BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP HỒ CHÍ MINH
-----------------
LÝ HOÀI TÂM
CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ
ÁP XE THẬN VÀ ÁP XE QUANH THẬN
Chuyên ngành: Ngoại Khoa (Ngoại Niệu)
Mã số: 60.72.01.23
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. NGÔ XUÂN THÁI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - Năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả
Lý Hoài Tâm
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục một số thuật ngữ Anh-Việt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
Danh mục các hình
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU.................................................................... 3
1.1
Giải phẫu học ứng dụng của thận và khoang quanh thận: ........................ 3
1.2
Lịch sử nghiên cứu: ........................................................................................ 6
1.3
Những khái niệm cơ bản: .............................................................................. 7
1.4
Áp xe thận: ...................................................................................................... 8
1.5
Áp xe quanh thận ......................................................................................... 16
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................... 25
2.1
Đối tượng nghiên cứu: ................................................................................. 25
2.2
Phương pháp nghiên cứu: ........................................................................... 25
2.3
Vấn đề y đức: ................................................................................................ 35
2.4
Lợi ích mong đợi: ......................................................................................... 35
Chương 3: KẾT QUẢ ........................................................................................... 36
3.1.
Đặc điểm bệnh nhân: ................................................................................... 36
3.2.
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng: ......................................................... 38
3.3.
Đặc điểm vi khuẩn trong AXT và AXQT:................................................. 46
3.4.
Kết quả điều trị: ........................................................................................... 56
Chương 4: BÀN LUẬN ........................................................................................ 67
4.1.
Đặc điểm bệnh nhân: ................................................................................... 67
4.2.
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng: ......................................................... 69
4.3.
Đặc điểm vi khuẩn trong AXT và AXQT .................................................. 73
4.4.
Bàn luận về điều trị...................................................................................... 79
KẾT LUẬN............................................................................................................ 83
KIẾN NGHỊ .......................................................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục 1: Bệnh án nghiên cứu
Phụ lục 2: Chấp thuận của hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại
học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
Phụ lục 3: Danh sách bệnh nhân tham gia nghiên cứu tại BV Chợ Rẫy
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AXHH
: Áp xe hỗn hợp
AXQT
: Áp xe quanh thận
AXT
: Áp xe thận
BC
: Bạch cầu
BN
: Bệnh nhân
ĐTĐ
: Đái tháo đường
HC
: Hồng cầu
KS
: Kháng sinh
KSĐ
: Kháng sinh đồ
NKBV
: Nhiễm khuẩn bệnh viện
NKCĐ
: Nhiễm khuẩn cộng đồng
NKĐTN
: Nhiễm khuẩn đường tiết niệu
NKH
: Nhiễm khuẩn huyết
NKLQCSYT
: Nhiễm khuẩn liên quan chăm sóc y tế
TH
: Trường hợp
VK
: Vi khuẩn
YTNC
: Yếu tố nguy cơ
DANH MỤC MỘT SỐ THUẬT NGỮ ANH – VIỆT
Ascendant infection
:Nhiễm khuẩn ngược dòng
EAU
:Hội Tiết niệu Châu Âu
Emperical antimicrobial therapy
:Điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm
ESBL
:Men betalactam phổ rộng
MRSA
:Tụ cầu kháng Methicillin
Perinephric abscess
:Áp xe quanh thận
Perinephritic phlegmon
:Viêm tấy quanh thận
Phlegmon
:Viêm tấy
Renal abscess
:Áp xe thận
Renal carbuncle
:Nhọt thận
SMART
:Nghiên cứu giám sát khuynh hướng
đề kháng kháng sinh
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1 : Phân bố bệnh nhân theo nhóm tuổi. .................................................. 36
Biểu đồ 3.2: Tỉ lệ nhạy của E.coli với kháng sinh theo kháng sinh đồ. ................. 51
Biểu đồ 3.3: Tỉ lệ nhạy với kháng sinh của E.coli tiết ESBL và không tiết ESBL. 52
Biểu đồ 3.4 : Tỉ lệ nhạy của Klebsiella spp. với kháng sinh theo kháng sinh đồ ... 53
Biểu đồ 3.5: Tỉ lệ nhạy cảm kháng sinh của Klebsiella spp. tiết ESBL và không
tiết ESBL ....................................................................................................... 54
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Thiết đồ đứng dọc qua khoang sau phúc mạc........................................... 4
Hình 1.2: Thiết đồ cắt ngang qua khoang sau phúc mạc bên phải ........................... 5
Hình 1.3: Hình ảnh áp xe thận .................................................................................. 8
Hình 1.4: Áp xe quanh thận .................................................................................... 17
Hình 1.5: Cơ chế gây áp xe quanh thận .................................................................. 19
ĐẶT VẤN ĐỀ
Áp xe thận và áp xe quanh thận là những thể đặc biệt của nhiễm khuẩn ở
thận, là hậu quả của tình trạng nhiễm khuẩn trong hoặc quanh thận [49]. Bệnh
xảy ra ở mọi lứa tuổi với các hình thái lâm sàng đa dạng. Tại Mỹ, tần suất của áp
xe thận hoặc áp xe quanh thận dao đ ộng từ 0,9-13 trên mỗi 10000 trường hợp
nhập viện hàng năm, với tỉ lệ tử vong 21- 56 % [74].
