TRƢỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƢƠNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA DU LỊCH
-----------------------
NGUYỄN THU HÀ
CẢM THỨC GIỚI TRONG MẶT TRỜI VẪN MỌC
CỦA ERNEST HEMINGWAY NHÌN TỪ
NỮ QUYỀN LUẬN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Sƣ phạm Ngữ văn
Phú Thọ, 2021
TRƢỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƢƠNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA DU LỊCH
-----------------------
NGUYỄN THU HÀ
CẢM THỨC GIỚI TRONG MẶT TRỜI VẪN MỌC
CỦA ERNEST HEMINGWAY NHÌN TỪ
NỮ QUYỀN LUẬN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Sƣ phạm Ngữ văn
NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS. ĐẶNG THỊ BÍCH HỒNG
Phú Thọ, 2021
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp đã đƣợc hoàn thành tại khoa KHXH & VHDL
trƣờng Đại học Hùng Vƣơng.
Với tình cảm chân thành, em xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
TS. Đặng Thị Bích Hồng ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện thuận lợi để em hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Ban Giám hiệu,
khoa KHXH & VHDL trƣờng Đại học Hùng Vƣơng đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu thực hiện khóa luận.
Nhân đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên,
ủng hộ, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học
tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Việt Trì, tháng 5 năm 2021
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thu Hà
i
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài khóa luận: .................................................................. 1
2. Tổng quan nghiên cứu vấn đề: .......................................................................... 2
3. Mục tiêu của khóa luận: .................................................................................... 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu: ....................................................................................... 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu. .................................................................................. 5
6. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:.................................................................... 6
7. Bố cục của khóa luận ........................................................................................ 6
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ PHÊ BÌNH NỮ QUYỀN LUẬN VÀ VẤN ĐỀ
NỮ QUYỀN TRONG TIỂU THUYẾT ERNEST HEMINGWAY ..................... 7
1.1. Khái quát về phê bình nữ quyền luận............................................................. 7
1.1.1. Khái niệm “nữ quyền luận”......................................................................... 8
1.1.2. Sự hình thành, diễn biễn của phê bình nữ quyền luận .............................. 10
1.2. Khái quát về vấn đề nữ quyền trong tiểu thuyết Hemingway...................... 15
1.2.1. Cuộc đời Hemingway: dấu ấn những ngƣời phụ nữ ................................. 15
1.2.2. Dấu ấn nữ quyền trong tiểu thuyết Hemingway ....................................... 18
Tiểu kết chƣơng 1:............................................................................................... 24
Chƣơng 2. JAKE BARNES: GIỚI NAM VÀ SỰ ĐỔ VỠ MẪU NGƢỜI ANH
HÙNG TRUYỀN THỐNG ................................................................................. 25
2.1. Thế giới ngƣời đàn ông chấn thƣơng ........................................................... 25
2.1.1. Những chấn thƣơng thể xác ...................................................................... 25
2.1.2. Những chấn thƣơng tinh thần.................................................................... 28
2.2. Sự rời bỏ quyền uy giới ................................................................................ 34
2.2.1. Từ bất lực đến bạo lực............................................................................... 34
2.2.2. Sự có trách nhiệm phi lí ............................................................................ 40
Tiểu kết chƣơng 2................................................................................................ 44
Chƣơng 3. BRETT ASHLEY: GIỚI NỮ VÀ SỰ THIẾT LẬP MẪU NGƢỜI
PHỤ NỮ HIỆN ĐẠI ........................................................................................... 45
ii
3.1. Kiến tạo chuẩn mực thẩm mĩ thân thể ......................................................... 46
3.1.1. Ngƣời phụ nữ và ngoại diện nam hóa ....................................................... 46
3.1.2. Ngƣời phụ nữ và hành động nổi loạn........................................................ 49
3.2. Quan niệm mới về tình yêu và tính dục ....................................................... 54
3.2.1. Tình yêu..................................................................................................... 55
3.2.2. Tính dục..................................................................................................... 63
Tiểu kết chƣơng 3................................................................................................ 66
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 69
iii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài khóa luận:
Phong trào đấu tranh nữ quyền đã xuất hiện từ lâu trong đời sống xã hội
và trong văn học. Cuộc đấu tranh giành lại vị thế đã mất để tạo dựng lại sự bình
đẳng và vị thế mới của nữ giới, dần về sau đƣợc các nhà nữ quyền luận đúc kết
lại thành lý thuyết nữ quyền và cuối cùng ngƣời ta gọi là nữ quyền luận hay chủ
nghĩa nữ quyền (feminism). Phong trào này xuất phát từ ý thức về bản thân của
giới nữ, đƣợc manh nha và bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ nửa thế kỷ nay. Phong
trào nữ quyền đƣợc biết đến ở những năm của thập niên 60 thế kỉ XX. Gắn liền
với những đổi thay to lớn ấy, âm hƣởng nữ quyền đã ngấm sâu vào văn học, tạo
thành thế giới hình tƣợng và diễn ngôn giới mới mẻ trong văn chƣơng hiện đại
và hậu hiện đại. Về sau, để đi sâu nghiên cứu văn học, các nhà lý luận hình
thành phƣơng pháp riêng, gọi là phê bình văn học nữ quyền với hệ thống lý
thuyết cụ thể riêng. Phê bình văn học nữ quyền có xuất phát điểm từ phƣơng
Tây. Các nhà văn, ít nhiều đều có chịu ảnh hƣởng từ lý thuyết nữ quyền và phê
bình văn học nữ quyền nên đã để lại dấu ấn “quyền lực giới” trong những tác
phẩm của mình ngày càng sâu sắc.
