Câu 1: quan điểm mác xít về mối quan hệ khách quan
và chủ quan
BÀI LÀM
Trong đời sống xã hội, cái vật chất và cái tinh thần, cái khách quan
và cái chủ quan có mối quan hệ hữu cơ, ranh giới phân biệt chúng chỉ có tính
chất tương đối. Điều này dễ gây lẫn lộn giữa cái chủ quan với cái khách quan,
lấy cái chủ quan thay cái khách quan, dễ dao động và rơi vào lập trường của
chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Quá trình xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp mới
mẻ, đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi chủ thể cách mạng phải biết phát huy vai
trò của nhân tố chủ quan. Nhưng khi quá đề cao vai trò của nhân tố chủ quan
thì có nguy cơ mắc bệnh chủ quan ngày càng lớn vì con người dễ cường điệu
vai trò của nhân tố chủ quan mà bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình
cách mạng thay cho sự yếu kém của tri thức khoa học. Sai lầm chủ quan duy
ý chí là một sai lầm phổ biến trong nhiều nước Xã hội chủ nghĩa trước đây, do
đó gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Vì vậy, nhận thức đúng cái chủ quan,
cái khách quan và mối quan hệ của chúng cung cấp cho chúng ta những
phương pháp luận khoa học trong nhận thức và hành động thực tiễn.
1.1 Quan điểm mác xít về khách quan và chủ quan
“Cái khách quan” và “cái chủ quan” là những khái niệm được hình thành
và phát triển trong quá trình nghiên cứu hoạt động thực tiễn của con người.
Đây là những khái niệm chủ yếu khái quát mối quan hệ giữa hoạt động nhận
thức và hoạt động cải tạo giới tự nhiên của con người. Trong quá trình hoạt
động, tác động và cải tạo giới tự nhiên; con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ
thể cải tạo hoàn cảnh. Do vậy, nhận thức cái khách quan và cái chủ phải tìm
hiểu các khái niệm liên quan tới hoạt động của con người, như khái niệm “chủ
thể”, “khách thể”.
1.1.1 Khái niệm chủ thể và khách thể
Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa rất nhiều cách
hiểu và định nghĩa khác nhau về hai phạm trù này:
Về phạm trù chủ thể cũng được đề cập với những góc độ khác
nhau. Tựu chung lại, có hai cách tiếp cận chính:
Thứ nhất, cho rằng chủ thể là con người (cá nhân hoặc nhóm) tiến
hành hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Con người với tư cách là chủ thể, là con người thực tiễn, con người
hành động, với đặc trưng cơ bản là năng lực hoạt động sáng tạo nhằm cải tạo
khách thể (tự nhiên, xã hội) và chỉ trong quá trình nhận thức, cải tạo giới tự
nhiên và cải tạo đời sống xã hội thì con người mới bộc lộ mình với tư cách là
chủ thể của lịch sử. Khi nói tới khái niệm “chủ thể”, V.I.Lênin viết: “Khái
niệm ấy (= con người) là khuynh hướng tự mình thực hiện mình, tự cho mình,
qua bản thân mình, một tính khách quan trong thế giới khách quan và tự hoàn
thiện (tự thực hiện) mình” .
Thứ hai, coi chủ thể là con người có ý thức, ý chí, và đối lập với
khách thể bên ngoài”
Từ các quan niệm đã nêu ở trên, có thể hiểu: Chủ thể - đó là con
người với những cấp độ khác nhau (cá nhân, nhóm, giai cấp) đã và đang thực
hiện một quá trình hoạt động nhằm cải tạo khách thể tương ứng.