Việc chẩn đoán và điều trị áp xe thận và áp xe quanh thận vẫn còn là một
thách thức không nhỏ đối với các bác sĩ do triệu chứng lâm sàng mờ nhạt và kém
đặc hiệu. Chỉ 15-25% bệnh nhân được chẩn đoán chính xác ở thời điểm nhập viện
[82]. Chẩn đ oán và xử trí chậm trễ sẽ đưa đ ến những biến chứng nặng nề cho
người bệnh như áp xe dưới hoành, tràn mủ màng phổi, rò vào đường tiêu hoá, áp
xe cơ thắt lưng chậu, vỡ vào ổ bụng gây viêm phúc mạc nhiễm khuẩn thứ phát,
hoặc nhiễm khuẩn huyết, nếu nhiễm khuẩn nặng có thể tiến triển đến suy thận và
đòi hỏi phẫu thuật cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ thận. Những biến chứng này có
tiên lượng xấu và tỉ lệ tử vong cao. Vì thế vấn đ ề cấp thiết là làm sao đ ể chẩn
đoán sớm và chính xác áp xe thận cũng như áp xe quanh thận.
Điểm then chốt của điều trị áp xe thận và áp xe quanh thận là dẫn lưu có
hiệu quả và kháng sinh trị liệu tối ưu. Điều trị kinh điển cho áp xe thận gồm phẫu
thuật thám sát, dẫn lưu hoặc cắt thận[31]. Tuy nhiên, với sự ra đời của điều trị ít
xâm hại vào đầu những năm 1970, và xu hướng điều trị bảo tồn ngày càng phổ
biến hơn nhờ vào sự tiến bộ trong kỹ thuật hình ảnh và kháng sinh thế hệ
mới[47]. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm điều trị khác nhau và hiện
chưa có một phác đ ồ hướng dẫn đi ều trị thống nhất cho các bác sĩ lâm sàng.
1
Trong Hướng dẫn điều trị nhiễm khuẩn đường tiết niệu của hội Tiết Niệu Châu
Âu năm 2016 vẫn chưa có hướng dẫn điều trị cụ thể áp xe thận và áp xe quanh
thận. Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về áp xe thận và áp xe
quanh thận. Với những đặc thù riêng về vi khuẩn học của nước ta, nên các hướng
dẫn thực hành kháng sinh của nước ngoài về nhiễm khuẩn tiết niệu không thể áp
dụng trong mọi tình huống ở Việt Nam[1],[18],[29],[36],[53],[54]. Tại Việt Nam
đã có những báo cáo riêng lẽ nhưng chưa có một báo cáo tổng kết. Bên cạnh đó
sự ra đời của những thế hệ kháng sinh mới đã làm thay đổi về phổ vi khuẩn gây
bệnh. Do đó cần thiết phải có nghiên cứu để giúp người bác sĩ có định hướng về
chọn lựa kháng sinh điều trị theo kinh nghiệm cho phù hợp.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này
với mục tiêu: Đánh giá kết quả chẩn đ oán và đi ều trị áp xe thận và áp xe
quanh thận. Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu này bao gồm:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của áp xe thận và áp xe quanh
thận
2. Đánh giá kết quả điều trị của áp xe thận và áp xe quanh thận.