Ernest Hemingway là một trong những nhà văn vĩ đại nhất thế kỉ XX,
ngƣời đã dành cả đời mình để cống hiến cho nền văn học nhân loại. Với những
cống hiến của mình ông đã nhận đƣợc giải Nobel về văn học. Trong bản diễn từ
Nobel lần thứ 54 cho Hemingway đã có đoạn viết: “Vai trò của Hemingway nhƣ
một trong những nhà kiến tạo phong cách vĩ đại nhất trong kỉ nguyên này là rất
rõ ràng trong nghệ thuật tự sự của cả Mỹ và Châu Âu trong hơn 25 năm qua, nổi
bật nhất là những cuộc đối thoại sinh động và những cuộc khẩu chiến mà trong
đó ông đã tạo ra một chuẩn mực rất dễ bắt chƣớc nhƣng đồng thời rất khó đạt
đƣợc” [6,57]. Qua những gì đƣợc nói đến trong bản diễn từ khi trao giải này
chúng ta có thể thấy đƣợc vai trò của Hemingway đối với nền văn chƣơng
không chỉ ở Mỹ mà là cả Châu Âu và trên toàn thế giới.
1
Với thời gian cầm bút khoảng 40 năm thì sự nghiệp văn học của ông
không quá đồ sộ nhƣng ông đã để lại cho nền văn học rất nhiều những tác phẩm
có giá trị nhƣ: Mặt trời vẫn mọc, Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai, Ông già
và biển cả. Tuy nhiên, trong số những tác phẩm có giá trị này thì Mặt trời vẫn
mọc có một vị trí quan trọng. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Hemingway
nhƣng đã khẳng định đƣợc tài năng và phong cách sáng tạo của tác giả.
Ở khóa luận này, tôi vận dụng những lý thuyết chung về văn học phê
bình nữ quyền luận để nghiên cứu về giới thông qua nhân vật trong tiểu thuyết
đầu tay của Hemingway – Mặt trời vẫn mọc. Từ đó có thể xác định đƣợc rõ tầm
ảnh hƣởng quan trọng của phê bình văn học nữ quyền tới cách xây dựng nhân
vật trong các tác phẩm của Hemingway.
Vì những lý do trên tôi lựa chọ nghiên cứu đề tài Cảm thức giới trong
Mặt trời vẫn mọc của Ernest Hemingway từ góc nhìn nữ quyền luận.
2. Tổng quan nghiên cứu vấn đề:
Vấn đề nữ quyền luận là một trƣờng phái xã hội, chính trị. Nó chịu ảnh
hƣởng trực tiếp của những sự kiện lịch sử - xã hội xảy ra ở các thời điểm khác
nhau. Phê bình nữ quyền luận chính là sản phẩm của phong trào nữ quyền.
Hemingway là một trong những nhà văn chịu ảnh hƣởng rõ rệt của phong trào
nữ quyền luận. Trong những sáng tác của ông chúng ta có thể thấy rất rõ những
biểu hiện của phong trào nữ quyền. Song hành cùng với nữ quyền luận thời đại
mà Hemingway sinh sống cũng mang nhiều biến động của những cuộc chiến
tranh khiến cho nhiều gia đình rơi vào khốn khó, những mất mát đối với họ quá
lớn khiến họ trở thành những con ngƣời sống hôm nay không cần biết ngày mai,
cuộc sống chán chƣờng diễn ra khiến họ muốn thoát khỏi cái không khí ngột
ngạt đó.
Luận án Thạc sĩ với tên “Nhân vật nữ trong tác phẩm của Ernest
Hemingway nhìn từ nữ quyền luận” của Lê Lâm đã bảo vệ vào năm 2015 tại
trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội đã cho chúng ta thấy đƣợc những nét rất đặc
biệt trong sáng tác của Hemingway. Những nhân vật nữ trong sáng tác của
2
Hemingway đều là những ngƣời chịu ảnh hƣởng của nữ quyền. Nữ quyền ở đây
không phải là sự phủ nhận đi vai trò của đàn ông. Mặc dù, đề cao phụ nữ nhƣng
ông không phủ nhận sạch trơn đi những giá trị tốt đẹp của giới nam. Cái gọi là
nữ quyền trong tác phẩm của ông mang ý nghĩa cuộc đời hơn là lý thuyết mà có
lúc đã trở thành tập quán. Nữ quyền không có nghĩa là tách đàn bà khỏi đàn ông,
làm cho đàn bà trở nên khác thƣờng trong cái thế giới vốn có. Quyền lợi của phụ
nữ phải đặt trong sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội trong đó có mối quan hệ
với nam giới. Hầu hết nhân vật nữ của Hemingway đều rất nhạy cảm. Họ có
những cảm nhận sâu sắc về cuộc đời, thế cuộc và đặc biệt là về những ngƣời đàn
ông. Đàn ông đối với họ, cho dù ngƣời đó có can đảm, dũng mãnh ngoài đời đến
bao nhiêu thì cũng đều đƣợc họ đối xử nhƣ những “chú bé to xác”. Đặt trong bối
cảnh chiến tranh và các điều kiện khắc nghiệt khác, họ càng dễ bị tổn thƣơng và
càng ngời sáng chủ yếu ở tƣ cách “cứu rỗi” và “chủ động” hành động. Sự tƣớc
quyền mang tính chất đảo lộn hành vi giới này đã soi tỏ thái độ trân trọng nữ
giới ở Hemingway. Vấn đề tính dục, giới tính mà Hemingway nêu ra trong tác
phẩm của mình tuy mang nhiều nét bất thƣờng nhƣng không hề dị thƣờng.
Hemingway nhìn nhận đều này một cách bao dung và ông đã truyền đƣợc những
cảm nhận đó đến ngƣời đọc để cái dấu ấn cuối cùng về sự bất thƣờng của tính
dục, giới tính là sự cảm thông, chia sẻ rất nhân văn.