Với cách hiểu khái niệm “chủ thể”như vậy, khái niệm khách thể
được quan niệm như sau:
Phạm trù khách thể là tất cả những gì mà chủ thể hướng vào nhằm
nhận thức và cải tạo nó. Như vậy, không phải tất cả hiện thực khách quan đều
là khách thể mà chỉ có những hiện thực khách quan mà con người hướng tới
nhận thức và cải tạo mới trở thành khách thể; tuỳ mức độ xác định chủ thể
nhận thức, cải tạo thế giới khách quan là ai mới có thể xác định được khách
thể tương ứng. Khách thể có thể là những hiện tượng, quá trình thuộc giới tự
nhiên, cũng có thể là những gì do con người tạo ra nhờ hoạt động lao động
sản xuất vật chất, là những yếu tố xã hội, những quan hệ kinh tế, quan hệ
chính trị - xã hội.
Khách thể và chủ thể có mối quan hệ mật thiết với nhau, quy định
lẫn nhau, mặt này là tiền đề tương tác của mặt kia, và con người chỉ trở thành
chủ thể khi hoạt động tác động vào thế giới khách quan, biến thế giới khách
quan ấy thành khách thể của quá trình hoạt động thực tiễn của mình. Chủ thể
nhận thức và cải tạo một cách chủ động sáng tạo khách thể theo mục đích của
mình; nhưng chính khách thể bị tác động lại quy định chủ thể. Bởi lẽ, khách
thể tồn tại độc lập với chủ thể và luôn vận động theo những quy luật vốn có
của nó, chỉ khi nào chủ thể nhận thức, hành động phù hợp với quy luật vận
động của khách thể, khi đó hoạt động của chủ thể mới đem lại hiệu quả tích
cực.
1.1.2 Khái niệm cái khách quan và cái chủ quan
Về khái niệm “cái chủ quan”, “cái khách quan” nói lên những
thuộc tính chung của chủ thể và khách thể được bộc lộ trong quá trình hoạt
động thực tiễn của con người. Những thuộc tính, tính chất, yếu tố tồn tại
ngoài chủ thể, phụ thuộc vào chủ thể là cái chủ quan; những tính chất, yếu tố
tồn tại ngoài chủ thể, không phụ thuộc vào chủ thể là cái khách quan; nhưng
giữa cái khách quan và cái chủ quan luôn tồn tại mối quan hệ biện chứng, tác
động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau. Vì vậy, khi nói về “cái chủ quan” có
quan niệm cho rằng “Chủ quan là ý thức của chủ thể”. Tuy nhiên, cũng có
quan niệm cho rằng “Chủ quan là những gì thuộc về chỉ đạo hoạt động của
chủ thể”.
Khi xem xét toàn bộ hoạt động của con người và những sản phẩm
của hoạt động đó thì thấy rằng: chúng bao giờ cũng chứa đựng những dấu ấn
của cái chủ quan; nhưng không thể coi tất cả những cái mang dấu ấn chủ quan
(nhất là những dấu ấn thuộc những sản phẩm nằm ngoài chủ thể) là thuộc về
cái chủ quan. Hơn nữa, cái chủ quan cũng không đơn thuần chỉ là ý thức như
một số học giả quan niệm, mà là tất cả những gì thuộc về chủ thể và phụ
thuộc vào chủ thể.
Trong những hoạt động cụ thể, khi chủ thể tác động lên khách thể
và biến đổi nó theo mục đích của mình không phải lúc nào chủ thể hoạt động
cũng dùng tất cả những năng lực, phẩm chất, yếu tố vốn có của mình, mà có
thể chỉ huy động một phần, một bộ phận các yếu tố tạo thành cái chủ quan
trong quá trình tương tác với khách thể, cái đó gọi là nhân tố chủ quan.