2
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1
Giải phẫu học ứng dụng của thận và khoang quanh thận:
Vị trí của thận trong khoang sau phúc mạc thay đổi rất lớn theo bên, mức
độ hít vào, tư thế cơ thể, và sự hiện diện của các bất thường giải phẫu.
Thận phải nằm thấp hơn thận trái khoảng 1-2 cm ở hầu hết các trường hợp,
và nguyên nhân là do gan đẩy xuống. Thận phải nằm trong khoang giữa bờ trên
đốt sống lưng 1 và bờ dưới đốt sống lưng thứ 3. Thận trái nằm trong một khoang
cao hơn từ thân đốt sống ngực 12 đến đốt sống lưng 3. Những cấu trúc bao quanh
thận là những mốc quan trọng về mặt phẫu thuật.[4]
Cả hai thận đều được cơ bao bọc giống nhau. Phía sau, cơ hoành phủ lấy
1/3 trên của mỗi thận, xương sườn 12 cắt ngang ở phần mở rộng phía dưới của cơ
hoành. Bên trong, 2/3 dưới của thận nằm tựa vào cơ psoas, ở phía ngoài cơ vuông
thắt lưng và cân của cơ ngang bụng thì dính vào nhau.
Cực dưới của thận nằm ra ngoài và ra trước hơn so với cực trên. Bờ trong
của thận xoay ra trước 1 góc khoảng 30 độ. Sự hiểu biết về định hướng của thận
rất cần thiết trong các phẫu thuật thận qua da, vì sự định hướng của thận ảnh
hưởng đến vị trí chọn lựa để tiếp cận.
Áp xe thận phát triển bên dưới vỏ bao thận, tình trạng nhiễm trùng không
được điều trị và bùng phát nhanh chóng có thể làm vỡ vỏ bao và ảnh hưởng đến
khoang quanh thận cũng như sau phúc mạc. Vị trí của thận nằm sau phúc mạc, sự
lan rộng nhiễm trùng tác động xấu đến những cấu trúc quan trọng như tuỵ, ruột,
đại tràng, thượng thận do sự tương quan giải phẫu. Một khi nhiễm trùng lan đến
3
khoang quanh thận , bắt buộc phải dẫn lưu qua da hoặc dẫn lưu mở. Do đó việc
xác đ ịnh và đi ều trị áp xe thận trước khi sự xâm lấn qua vỏ bao xảy ra, có thể
ngăn ngừa sự lan rộng nhiễm trùng vào khoang quanh thận và sau phúc mạc
nhằm tránh những biến chứng trầm trọng hơn [39].
Hình 1.1: Thiết đồ đứng dọc qua khoang sau phúc mạc.
( Nguồn: David P. Viprakasit, Anthony J. Schaeffer (2010), "Renal and retroperitoneal
abscesses", Glenn's Urologic Surgery 7th, Lippin Cott William& Wilkins, pp. 83-90.[45])
Cân Gerota hay mạc quanh thận nằm xen giữa thận và những cấu trúc bao
quanh nó. Lớp cân này bao lấy mỡ quanh thận và thận ở 3 phía: trên, trong,
4
ngoài. Ở phía trên và phía ngoài, cân Gerota chập lại vào nhau, nhưng ở phía
trong nó trải rộng qua đường giữa để hoà vào bên đối diện. Phía dưới cân Gerota
không chập lại và tạo nên một khoang mở. Cân Gerota hoạt động như là một rào
cản giải phẫu đối với sự lan rộng của ung thư và nó cũng là một phương tiện để
chứa đ ựng dịch tích tụ quanh thận. Do đ ó tụ dịch quanh thận có thể lan xuống
vùng chậu mà không phá huỷ Gerota.
Hình 1.2: Thiết đồ cắt ngang qua khoang sau phúc mạc bên phải
( Nguồn: James Kyle Anderson and Jeffrey A. Cadeddu(2012), “Surgical Anatomy of
the Retroperitoneum Adrenals, Kidneys, and Ureters”, Campbell-Walsh Urology, section 1,
10th edition [68].)