Ở bài viết Brett và những phụ nữ khác trong “Mặt trời vẫn mọc”, James
Nagel cho rằng “Không có gì so sánh đƣợc với Mặt trời vẫn mọc. Với sự xuất
hiện của cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình vào ngày 22-10-1926, cuộc đời của
Ernest Hemingway đã mãi mãi thay đổi. Ông không còn là một nhà văn trẻ đầy
tham vọng, không còn là tác giả của một tập truyện ngắn mỏng “hứa hẹn”,
không còn là một nhà báo viết tiểu thuyết nữa. Cuốn sách đã ngay lập tức xác
định Hemingway có một vị trí quốc tế với cả một thế hệ bị tàn phá bởi chiến
tranh và đau buồn trong suốt thập niên hai mƣơi bởi sự mất mát lý tƣởng”
[51;87]. Cũng trong bài viết này, James Nagel khẳng định Brett không chỉ là
ngƣời phụ nữ mà còn là ngƣời phụ nữ khác thƣờng ở thế hệ cô. Cô gây ấn tƣợng
với việc hút thuốc, uống rƣợu và với cô li dị nhƣ một giải pháp cho cuộc hôn
3
nhân tồi tệ. Cô tiếp nối chủ nghĩa Nữ quyền đã có từ thế kỉ XIX. Nhƣng Brett
nổi bật hơn tất cả các nhân vật trong các tác phẩm khác cũng nhƣ các nhân vật
nữ khác trong tác phẩm. J. Nagel cũng so sánh Brett với Francis, Georgette hay
Edna. Francis có sự tƣơng phản trực tiếp với Brett. Nếu Francis muốn độc quyền
sở hữu, muốn kết hôn với ngƣời đàn ông cô yêu, luôn sợ hãi
bị ngƣời yêu bỏ rơi thì Brett lại sẵn sàng chấp nhận bi kịch đau khổ của mình, ở
cô có sự độc lập về tinh thần cũng nhƣ những đòi hỏi về tình yêu. Còn Georgette
chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, cô là gái mại dâm và với cô việc trao
đổi tình dục đơn thuần là vì tiền, còn Brett lại chẳng cần tiền. Cô sẵn sàng từ
chối lời đề nghị hàng nghìn bảng. Còn Edna, cô đối lập với Brett, đôi lúc cô thay
thế vị trí của Brett ở trong nhóm, nhƣng khi Brett trở lại cô bị lu mờ. Cũng trong
cuốn Cẩm nang Cambridge về Hemingway, J. Gerald Kennedy có bài viết
Hemingway, Hadley và Paris: Sự kiên trì của khát vọng (Hemingway, Hadley,
and Paris: the persistence of desire). Trong bài viết này Gerald Kennedy cho
rằng tác phẩm “Mặt trời vẫn mọc đƣợc phát triển từ câu chuyện cá nhân của
Hemingway, từ mối tình của ông với cô y tá nhƣng Hemingway đã đẩy câu
chuyện của mình vƣợt qua những tài liệu cá nhân. Theo ông, nguyên nhân khiến
Jake hi sinh tƣ cách của mình nhƣ một ngƣời ham mê đấu bò là để thỏa mãn
ham muốn của Brett đối với chàng trai đấu bò. Ở đây Hemingway cho thấy một
cuộc khủng hoảng phức tạp, mỉa mai của các giá trị mà ngƣời đọc thấy nhƣ nó là
sự thu nhỏ của sự xuống cấp của đạo đức xã hội thời kì này” [51;201].
Tôi thấy rằng, các công trình nghiên cứu trong nƣớc và nƣớc ngoài chủ
yếu tập trung vào cuộc đời, văn nghiệp và phong cách chung của Hemingway.
Một số công trình chú ý đến kiểu nhân vật trung tâm, các đặc trƣng truyện ngắn,
về tác phẩm Mặt trời vẫn mọc nhƣng chƣa có công trình nào nghiên cứu riêng
về cảm thức giới nhìn từ nữ quyền luận trong tác phẩm này. Tuy nhiên, những
công trình trên có nhiều gợi ý quý báu để tôi tiếp thu, đối thoại khi triển khai đề
tài của mình.
4
3. Mục tiêu của khóa luận:
Trên cơ sở lý thuyết phê bình nữ quyền luận, đề tài nhận diện cảm thức
giới trong Tiểu thuyết Mặt trời vẫn mọc qua hai hình tƣợng nhân vật nam và nữ
trung tâm là Jack Barnes và Brett Asllay, qua đó đánh giá những đóng góp mới
của Hemingway ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Khái lƣợc những vấn đề lý thuyết về phê bình nữ quyền luận và nhận diện
vấn đề nữ quyền trong tiểu thuyết của nhà văn Mỹ Ernest Hemingway.
Nhận diện cảm thức về nam giới thông qua hình tƣợng Jake Barnes nhƣ là
sự đổ vỡ mẫu ngƣời anh hùng truyền thống.
Nhận diện cảm thức về nữ giới thông qua hình tƣợng Brett Ashley nhƣ là
sự thiết lập mẫu ngƣời phụ nữ hiện đại.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp:
Từ những phân tích cụ thể hình tƣợng nhân vật Brett Asllay và Jake
Barner trong Mặt trời vẫn mọc, đề tài chỉ ra những đặc điểm về cảm thức giới
trong tác phẩm nhìn từ góc nhìn của nữ quyền luận.
- Phƣơng pháp lịch sử - xã hội:
Nghiên cứu sơ bộ về hình tƣợng của những nhân vật trong các giai đoạn
phát triển của văn học Mỹ từ đó thấy đƣợc những nét riêng và nét chung trong
cách thể hiện nhân vật trong những sáng tác của Hemingway đặc biệt là thông
qua nhân vật Brett Asllay.
