrogen và các thuốc kháng androgen
(giảm ham muốn), digoxin.
Thói quen
Ma túy, nghiện rượu, hút thuốc lá.
Bệnh khác
Đái tháo đường, suy thận, tăng lipit máu, cao huyết
áp, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
1.1.3. Tình hình rối loạn cƣơng dƣơng trong dân số
Trên toàn thế giới, ước tính mức độ phổ biến của rối loạn cương từ 2%
ở nam giới dưới 40 tuổi đến 86% ở nam giới từ 80 tuổi trở lên. Prins và cộng
sự [53] đã khảo sát một cách hệ thống 23 nghiên cứu (trong đó 15 nghiên cứu
của châu Âu, 5 của Mỹ, 2 của châu Á và 1 của Úc) và báo cáo tần suất rối
loạn cương trong nghiên cứu dựa trên dân số. Họ phân tích một số nhược
điểm trong các nghiên cứu cụ thể là nghiên cứu về tần suất nhưng không phân
loại bệnh nhân rối loại cương thành các nhóm tuổi khác nhau hoặc không đề
cập đến mức độ nghiêm trọng của rối loạn cương (nhẹ, trung bình, nặng). Tần
suất của rối loạn cương trong từng nhóm tuổi không được báo cáo trong tất cả
8
các nghiên cứu, điều này gây khó khăn cho việc đưa ra kết luận một cách
chắc chắn về tần suất của rối loạn cương của từng nhóm tuổi. Dù vậy nhóm
nghiên cứu cũng phác thảo cho ta một cái nhìn khái quát về mức độ rối loạn
cương: 7% những người nam có độ tuổi từ 18- 29, 2-9% những người nam có
độ tuổi 30-39, 9-11% nam có độ tuổi 40-49, 16-18% nam có độ tuổi 50-59,
khoảng 34% những người nam có độ tuổi 60-69, và 53% trong số những
người nam có độ tuổi 70-80.
Tần suất rối loạn cương cũng khác nhau giữa các quốc gia, các châu lục
và các dân tộc. Tại Mỹ, trong một nghiên cứu trên 2.173 nam giới từ 40 tuổi
trở lên thuộc ba nhóm dân số (người da trắng không có nguồn gốc Tây Ban
Nha, người da màu không có nguồn gốc Tây Ban Nha và người có nguồn gốc
Tây Ban Nha), Lawmann và cộng sự [39] đã đưa ra kết quả tần suất rối loạn
cương ở người gốc Tây Ban Nha là 19,9%, trong khi ở nhóm người da trắng
là 21,9% và ở nhóm da màu tăng lên đến 24,4%.
Trong một nghiên cứu khác quy mô hơn, Selvin và cộng sự [59] đã
công bố tần suất rối loạn cương ở nam giới từ 20 tuổi trở lên tại Mỹ là 18,4%
cho thấy rối loạn cương ảnh hưởng tới 18 triệu nam giới tại Mỹ, trong khi tỷ
lệ này ở Áo là 32,2% [52] và tại Tây Ban Nha là 12,1% [44].
Trong một nghiên cứu về tần suất rối loạn cương theo độ tuổi ở nam
giới Nhật Bản, Marumo và cộng sự [45] đã tiến hành khảo sát trên 2.311 đối
tượng nam giới là nhân viên của 11 công ty đặt trụ sở tại Tokyo, Kyoto và
Osaka cùng với bố của các nhân viên của 1 công ty đặt tại Tokyo. Độ tuổi của
các đối tượng giao động từ 23-71% ở nhóm các nhân viên, và 60-79% ở các
ông bố. Tần suất rối loạn cương ở nhóm vừa và nặng được báo cáo là 1,8% và
0% ở nhóm tuổi 23-29, 2,6% và 0% ở nhóm tuổi 30-39, 7,6% và 1% ở nhóm
tuổi 40-49, 14% và 6% cho nhóm tuổi 50-59, 25,9% và 15,9% cho nhóm
tuổi 60-69, chiếm 27,9% và 36,4% của nhóm tuổi 70-79.