Mạc thận gồm 2 lá, chia khoang sau phúc mạc thành 3 khoang nhỏ[70]:
1. Khoang cạnh thận phía trước: Khoang cạnh thận phía trước trải từ phía
sau phúc mạc đến lá trước của cân Gerota.
2. Khoang quanh thận: Khoang quanh thận nằm giữa 2 lá của cân Gerota.
Cân Gerota bao lấy thận và tuyến thượng thận cùng với mỡ, mạch máu và bạch
5
huyết. Lá trước của mạc thận còn gọi là mạc Zuckerkandl trải rộng ra trước bên
và sau đ ó hoà vào phúc mạc thành. Phía sau, mạc thận hoà vào cơ vuông thắt
lưng ở phía trong. Khoang quanh thận hẹp dần về phía dưới, trở thành hình nón
khi nó hoà vào mạc chậu. Khoang quanh thận yếu nhất ở phía dưới-trong, vì thế
dịch mủ có thể lan rộng qua đường giữa và vào vùng chậu.
3. Khoang cạnh thận phía sau: Khoang này kéo dài từ mạc thận phía sau
đến mạc trước cơ psoas và cơ vuông thắt lưng.
Khoang quanh thận nằm ở vị trí trung tâm của khoang sau phúc mạc nên có
vai trò quan trọng trong việc giới hạn cũng như lan truyền các bệnh lý ở vùng
này. Khoang quanh thận có nguồn cung cấp máu phong phú từ vô số mạch máu
xuyên nhỏ qua lớp mỡ quanh thận[50].
1.2
Lịch sử nghiên cứu:
Điều trị áp xe quanh thận xuất hiện vào khoảng năm 460 trước công
nguyên, ở thời đại của Hippocrates.
Trường hợp áp xe quanh thận đ ầu tiên được ghi lại trong y văn vào năm
1474, khi vua Louis XI phóng thích phạm nhân Franco Archer, để bác sĩ Germain
Colot mổ dẫn lưu áp xe quanh thận cho anh ta, bệnh nhân khỏi bệnh. Trong 300
năm sau đ ó, những nhà ngoại khoa tiếp tục mổ vùng hông lung đ ể dẫn lưu áp
xe[78].
Năm 1757, Hevin đã chứng minh những ổ áp xe vùng lưng này có liên
quan đến khoang quanh thận, và thường đi kèm với sỏi thận. Kể từ đó, mổ mở
dẫn lưu đư ợc xem là đ iều trị kinh đi ển của áp xe thận và áp xe quanh
thận[74],[76],[78].
Năm 1905, một bác sĩ người Israel lần đầu tiên mô tả bệnh học của áp xe
6
thận tại Hiệp hội các phẫu thuật viên tự do ở Berlin[23].
Đầu những năm 1970, trong y văn ghi nhận một số báo cáo riêng lẽ về điều
trị thành công áp xe thận bằng phương pháp dẫn lưu qua da. Các bác sĩ chọc dò
để chẩn đoán những khối bướu ở thận, những trường hợp chẩn đoán là áp xe thận,
việc chọc dò là phương pháp điều trị[76].
Hiện nay, xu hướng điều trị AXT và AXQT là điều trị bảo tồn. Can thiệp
niệu khoa chỉ được chỉ định trong những trường hợp có bất thường về cấu trúc
hoặc ổ áp xe kích thước quá lớn, không thể điều trị thành công với kháng sinh
đơn thuần[14].
1.3
Những khái niệm cơ bản:
Trên phương diện giải phẫu học, AXT được chia làm áp xe vùng vỏ và áp
xe vùng vỏ tuỷ. Nhiễm khuẩn lan theo đường máu có xu hướng gây áp xe vùng
vỏ thận nhiều hơn do sự cấp máu và bạch huyết phong phú ở vùng này. Tuy
nhiên việc phân chia này không có giá trị lâm sàng[74]. Áp xe vùng vỏ thận được
sử dụng đồng nghĩa với nhọt thận, hầu hết là do tụ cầu[58].