- Phƣơng pháp liên ngành: xã hội học
+ Xã hội học (khoa học về quy luật và tính quy luật xã hội chung): nêu lên
những đặc thù của sự phát triển và vận hành của hệ thống xã hội xác định về mặt
lịch sử. Là khoa học về cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện của quy luật
đó trong các hoạt động của cá nhân hay các nhóm xã hội,… Đây cũng chính là
5
cơ sở để lý giải những tác động đến tâm lý sáng tác của nhà văn, chi phối cách
nhìn của nhà văn về nữ quyền.
+ Nhân học xã hội: dựa vào những lý thuyết chung về giới để nêu lên những nét
đặc biệt của nhân vật trong tiểu thuyết Mặt trời vẫn mọc. Từ đó thấy rõ đƣợc sự
khác biệt trong cách xây dựng nhân vật của Hemingway so với những nhà văn
cùng thời.
- Phƣơng pháp so sánh: so sánh với một số tác phẩm của Hemingway để
thấy đƣợc những nét khác lạ về các mặt trong cách biểu hiện nhân vật trong Mặt
trời vẫn mọc.
6. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tƣợng:
Khóa luận tập trung nghiên cứu về cảm thức giới trong Mặt trời vẫn mọc
từ góc nhìn nữ quyền luận.
- Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu thuyết Mặt trời vẫn mọc của Ernest Hemingway, Bùi Phụng dịch,
NXB Văn hóa thông tin.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài dự kiến có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát về phê bình nữ quyền luận và vấn đề nữ quyền trong
tiểu thuyết của Ernest Hemingway
Chƣơng 2: Jake Barnes: giới nam và sự đổ vỡ mẫu ngƣời anh hùng truyền
thống
Chƣơng 3: Brett Ashley: giới nữ và sự thiết lập mẫu ngƣời phụ nữ hiện
đại
6
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ PHÊ BÌNH NỮ QUYỀN LUẬN VÀ VẤN ĐỀ
NỮ QUYỀN TRONG TIỂU THUYẾT ERNEST HEMINGWAY
1.1. Khái quát về phê bình nữ quyền luận
Phê bình nữ quyền luận bắt đầu thịnh hành từ cuối thập niên 1960 và đầu
thập niên 1970. Nữ quyền luận ngày càng phát triển hơn một mặt giống nhƣ nỗ
lực lý thuyết hóa các phong trào đấu tranh cho nữ quyền lúc bấy giờ đang rầm rộ
ở phƣơng Tây, mặt khác lại là một bƣớc phát triển mới cho những phát hiện táo
bạo trƣớc đó của một số nhà văn. Trong nền văn hóa lúc bấy giờ, nam giới đồng
nghĩa với nhân loại, đồng nghĩa với lịch sử còn những ngƣời phụ nữ thì bị đẩy ra
bên ngoài lề xã hội. Lúc nào những ngƣời phụ nữ ấy cũng ở vị thế thấp kém hơn
và luôn phải phụ thuộc vào nam giới mới có thể khẳng định đƣợc chính mình.
Các nhà nữ quyền luận sau này xuất phát từ rất nhiều giác độ khác nhau,
với những phƣơng pháp luận có khi khác hẳn nhau đều cùng chia sẻ một số
niềm tin chung. Một tất cả những cái gọi là chủ thể tính, bản ngã và bản sắc, bao
gồm cả bản sắc của nữ giới thƣờng đƣợc gọi là nữ tính không phải là những gì
tất định và bất biến, hay nói nhƣ Beauvoir, “ngƣời ta không sinh ra là phụ nữ,
ngƣời ta trở thành phụ nữ.” [64,213]. Hai, cơ chế tiêu biểu nhất trong việc đàn
áp phụ nữ chính là nền văn hoá phụ quyền, hay thỉnh thoảng, với một số nhà nữ
quyền, còn đƣợc gọi là nền văn hoá duy dƣơng vật (phallocentric culture). Và
ba, nhiệm vụ của các cây bút nữ không phải chỉ là chống lại mọi hình thức áp
chế của nam giới mà còn phải cố gắng xác định một thứ mỹ học riêng của nữ
giới, từ đó, thiết lập nên những điển phạm riêng, và cuối cùng, xây dựng những
tiêu chí riêng trong việc cảm thụ và đánh giá các hiện tƣợng văn học.
Một số những nhà nghiên cứu sau này đã cho rằng Enesst Hemingway có
ác cảm với những ngƣời phụ nữ. Một số những nhà phê bình nữ quyền đã lên án
với ông về những nhân vật phụ nữ đƣợc ông đƣa vào tác phẩm của mình hầu
nhƣ nó đều là những ngƣời phụ nữ đa đoan và đầy trắc trở trong cuộc sống của
mình. Phần đông những ngƣời phụ nữ trong các sáng tác của ông dần mất đi
thiên chức của một ngƣời phụ nữ. Nặng nề hơn đó là quan điểm về nhân vật nữ
7
trong những sáng tác của ông còn có những ngƣời phụ nữ mang trong mình khả
năng tàn hại đàn ông. Từ đó, có thể thấy rất nhiều những vấn đề đƣợc đặt ra khi
nghiên cứu về nữ quyền trong những sáng tác của ông. Với Mặt trời vẫn mọc
chúng ta có thể thấy rất rõ những ngƣời phụ nữ trong tác phẩm này dần dần
mạnh mẽ hơn, mỗi ngƣời một vẻ tuy nhiên họ đều là những ngƣời mạnh mẽ, dần
dần nắm vị trí quyền uy trong cuộc sống của mình. Trong những khoảng thời
gian trƣớc đây chúng ta có thể thấy những chuyển biến quan trọng liên quan đến
giới tính và học thuyết về nữ quyền ra đời đã làm ảnh hƣởng rất nhiều tới những
bộ môn học thuật trong xã hội. Việc học thuyết này ra đời đã phần nào đó thay
đổi đi cách đọc và cảm nhận một tác phẩm văn học của đại đa số dân chúng. Để
hiểu rõ hơn về cụm từ “nữ quyền luận” thì ở khóa luận này tôi có tham khảo và
tìm hiểu để đƣa ra những nét cơ bản nhất về học thuyết mới này.