Nói cách khác, nhân tố chủ quan là những gì thuộc về chủ thể,
tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động của chủ thể, cũng như bản
thân hoạt động đó. Do vậy, sẽ là sai lầm nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với
tất cả các yếu tố tạo thành cái chủ quan, hoặc đồng nhất nhân tố chủ quan với
ý thức của chủ thể. Vì “yếu tố” là khái niệm chỉ các bộ phận cấu thành sự vật
hiện tượng, còn “nhân tố” là khái niệm chỉ cái trực tiếp tham gia vào hoạt
động của chủ thể; nhân tố chủ quan chỉ là một bộ phận của cái chủ quan được
chủ thể huy động sử dụng trực tiếp trong quá trình tác động lên khách thể cụ
thể. Cho nên, nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với cái chủ quan, hoặc với ý
thức của chủ thể sẽ là không đầy đủ và không làm rõ được đặc trưng của nhân
tố chủ quan như là những gì thuộc về hoạt động của chủ thể, nhân tố chủ quan
không phải là ý thức nói chung của chủ thể, mà là ý thức trực tiếp chỉ đạo
hoạt động của chủ thể. Ngoài các yếu tố của chủ thể như năng lực thể chất, ý
thức chỉ đạo và định hướng hoạt động thực tiễn, thì nhân tố chủ quan còn bao
hàm cả bản thân hoạt động đó nữa, nếu thiếu hoạt động của con người thì
không thể thay đổi hiện thực và không thể trở thành nhân tố chủ quan. Đề cập
đến vấn đề này, C.Mác khẳng định tư tưởng căn bản không thể thực hiện
được gì hết. Muốn thực hiện được tư tưởng cần có những con người sử dụng
lực lượng thực tiễn.
Khái niệm nhân tố chủ quan cũng không đồng nhất với khái niệm
nhân tố con người. Nhân tố con người là tất cả những gì thuộc về con người
(mọi mặt của con người) trong hoạt động cải tạo thế giới (tự nhiên, xã hội và
cả bản thân con người). Nhân tố chủ quan có phạm vi xem xét hẹp hơn nhân
tố con người, vì nó chỉ thể hiện vai trò của chủ thể trong một hoạt động xác
định.
Con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh nhưng đồng thời cũng là
chủ thể của hoàn cảnh. Do đó, khi đặt trong mối quan hệ chung nhất, đối diện
với tự nhiên chúng ta có khái niệm con người. Khi đặt con người trong trạng
thái tích cực hoạt động trước một đối tượng cần nhận thức và cải tạo theo mục
đích nhất định, lúc đó có khái niệm chủ thể và đối lập với nó là khái niệm
khách thể.
Về phạm trù cái khách quan, cũng có rất nhiều cách hiểu và quan
điểm khác nhau, có ý kiến quy phạm trù khách quan về phạm trù vật chất, có
ý kiến cho rằng cái khách quan bao hàm cả hiện tượng ý thức…Trên thực tế,
muốn khẳng định cái gì là khách quan phải đặt nó trong mối quan hệ giữa chủ
thể và khách thể. Không thể đồng nhất cái khách quan với hiện thực khách
quan hay thế giới vật chất, vì chỉ có những hiện tượng ý thức tồn tại bên ngoài
ý thức và ý chí của chủ thể, bị chủ thể tác động biến đổi, thì ý thức ấy đóng
vai trò là khách thể. Như vậy, cái khách quan là tất cả những gì tồn tại
ngoài chủ thể và không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể.
Cái khách quan bao gồm cả những yếu tố vật chất và yếu tố tinh
thần. Nhưng trong hoạt động thực tiễn của chủ thể không phải toàn bộ cái
khách quan đều đóng vai trò là khách thể, mà chỉ có một bộ phận của cái
khách quan tham gia vào hoạt động của chủ thể, trở thành khách thể chịu tác
động của chủ thể trong một thời điểm, hoàn cảnh nhất định. Một bộ phận ấy
(có thể là những yếu tố vật chất như: môi trường tự nhiên, là quan hệ chính
trị- xã hội, hoặc là yếu tố tinh thần như: ý thức xã hội lạc hậu cần cải tạo…).
Đó chính là điều kiện khách quan.
Khi nói tới khái niệm điều kiện khách quan là tổng thể những mặt, những
nhân tố tạo nên hoàn cảnh hiện thực.Trong đó chủ thể sống và thực hiện mọi
hoạt động ở những thời điểm nhất định. Điều kiện khách quan luôn mang tính
cụ thể, bao gồm: những yếu tố vật chất, tinh thần, những quy luật khách quan,
những khả năng khách quan (khả năng tiềm ẩn có thể sảy ra trong tương lai).