Nhọt thận: Khi biết rõ ràng nguyên nhân gây mủ ở nhu mô thận do tụ cầu
từ các ổ nhiễm khuẩn như mụn nhọt ở da. Thực tế áp xe thận và nhọt thận chỉ
khác nhau về nguồn gốc, còn bệnh lý và lâm sàng đều giống nhau, cho nên hiện
nay được gọi chung là áp xe thận[6].
Viêm tấy: theo từ điển bách khoa Larousse, viêm tấy là tình trạng viêm cấp
tính hoặc bán cấp của mô liên kết dưới da hoặc các mô nằm sâu hơn. Viêm tấy do
nhiễm khuẩn gây phá huỷ mô và tạo mủ, viêm tấy lan toả tạo thành áp xe.
Trước đây, một số tài liệu tiếng Pháp sử dụng thuật ngữ viêm tấy quanh
thận để mô tả sự tụ dịch áp xe ở khoang quanh thận [83],[84],[85], hiện nay trong
7
những sách giáo khoa Tiết niệu nổi tiếng nhất thế giới đều sử dụng thuật ngữ áp
xe quanh thận thay thế cho viêm tấy quanh thận[67],[68],[72].
Áp xe cạnh thận là sự tích mủ ở lớp mỡ cạnh thận, ngoài cân Gerota, bệnh
này ít gặp và khó chẩn đ oán trước phẫu thuật, vì vậy trên lâm sàng nên xem
khoang quanh thận về mặt phẫu thuật bao gồm khoang quanh thận và cạnh thận
trên giải phẫu học[25].
1.4
Áp xe thận:
1.4.1. Định nghĩa:
Áp xe là sự tích tụ và nung mủ bên trong mô, cơ quan hay một vùng của cơ
thể. Áp xe có thể vi thể hoặc đại thể. Ða số các ổ áp xe là cấp tính nhưng có một
số trường hợp là mạn tính [10],[11],[33].
Áp xe thận là sự tích mủ trong nhu mô thận, là hậu quả của tình trạng
nhiễm khuẩn trầm trọng dẫn đến hoá dịch của nhu mô thận, vùng bị tổn thương
sau đó sẽ được bao lại, tạo thành áp xe [67],[68].
Hình 1.3: Hình ảnh áp xe thận
(Nguồn: Christopher R. K., Jaime L. (2012), "Urinary tract infections", The Netter collection
of medical illustrations: Urinary System, Elsevier's Health Science, pp. 172-175. [16])
8
1.4.2 Nguyên nhân:
Theo
y
văn
có
hai
cơ
chế
cho
sự
tạo
thành
áp
xe
thận[15],[23],[32],[43],[50],[75]. Cơ chế thứ nhất sự xâm nhập của vi khuẩn là
đường máu, từ một ổ nhiễm trùng nguyên phát, thường là nhiễm trùng ở da (nhọt
da, chín mé,..) hoặc đường hầu họng, vi trùng từ đó xâm nhập vào máu và dừng
lại ở một số nơi có máu nuôi phong phú như chủ mô thận, đ ặc biệt là vùng vỏ
thận hay đầu của các xương dài như xương chày và gây ra ổ áp xe ở đó. Ngoài ra
viêm xương tuỷ xương, áp xe vú, côn trùng đốt, nhổ răng là những vị trí nhiễm
trùng nguyên phát ít phổ biến hơn. Truớc kỉ nguyên kháng sinh, sự lan truyền của
vi khuẩn theo đư ờng máu đư ợc xem là cơ chế chính của sự tạo thành áp xe.
Staphylococci là tác nhân gây bệnh nổi trội trong những ổ áp xe. Áp xe thận do
lan truyền theo đường máu thường dưới dạng nhiều ổ, và ảnh hưởng 2 thận [57].
Cơ chế thứ hai là vi khuẩn xâm nhập vào thận theo đường ngược dòng từ đài
bể thận vào mô kẽ, gây ra viêm thận kẽ ở một vùng kế cận với đài thận, và không
được điều trị tốt, ổ viêm sẽ áp xe hoá và trở thành áp xe thận. Trong cơ chế này,
tác nhân gây bệnh thường là những vi khuẩn hay gặp trong nhiễm khuẩn đường
tiết niệu (Escherichia Coli, Proteus và Pseudomonas). Ngày nay, hầu hết các
trường hợp áp xe thận là hậu quả của viêm thận bể thận [73]. Từ sau năm 1975,
dịch tể học và tác nhân gây bệnh trong áp xe thận đã đồng thời thay đổi với sự gia
phát triển của kháng sinh, các bệnh lý nhiễm khuẩn ở thận được điều trị tốt ngay
từ đầu nên áp xe thận do vi trùng mưng mủ hầu như ít gặp.