1.1.1. Khái niệm “nữ quyền luận”
Trong khóa luận này tôi chủ yếu tập trung vào đƣa ra những khái niệm về
“nữ quyền luận” trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng và các sách, báo, đài
từ đó đƣa ra những nhận định riêng của mình về “nữ quyền luận”
Theo một số tài liệu chúng ta có thể thấy trong tiếng Anh có rất nhiều những
cách sử dụng khác nhau để nói đến khái niệm nữ quyền luận tùy theo mỗi
trƣờng hợp mà cách sử dụng từ lại khác nhau tùy theo từng hoàn cảnh mà các từ
đó có thể bao quát một nội hàm rộng hẹp khác nhau và cũng có nhiều cách dịch
khác nhau ví dụ nhƣ: Feminist theory, Theory of Feminist hoặc Feminist,…
Feminist ở đây chúng ta có thể hiểu là ngƣời theo thuyết nữ quyền
Feminist criticism: phê bình nữ quyền là bộ phận của nữ quyền luận tuy
nhiên thì đƣợc sử dụng trong những phạm vi hẹp và cụ thể
Trong cuốn “Lịch sử phê bình văn học nữ quyền” ngay ở những trang đầu
tiên đã khẳng định tầm quan trọng và sự ảnh hƣởng của nữ quyền luận đối với
đời sống tinh thần của mọi con ngƣời: “Tác động của phê bình văn học nữ
quyền hơn ba mƣơi lăm năm qua là sâu sắc rộng khắp. Nó làm thay đổi lối
nghiên cứu kinh viện về văn bản văn học, thay thế cơ bản những nguyên lý đƣợc
8
giảng dạy và hình thành nên một hệ đề tài mới để bàn luận, cũng nhƣ ảnh hƣởng
toàn diện cùng lúc đến xuất bản, báo chí và tiếp nhận văn học. Một loạt các
ngành liên quan đã bị ảnh hƣởng bởi những đòi hỏi của văn học nữ quyền, bao
gồm ngôn ngữ học, triết học, lịch sử, nghiên cứu tôn giáo,…” [65,i]
Trong khóa luận này, khái niệm nữ quyền luận đƣợc giới hạn trong phạm
vi của cuốn sách Mặt trời vẫn mọc. Những nội dung dƣới đây là sản phẩm sau
khi tìm hiểu và nghiên cứu về những khái niệm mà tôi đã đọc và đúc rút lại đƣợc
từ những nhà nghiên cứu trƣớc đó:
Nữ quyền ở đây đƣợc hiểu là quyền bình đẳng của ngƣời phụ nữ trong
mọi mặt của đời sống xã hội. Nữ quyền đặt ra vấn đề công bằng giữa nam và nữ
trong cùng một môi trƣờng sống. Những quyền lợi mà nam giới đƣợc nhận thì
nữ giới cũng phải có để thấy đƣợc sự bình đẳng giữa hai giới trong xã hội. Ở
cách nhìn hẹp hơn nữ quyền còn đƣợc xem xét có liên quan đến các khái niệm
về giới tính và đặc biệt là giới tính nữ trong văn học. Nếu giới tính là thuật ngữ
nền tảng để có thể phân biệt giữa hai phái nam và nữ thì khái niệm nữ quyền
hƣớng tới sự bình đằng hai giới nam nữ đồng thời để tạo ra đƣợc những đặc
điểm riêng và khẳng định cái nét đặc thù của nữ giới.
Nữ quyền luận chính là sản phẩm của các phong trào đấu tranh đòi lại
quyền lợi, quyền bình đẳng cho phái yếu. Cuộc đấu tranh đó đƣợc xem là một
cuộc đấu tranh lâu dài và gian nan nhất của lịch sử nhân loại. Các cuộc đấu tranh
nổ ra nhằm đòi lại quyền lợi cho những ngƣời phụ nữ cùng với đó là hy vọng
những ngƣời phụ nữ đƣợc bảo vệ bởi những lợi ích xã hội và họ có quyền đƣợc
lên tiếng bình đẳng giống nhƣ nam giới.
Đến sau chiến tranh thế giới thứ hai đại đa số các nƣớc trên thế giới đã
xác nhận nam nữ bình đẳng trong các hiến pháp đƣợc đƣa ra. Ngƣời phụ nữ về
lý thuyết đã đƣợc coi trọng hơn tuy nhiên thì trong thực tế đời sống thì không
hoàn toàn thay đổi đƣợc những suy nghĩ cổ xƣa đã ăn mòn tâm trí nó nhƣ một
thói quen chƣa thể bỏ đƣợc của đa số ngƣời dân trong xã hội. Chính từ các
phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng của những ngƣời phụ nữ trong xã hội
đã tác động không nhỏ tới nền văn học của các quốc gia.
9
Tất cả những cái gọi là chủ thể nó mang tính bản ngã bao gồm cả bản sắc
của nữ giới – thƣờng đƣợc gọi bằng nữ tính không phải tất cả và bất biến, cơ chế
tiêu biểu nhất trong việc đàn áp phụ nữ chính là nền văn hóa phụ quyền. Nhiệm
vụ của các cây bút nữ không chỉ dừng lại ở việc chống chọi mọi hình thức áp
chế của nam giới mà còn phải xác định đƣợc một thứ mỹ học của riêng nữ giới.
Những nhà nữ quyền có thể đến từ những vùng khác nhau mang trong mình
những nhiệm vụ khác nhau nhƣng nhiệm vụ chung đƣợc họ xác lập chính là bảo
vệ giới nữ, đấu tranh đòi lại quyền công bằng giữa hai giới trong xã hội.