Những yếu tố ấy sẽ là những điều kiện cụ thể tạo nên hoàn cảnh, môi trường,
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của chủ thể tại một thời điểm lịch sử nhất
định, nó quyết định hoạt động của chủ thể, vì những hoạt động của chủ thể chỉ
được thực hiện trong những điều kiện nhất định. Việc lựa chọn nắm bắt hoàn
cảnh như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại trong
hoạt động thực tiễn của chủ thể.
1.2 Mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan
Khi khám phá ra các quy luật phát triển của xã hội, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chứng minh đầy thuyết phục vai trò quyết định của vật chất
đối với ý thức, giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa tồn tại xã
hội đối với ý thức xã hội. Bằng cách đó, các ông đã luận chứng cho cách tiếp
cận duy vật vấn đề mối tương quan giữa cái chủ quan và cái khách quan. Tuy
nhiên, vào thời của mình, do hoàn cảnh lịch sử mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chủ yếu chú ý luận chứng cho vai trò quyết định của các điều kiện vật chất
trong sự phát triển của xã hội.
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin viết “Chủ
nghĩa Mác khác tất cả các lý luận xã hội chủ nghĩa khác ở chỗ nó kết hợp một
cách tài tình tính sáng suốt khoa học hoàn toàn trong việc phân tích tình hình
khách quan và sự tiến hóa khách quan, với việc thừa nhận một cách hết sức
dứt khoát tác dụng của nghị lực cách mạng, tính sáng tạo cách mạng và tính
chủ động cách mạng của quần chúng, - và dĩ nhiên là cả của những cá nhân,
những tập đoàn, những tổ chức và những chính đảng biết phát hiện ra và thực
hiện được sự liên hệ với những giai cấp này hoặc giai cấp khác” [V.I.Lênin,
Toàn tập, tập 16, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1980. tr.29] . Trong quá trình nghiên cứu
lý luận và hoạt động thực tiễn, Lênin luôn đứng trên lập trường mác-xít về sự
thống nhất cái chủ quan và cái khách quan.
1.2.1 Khách quan quyết định chủ quan
Vai trò chủ đạo và quyết định của điều kiện khách quan thể
hiện ở chỗ điều kiện khách quan bao giờ cũng là cơ sở, tiền đề của nhân
tố chủ quan. Điều này được thể hiện ở những nội dung sau:
Điều kiện khách quan một mặt quy định nhiệm vụ lịch sử của nhân
tố chủ quan, mặt khác nó tạo ra những tiền đề, những khả năng hiện thực để
giải quyết chúng.
Bằng hoạt động thực tiễn, nhân tố chủ quan cải tạo thế giới khách
quan, quá trình cải tạo đó lấy điều kiện khách quan làm tiền đề. Nhân tố chủ
quan chỉ là sự phản ánh và thực hiện những nhu cầu đã chín muồi của đời
sống xã hội. Những nhiệm vụ mà nhân tố chủ quan phải giải quyết là những
nhiệm vụ do lịch sử đề ra và quy định nội dung, biện pháp giải quyết.
Khi thực hiện một nhiệm vụ nào đó, nhận tố chủ quan phải xem xét
những điều kiện vật chất khách quan để giải quyết. Về vấn đề này, C.Mác
khẳng định, những cá nhân… hành động trong những giới hạn tiền đề và điều
kiện thực chất nhất định, không phụ thuộc vào ý chí của họ
Như vậy, mọi hoạt động của con người đều phải dựa vào điều
kiện khách quan nhất định. Không có những điều kiện khách quan cần thiết
thì mọi cố gắng chủ quan cũng không thể đem lại những cải tạo thực tế đối
với xã hội. Con người không thể bất chấp các điều kiện khách quan mà chỉ có
thể hành động thành công trong giới hạn mà các điều kiện khách quan cho
phép.