9
Tại Trung Quốc, một nghiên cứu trên 2.226 nam giới tuổi từ 20-86 ở 3
thành phố lớn, Bai Quan và cộng sự [14] đã báo cáo tần suất rối loạn cương là
28,3%, trong đó nhóm rối loạn cương nhẹ là 15,9%, nhóm trung bình 7,1% và
5,2% ở nhóm nặng. Riêng với nhóm nam giới từ 40 tuổi trở lên, tần suất tăng
vọt 40,2%.
Tại Malaisia, Low và cộng sự [43] báo cáo sự khác biệt về kiến thức,
thái độ, thực hành trong dự phòng và điều trị rối loạn cương ở nam giới từ ba
nhóm dân tộc khác nhau ở trong nước (Mã Lai, Trung Quốc và Ấn Độ) tuy
không báo cáo tỷ lệ % của mỗi nhóm nhưng nghiên cứu cho thấy sự khác biệt
về nhận thức, cũng như thái độ thực hành về rối loạn cương của các chủng tộc
khác nhau dù cùng sinh sống trên cùng một nước.
Sự phổ biến trên toàn thế giới của rối loạn chức năng cương dương
(RLCD) là rất cao và dự kiến sẽ tăng đáng kể trong vòng 25 năm
tới. Aytac và cộng sự [13] đã áp dụng các kết quả của Nghiên cứu Lão hóa
Nam giới tại Massachusetts (MMAS) vào số liệu dân số thế giới và ước tính
rằng tỷ lệ trên toàn thế giới của rối loạn cương năm 1995 vượt quá 152 triệu
người, và con số này sẽ đạt 322 triệu vào năm 2.025.
Ngoài ra, tần suất rối loạn cương còn có thể thay đổi tùy thuộc vào việc
ta sử dụng hệ thống đánh giá khác nhau.
Tại Việt Nam, Phạm Văn Trịnh [8] cho kết quả nghiên cứu trên 764
nam giới có vợ là 15,7% bị rối loạn cương.
Xuất phát từ tập tục, văn hóa Á Đông, bệnh nhân có tâm lý mặc cảm,
thường giấu cả người thân và bác sĩ về tình trạng bệnh của họ. Tuy nhiên, trong
thời gian gần đây, số bệnh nhân đến viện khám và tư vấn ngày càng tăng, phần
nào chứng minh bệnh nhân đã ý thức được tầm quan trọng của bệnh đến đời
sống gia đình.
10
Năm 1992, phòng khám Nam khoa được thành lập tại bệnh viện Bình
Dân và phòng khám Nam học thuộc Bệnh viện Việt Đức cũng được khánh
thành. Đến 2005, hai bệnh viện trên đã nâng tầm quy mô và chức năng phòng
khám Nam khoa thành Khoa Nam học, góp phần giải quyết ngày càng nhiều
các nhu cầu về khám chữa bệnh nam khoa trong xã hội.
1.1.4. Sinh lý cƣơng dƣơng vật
Hình 1.1. Mặt cắt ngang của dương vật
Cương dương vật là một hiện tượng mạch máu – thần kinh được điều
khiển do các yếu tố tâm lý và tình trạng nội tiết [12]. Trong trạng thái xìu,
các cơ trơn của động mạch dương vật và thể hang nằm trong tình trạng
trương lực (co thắt). Khi có kích thích tình dục, các xung động thần kinh
làm phóng thích các chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitters) từ các
tận cùng thần kinh hang và các yếu tố giãn cơ từ các tế bào nội mạc dương
vật, đưa đến giãn cơ trơn động mạch và tiểu động mạch nuôi dưỡng mô
cương và làm tăng dòng máu đến dương vật gấp nhiều lần [6]. Cùng lúc, sự
giãn cơ trơn bè làm tăng suất đàn của các xoang, tạo điều kiện cho hệ
thống các xoang được giãn nở và đổ đầy nhanh chóng. Áp suất động mạch
ép lên thành các xoang, do đó ép lên bao trắng làm bao dài ra đồng thời ép
- Xem thêm -