Phê bình nữ quyền luận thƣờng nhắm đến 4 mục tiêu trong lĩnh vực văn
học:
Một là cố gắng phát hiện và tái hiện các tác phẩm văn học của phụ nữ
Hai là phân tích và đánh giá các khía cạnh hình thức của văn bản ấy trong
tác phẩm
Ba là tìm hiểu xem những tác phẩm ấy đã phản ánh đƣợc mối quan hệ nam
nữ ra sao
Bốn là mô tả và phát triển những yếu tố liên quan đến huyền thoại và tâm
lý ngƣời phụ nữ trong văn học.
1.1.2. Sự hình thành, diễn biễn của phê bình nữ quyền luận
Gill Plain và Susan Sellers trong Lời giới thiệu cuốn Lịch sử phê bình văn
học nữ quyền đã khẳng định: “Tác động của phê bình văn học nữ quyền hơn ba
mƣơi lăm năm qua là sâu sắc và rộng khắp. Nó làm thay đổi lối nghiên cứu kinh
viện về văn bản văn học, thay thế cơ bản những nguyên lí đƣợc giảng dạy và
hình thành nên một hệ đề tài mới để bàn luận, cũng nhƣ ảnh hƣởng toàn diện
cùng lúc đến xuất bản, báo chí và tiếp nhận văn học. Một loạt các ngành liên
quan đã bị ảnh hƣởng bởi những đòi hỏi của văn học nữ quyền, bao gồm ngôn
ngữ học, triết học, lịch sử, nghiên cứu tôn giáo, xã hội học, nhân chủng học,
nghiên cứu truyền thông và điện ảnh, nghiên cứu văn hóa, âm nhạc học, địa lí,
kinh tế và luật” [65;i]. Chúng ta có thể thấy rõ hơn đƣợc sức ảnh hƣởng và tầm
quan trọng của nữ quyền - nó có ảnh hƣởng sâu sắc tới tinh thần của con ngƣời
10
trong xã hội lúc bấy giờ.
Cũng trong sách này, Gill Plain and Susan Sellers đã đƣa ra khái niệm
Phê bình văn học nữ quyền (Feminist Literary Criticism) và xác định khuynh
hƣớng này “bắt đầu ngay từ hệ quả của “làn sóng thứ hai” của nữ quyền luận
(Feminism) - một khái niệm thƣờng đƣợc sử dụng đối với sự trỗi dậy của phong
trào phụ nữ ở Mỹ và châu Âu trong các cuộc vận động Quyền công dân (Civil
Rights) của thập niên 1960. Dẫu vậy, rõ ràng là Phê bình văn học nữ quyền
không hoàn toàn đƣợc hình thành trọn vẹn từ phong trào này” [65;2]. Khái niệm
này nhấn mạnh đến đối tƣợng của phê bình nữ quyền trong sách này là “văn
học”.
Trong chuyên luận Lí thuyết văn học hậu hiện đại, một trong những
chuyên gia hàng đầu về lí luận là Phƣơng Lựu đã đề cập đến các loại phê bình
nữ quyền nhƣ: Phê bình về hình tƣợng phụ nữ, Phê bình lấy phụ nữ làm trung
tâm và Phê bình nhận diện. Trong ba loại hình phê bình nữ quyền này, chúng tôi
chọn loại thứ ba để tiếp cận tác phẩm Hemingway.
Trong khóa luận này, khái niệm nữ quyền luận đƣợc chúng tôi giới hạn ở
phạm vi phê bình văn học nữ quyền. Những nội dung dƣới đây đƣợc tôi tổng
hợp từ các công trình của Phƣơng Lựu, Lê Huy Bắc,… các công trình nƣớc
ngoài đƣợc dịch ra tiếng Việt và khảo cứu một số khái niệm về nữ quyền luận
trong các từ điển và sách chuyên luận chuyên ngành.
Trong số các trƣờng phái phê bình mang tính chất xã hội, chính trị, phê
bình nữ quyền (Feminist criticism) đã có chiều dài phát triển và ảnh hƣởng sâu
rộng đến sáng tác và nghiên cứu văn học của nhiều tác giả trên thế giới.Nữ
quyền, hiểu một cách cơ bản nhất là: Quyền bình đẳng của phụ nữ trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Các nhà nghiên cứu thƣờng thống nhất rằng nếu hiểu ở
cấp độ rộng thì khái niệm nữ quyền là quyền lợi của ngƣời phụ nữ đặt trong mối
tƣơng quan với quyền lợi của nam giới để đạt đến cái gọi là nam nữ bình quyền.
Ở cấp độ hẹp thì nữ quyền có liên quan đến các khái niệm nhƣ giới tính trong
văn học.
Nếu giới tính là những thuật ngữ nền tảng để khu biệt đặc tính giữa hai
11
phái (nam, nữ) thì khái niệm nữ quyền hƣớng tới là sự bình đẳng nam nữ, đồng
thời tạo ra hệ quy chuẩn riêng, khẳng định nét đặc thù của nữ giới.
Cho đến sau khi cuộc chiến tranh thế giời lần thứ hai kết thúc, đại đa số
các nƣớc trên thế giới đều đã có cách nhìn khác về nữ quyền. Trong hiến pháp
của phần đông các nƣớc trên thế giới thì đều đã xác nhận đƣợc mục nam nữ bình
quyền. Ngƣời phụ nữ lúc này đã đƣợc coi trọng hơn ít nhất là ở mặt lý thuyết.
Các phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng giai đoạn này đã ảnh hƣởng
không nhỏ đến nền văn học. Các cuộc đấu tranh đòi nữ quyền đã góp phần thay
đổi cách nhìn và cách bình luận về ngƣời phụ nữ trong những sáng tác văn học.