Vai trò hàng đầu trong sự phát triển lịch sử - xã hội thuộc về các
điều kiện khách quan vốn quyết định tính chất và chiều hướng chủ yếu của
các quá trình xã hội. Nhân tố chủ quan, xét về nguồn gốc và các chức năng
- là sản phẩm của các điều kiện khách quan. Những tình cảm, tư tưởng, ý
chí, mong muốn đa dạng đều được xác định bởi các điều kiện khách quan.
Chẳng hạn, tính tự phát, tính thiếu tổ chức của các cuộc nổi dậy nông dân
chống áp bức và bóc lột phong kiến là kết quả của sự phân tán, manh mún về
kinh tế, trong khi đó, tính tự giác, tính tổ chức và tính cách mạng của giai cấp
công nhân được lý giải trước hết bởi vị trí của nó trong hệ thống sản xuất
TBCN.
1.2.2 Tính độc lập tương đối của nhân tố chủ quan
Tuy nhiên, nhân tố chủ quan không phải là hệ quả tự nhiên của các
điều kiện khách quan. Nó cũng có tính độc lập tương đối, có các tính quy
luật phát triển, lôgich riêng của mình và chỉ xét đến cùng mới bị quyết
định bởi các điều kiện khách quan. Trong lịch sử đã có những trường hợp
khi các tiền đề khách quan của sự cải biến xã hội đã có rồi mà nhân tố chủ
quan còn chưa chín muồi. Chẳng hạn, việc có tình huống cách mạng ở nước
Đức vào năm 1918 nhưng đã không dẫn đến thắng lợi của giai cấp công nhân,
bởi lẽ “trong thời gian khủng hoảng, công nhân Đức không có một chính đảng
thật sự cách mạng” [V.I.Lênin, Toàn tập, tập 44. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980;
tr.107] . Đó là do thiếu nhân tố chủ quan, chỉ có riêng những điều kiện khách
quan là chưa đủ để thực hiện những cải biến cách mạng căn bản, các điều kiện
đó chỉ biểu hiện như những khả năng hiện thực. Chính nhân tố chủ quan đã
chín muồi mới là lực lượng hiện thực hóa khả năng đã có sẵn trong các điều
kiện khách quan. Mặc dù cái chủ quan không quyết định cái khách quan
nhưng lại quyết định hoạt động của con người. Do vậy, Lênin dành nhiều
nỗ lực để vạch ra nhân tố chủ quan của cách mạng trong sự thống nhất biện
chứng với các yếu tố khách quan.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ như vũ bão, vai
trò của cái chủ quan to lớn, ngày càng phát triển trong xã hội loài người
nhưng cái chủ quan không thể quyết định cái khách quan. Hay nói cách khác,
chủ quan có thể tạo khả năng cho con người làm chủ cái khách quan
nhưng không quyết định cái khách quan. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy
là vì toàn bộ mục tiêu hoạt động, phương pháp hoạt động của chủ thể không
thể vượt ra ngoài giới hạn của khách quan. Cái chủ quan muốn cải tạo cái
khách quan đều phải thông qua phương tiện vật chất, lực lượng nói chung.
Bản thân cái chủ quan thuộc phạm trù ý thức nên không thể làm biến đổi thế
giới. Mọi sáng tạo của cái chủ quan sẽ là vô nghĩa nếu không xuất phát từ tiền
đề hoặc tuân theo quy luật khách quan.
Tóm lại, quá trình sống của con người là quá trình không ngừng
chinh phục thế giới khách quan, là quá trình thích ứng với hoàn cảnh bên
ngoài bằng cách cải tạo hoàn cảnh theo nhu cầu của mình. Do đó, mối quan
hệ giữa khách quan và chủ quan là vấn đề quan trọng, bao quát và chi phối rất
nhiều vấn đề khác của đời sống xã hội.
- Xem thêm -