Vi khuẩn thường xâm nhập vùng vỏ hơn vùng tuỷ là do sự cung cấp máu dồi
dào, áp lực mô kẽ thấp và dẫn lưu bạch huyết nhiều hơn. Một áp xe thận do viêm
thận bể thận do vi khuẩn Gram (-) khó có thể tạo thành nếu thận không bị tổn
thương hoặc hệ thống bài tiết nước tiểu không bị tắc nghẽn hoàn toàn. Bệnh nhân
9
bị tiểu đường, những người được lọc máu hoặc người nghiện ma tuý đường tĩnh
mạch thì có nguy cơ cao tiến triển thành áp xe thận[73]. Với sự tiến bộ về hiệu
quả kháng sinh, và kiểm soát tốt hơn các bệnh tiểu đường, suy thận, áp xe thận và
áp xe quanh thận do vi khuẩn Gram (+) ít gặp hơn, những trường hợp do E. Coli,
Proteus trở nên phổ biến hơn.
Một số tác giả cho rằng áp xe thận có thể thứ phát do sự lan rộng trực tiếp từ
khu vực bị nhiễm trùng kế cận, hoặc theo đường bạch huyết. Tuy nhiên 2 cơ chế
này chưa có bằng chứng rõ ràng.
Bệnh nhân bị tiểu đường thì ở nguy cơ cao đối với nhiễm khuẩn, đặc biệt là
nhiễm khuẩn xuất phát từ đường tiết niệu. Tiểu đường gây ra nhiều thay đổi trong
hệ thống đề kháng của cơ thể, khiếm khuyết chức năng bạch cầu trung tính, tăng
sự bám dính của vi khuẩn vào tế bào niệu mạc và giảm hoạt động chống vi khuẩn
do sự hiện diện đường trong nước tiểu. Hậu quả là bệnh nhân bị tiểu đường có xu
hướng nhiễm khuẩn đường tiết niệu cao hơn, và nguy cơ tiến triển những hậu quả
nặng nề như áp xe, hoại tử nhú thận, viêm thận bể thận, viêm bàng quang sinh khí
cao hơn. Gần 10% các trường hợp áp xe thận có kèm bệnh tiểu đường. Bệnh nhân
lọc máu, tiêm chích ma tuý, ghép thận cũng có nguy cơ cao tiến triển thành áp xe
thận [41],[73]. Áp xe thận thường xảy ra ở một cực thận, thường là cực trên, bên
phải thường gặp hơn, khoảng 2 % các trường hợp bị 2 bên[26],[39]. Các tác nhân
gây bệnh hiếm gặp khác đ ã đư ợc báo cáo: vi khuẩn vị khí, nấm Aspergillus,
Actinomyces, Amibe, Brucella [15],[17],[34],[38],[40],[51],[58],[60].
1.4.3. Giải phẫu bệnh:
Về đại thể, khi vi khuẩn xâm nhập vào nhu mô thận có thể gây một ổ mủ
duy nhất, thường hay gặp ở cực trên thận phải và hay gặp ở người trẻ tuổi, ở nam
nhiều gấp 2 lần nữ giới. Nhiều khi vi khuẩn có thể gây ổ mủ ở nhiều nơi, ở một
10
thận hoặc cả 2 thận, tiên lượng nặng hơn. Các ổ mủ thường không thông với
đường bài tiết, trừ khi ổ mủ vỡ vào đài bể thận làm bệnh nhân tiểu ra mủ.
Về vi thể, ở nhu mô thận các ổ áp xe chứa đầy mủ. Lớp vỏ của ổ áp xe lúc
đầu chỉ là tổ chức viêm nhiễm, dần dần bị xơ hoá tạo thành một lớp vỏ ngăn cách
rõ rệt với các tổ chức nhu mô chung quanh.