Vào năm 1949 đƣợc coi nhƣ là dấu ấn xác lập phê bình nữ quyền chính là
nữ quyền luận hiện đại khi nữ văn sĩ ngƣời Pháp – Simon de Beauvoir công bố
công trình Giới tính thứ hai (The second sex), một công trình phân tích những
khía cạnh ngƣời phụ nữ chịu cảnh áp bức. Trong công trình của mình bà đã yêu
cầu đẩy mạnh hơn nữ việc đấu tranh để giải phóng phụ nữ.
Giai đoạn tiên phong và nữ quyền nguyên sơ tƣơng ứng với cao trào nữ
quyền I, tính từ hậu thế chiến II trở về trƣớc, với minh chứng về quyền của phụ
nữ (1792) của Mary Wollstonecraft, ngƣời đƣợc coi là “tổ mẫu” của chủ nghĩa
nữ quyền. Bà đã phản đối thẩm quyền xác lập nữ tính của các tác giả nam. Bà
coi nhà văn nữ là ngƣời có lý trí, đạo đức, nhân hậu, phản đề của thói ủy mị giả
tạo. Bà coi về bản chất thì giới tính đƣợc kiến tạo nhƣ một lợi thế: viết và nghĩ
không thể vƣợt khỏi thân xác, và không thể loại phụ nữ ra khỏi vị trí xã hội. Nối
tiếp Wollstonecraft, Một căn phòng cho riêng mình (1929) của Virginia Woolf
đƣợc coi nhƣ là cuốn sách đầu đời của phê bình nữ quyền. Nhờ Woolf mà các
tác giả nữ ngày nay có những khái niệm gợi mở hơn về cách suy nghĩ “ngƣợc
dòng” thông qua ngƣời mẹ, về ý kiến của đàn bà, và về sự dung hòa cả hai giới
tính. Nhiều quan điểm lý thuyết mâu thuẫn của tƣ tƣởng nữ quyền đƣơng đại bắt
nguồn từ trí tƣởng tƣợng đột phá vƣợt giới hạn của Woolf và những xung đột
sáng tạo của bà. Nhƣng chính Simone de Beauvoir để lại cho chủ nghĩa nữ
quyền một tự điển phong phú hình tƣợng và ý tƣởng, đặc biệt là định nghĩa xác
quyết “ngƣời ta không bẩm sinh là đàn bà, mà trở thành đàn bà” nhƣ đã nêu ở
12
trên. Sự nhận thức về cấu trúc xã hội của giới tính và bản chất bị áp đặt của các
chủ thể mang giới tính đã trở thành cốt lõi của lý thuyết văn học nữ quyền, khiến
cho nó trở thành luận đề thách thức những nhận định của con ngƣời về căn cƣớc,
tự nhiên và tiến bộ, và khảo sát thấu đáo sự hình thành có tính huyền thoại của
nữ tính và nam tính.
Giai đoạn sáng tạo nền phê bình văn học nữ quyền tƣơng ứng với cao trào
nữ quyền II (thập niên 1960 và 1970) kéo dài đến cao trào III (thập niên 1980 và
1990). Đây là giai đoạn quan trọng, hình thành và phát triển những vấn đề chủ
yếu của phê bình văn học nữ quyền, từ khẳng định các nhà văn và nhà phê bình
nữ, xuyên qua sự tìm kiếm một truyền thống văn học nữ và ảnh hƣởng của luận
đàm mang tính tự truyện, đến những thách thức mà các nhà phê bình nữ quyền
da đen, đồng tính, và đàn ông ủng hộ nữ quyền đề ra. Hành trình này cho thấy sự
phát triển của khái niệm phê bình văn học nữ quyền đã từ sự phản kháng ban
đầu chống lại lý tƣởng “nam giới trung tâm” trong nghiên cứu văn học, đến một
hệ thống đa dạng phức tạp những luận đề nhằm chất vấn những giả định không
chỉ về giới tính, mà cả về chủng tộc, giai cấp, dục tính.
Tính chính trị của cao trào nữ quyền II thể hiện đậm trong thực tế phê
bình giai đoạn phát triển này. Lý tƣởng nữ quyền ngấm vào văn chƣơng và văn
hóa đƣơng thời, đồng thời phục hồi những tiếng nói đã bị dìm lấp của phụ nữ,
một sự việc cách mạng nếu nhìn lại hàng bao thế kỷ trƣớc đó ở các học viện
Anh, Mỹ chỉ có tác phẩm của nam tác giả đƣợc coi là kinh điển để nghiên cứu
giảng dạy. Cùng với nỗ lực làm sống lại những tiếng nói đã mất của các tác giả
nữ, hình thành những cách tiếp cận văn học của các nữ tác giả da đen, đồng tính
nữ, và khảo sát quan điểm tách biệt của sự hình thành nữ quyền mang tính học
viện, trung lƣu, da trắng và có xu hƣớng dục tính chính thống (nam - nữ).
Các nhà phê bình nữ quyền cũng nhận ra những truyền thống cách viết nữ
từng bị gạt ra rìa, khát vọng của họ đƣợc diễn tả qua những kinh nghiệm và
những câu chuyện dị thƣờng, cả nhu cầu tìm ra tiếng nói và vị trí để phát ngôn,
từ đó xuất hiện những câu hỏi then chốt về bản ngã và chủ thể, phát triển thể loại
tự truyện và phê bình cá nhân. Ảnh hƣởng của chủ nghĩa hậu cấu trúc lan toả
13
trong lý thuyết nữ quyền, đồng thời là ảnh hƣởng giao thoa với chủ nghĩa hậu
thuộc địa, thuyết phân tâm học, thuyết phi giới tính. Phê bình văn học nữ quyền
biến chuyển đa dạng, phức hệ, đề ra những cách đọc mới những tác phẩm có ảnh
hƣởng nhất trong các lĩnh vực nêu trên.