Những ổ áp xe tạo thành ở vỏ thận thì có khả năng xuất phát từ sự lan truyền
theo đường máu, trong khi những trường hợp ở vùng vỏ tuỷ thì do vi khuẩn Gram
(-) kết hợp với những bất thường đường tiết niệu khác như là sỏi hoặc tắc nghẽn
[9].
1.4.4. Diễn tiến:
Áp xe thận một khi đã thành lập, lớn dần, có thể phá huỷ vỏ thận, vỡ vào
khoang quanh thận lan ra lớp mỡ quanh thận tạo thành áp xe quanh thận, khi lớp
mỡ quanh thận bị thâm nhiễm thì hiện tượng viêm tấy sẽ lan rộng rất nhanh vì tổ
chức quanh thận là mô lỏng lẻo khả năng đề kháng kém, không có xu hướng khu
trú được viêm nhiễm [2]. Áp xe cũng có thể vỡ vào hệ thống thu thập nước tiểu
biểu hiện là mủ niệu hoặc có thể tiếp tục tạo thành áp xe thận mạn tính.
1.4.5. Tiêu chuẩn chẩn đoán
Chẩn đoán AXT dựa trên tiêu chuẩn lâm sàng và cận lâm sàng[21].
1.4.5.1. Lâm sàng
Hỏi bệnh sử toàn diện có thể phát hiện nguồn nhiễm khuẩn Gram (+) trước
đó 1-8 tuần, trước khi có biểu hiện triệu chứng đường tiết niệu. Hoặc bệnh nhân
triệu chứng nhiễm khuẩn đường tiết niệu dai dẳng, viêm thận bể thận trong vòng
vài tuần trước. Nguồn nhiễm khuẩn có thể ở bất kì vị trí nào trên cơ thể. Các vị trí
thường gặp là miệng, phổi, và bàng quang.
11
Nhiễm khuẩn đư ờng tiết niệu phức tạp với ứ đọng nước tiểu, sỏi, thai kì,
bàng quang hỗn loạn thần kinh, đái tháo đường là những yếu tố nguy cơ dẫn đến
hình thành áp xe. Nhọt da hoặc tiêm chích ma tuý đưa vi khuẩn Gram (+) vào
máu. Bệnh nhân có thể biểu hiện sốt, ớn lạnh, đau bụng hoặc hông lưng, sụt cân,
mệt mỏi cũng thỉnh thoảng gặp. Ngoài ra có thể biểu hiện viêm bàng quang, đôi
khi những triệu chứng này mờ nhạt đưa đ ến trì hoãn chẩn đ oán đ ến khi phẫu
thuật thám sát hoặc trên tử thiết ở những trường hợp nặng nề hơn.
1.4.5.2. Xét nghiệm sinh hoá:
Bệnh nhân thường có tăng bạch cầu máu, tổng phân tích nước tiểu thường
có xuất hiện bạch cầu niệu. Khuẩn niệu và mủ niệu không găp khi ổ áp xe không
thông với hệ thống thu thập.
1.4.5.3. Xét nghiệm vi sinh:
Vì vi khuẩn Gram (+) hầu như lan truyền qua máu nên cấy nước tiểu thường
âm tính hoặc vi khuẩn mọc không giống vi khuẩn phân lập từ dịch áp xe. Ở
những bệnh nhân nhiễm khuẩn theo đư ờng máu kết quả cấy máu có thể dương
tính, cấy máu dương tính ở 28-33% các trường hợp. Tỉ lệ cấy nước tiểu dương
tính ở khoảng 30% -50% bệnh nhân. Khi so sánh kết quả cấy dương tính ở 3 loại
bệnh phẩm: máu, nước tiểu, áp xe chỉ 1/78 bệnh nhân có kết quả cấy giống nhau.
Cấy nước tiểu và áp xe có 15% kết quả giống nhau. Cấy máu và áp xe có 13% kết
quả giống nhau.
1.4.5.4. Hình ảnh học:
Áp xe thận có thể được phát hiện chính xác bằng siêu âm hoặc chụp vi tính
cắt lớp 82-90% .
12
- Xem thêm -