Một biến dạng khác của phê bình nữ quyền là từ khởi thuỷ phản kháng
nam quyền chuyển qua nghiên cứu nam tính. Cuối giai đoạn này phê bình văn
học nữ quyền đã tái kiến trúc thế giới và ngôn từ của con ngƣời nhƣng vẫn
không thoát ra những ý nghĩa về giới tính đƣợc xã hội xét duyệt.
Giai đoạn tính từ đầu thiên niên kỷ thứ ba đến nay, có thể coi là chuyển
đổi mô hình trong phê bình văn học nữ quyền với ảnh hƣởng của hậu cấu trúc và
hậu hiện đại. Tiến bộ khoa học kỹ thuật ảnh hƣởng không ít đến ý thức về bản
thân, giới tính, dục tính và sinh sản, hình tƣợng cyborg (ngƣời máy) ra đời biểu
tƣợng cho sự kết hợp giữa con ngƣời và kỹ thuật. Ý nghĩa của từ “đàn bà”, “phụ
nữ”, “nữ giới” không còn tầm quan trọng trong các nỗ lực cấp tiến phá thế bình
ổn ở phƣơng Tây nữa, do vậy chủ nghĩa nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền
trải qua những thay đổi quan trọng. Nhóm nữ quyền trung lƣu da trắng vận động
hƣớng ngoại để thừa nhận sự đa dạng trong đời sống, kinh nghiệm và sự sáng
tạo của phụ nữ. “Đàn bà” nhƣ một thực thể văn hóa - xã hội mặc định đã bị rắc
rối hoá, nghĩ tới đàn bà là nghĩ tới giới tính; xu hƣớng chuyển đổi là đặt vấn đề
giới tính lên trên cả nữ tính, nam tính, đồng tính các loại.
Nữ quyền bắt đầu đặt những câu hỏi căn bản về ngôn ngữ và chủ thể con
ngƣời. Tuy vẫn tiếp tục khảo sát sự phức tạp của những đặc tính mang tính giới
phái trong xã hội đƣơng đại, nhƣng từ nhiều hƣớng phát triển khác nhau, những
hình thức lai tạp mới của phê bình văn học nữ quyền xuất hiện, đem lại nguồn
năng lƣợng mới cho những tranh luận chất vấn khái niệm “đàn bà” có là một
khởi điểm lý thuyết chặt chẽ hay không.
Trải qua một thời gian dài, cuộc đấu tranh bình quyền nam nữ vẫn chƣa
hề ngả ngũ. Margaret Walters trong công trình Nữ quyền luận - nhập môn ngắn
(Feminisim - A Very Short Introduction) xuất bản năm 2005, đã trích lời
Natasha Walter để bình luận về thực tiễn nữ quyền và đƣờng hƣớng phát triển
14
nhƣ sau: “Natasha Walter, trong cuốn Nữ quyền luận mới (The New
Feminism,1998), trong lúc thừa nhận rằng phụ nữ “vẫn nghèo và ít quyền lực
hơn đàn ông”, thì vẫn tranh luận rằng nhiệm vụ của nữ quyền luận đƣơng đại là
“tấn công vào nền tảng vật chất của sự bất công chính trị, xã hội và kinh tế”.
Một luận điểm quan trọng - nhƣng bà vẫn cực kì mơ hồ về đối tƣợng tấn công cụ
thể ở đây là gì. Trong lần trả lời phỏng vấn, bà nhận xét, nhƣ thể bà đã có đƣợc
ý tƣởng mới thay vì cái mà cứ mãi luấn quấn trong nhiều thập kỉ, rằng chúng ta
muốn làm việc với đàn ông để thay đổi xã hội và không chống lại: “Sau rốt, đặc
biệt nếu những thứ sẽ thay đổi trong phạm vi gia đình, rằng đàn ông sẽ chia sẻ
việc nhà nhƣ việc đàn bà ra khỏi nhà thƣờng xuyên hơn”. Hoặc nữa, “chúng ta
phải chung tay lẫn nhau và cả với đàn ông để tạo nên một xã hội bình đẳng hơn”
[45;138]. Dƣờng nhƣ quan điểm trên đây đã cho thấy phần nào cái kết cục chẳng
thể kết cục của phong trào nữ quyền kể từ lúc nó khởi xuất cho đến tận bây giờ.
Xuất thân từ các phong trào xã hội, gắn liền với những thay đổi của xã hội
(về nhận thức, thể chế, quốc gia, dân tộc…), những vấn đề liên quan đến nữ
quyền do vậy cũng luôn có những biến đổi. Có lẽ phƣơng diện lý thuyết nữ
quyền phù hợp nhất để xem xét vấn đề nhân vật nữ của Hemingway là phƣơng
diện mang tính khởi thủy của nữ quyền - quyền của phụ nữ.
1.2. Khái quát về vấn đề nữ quyền trong tiểu thuyết Hemingway
1.2.1. Cuộc đời Hemingway: dấu ấn những ngƣời phụ nữ
Kể từ khi Hemingway lọt lòng ông thấm nhuần những đau khổ do những
cuộc chiến tranh phi nghĩa gây nên. Chính vì hoàn cảnh lịch sử đất nƣớc phe
Hiệp ƣớc giao thƣơng, giao lƣu những nền văn hóa ngày càng tân tiến hơn,
những tín đồ sùng đạo, hay những kẻ đàn bà lăng nhăng ngày càng nhiều.
Những ngƣời phụ nữ đi qua trong cuộc đời ông đều là những nhân vật đƣợc ông
nhắc tới trong tác phẩm của mình tuy nhiên đó chỉ là một số rất nhỏ trong số
những ngƣời phụ nữ đó. Để rồi trong sáng tác của ông nữ quyền dần đƣợc trở
nên rõ nét hơn và sâu đậm hơn.
15
- Xem thêm -