Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Bài tập giữa kỳ môn học lý luận quản lý và quản lý...

Tài liệu Bài tập giữa kỳ môn học lý luận quản lý và quản lý

.DOC
13
197
141

Mô tả:

BÀI TẬP GIỮA KỲ MÔN HỌC LÝ LUẬN QUẢN LÝ VÀ QUẢN LÝ Đề bài 1. Thế nào là khái niệm và phạm trù trong khoa học quản lý giáo dục? 2. Trình bày ví dụ về 5 khái niệm trong khoa học quản lý giáo dục và xác định khả năng (tần suất) thực hiện các khái niệm đó. Bài làm 1. Khái niệm và phạm trù trong khoa học quản lý giáo dục Giáo dục là một dạng hoạt động đặc biệt có nguồn gốc từ xã hội, bản chất của hoạt động giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá dân tộc, nhân loại được kế thừa, bổ sung, hoàn thiện và trên cơ sở đó không ngừng phát triển. Quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống có ý thức hợp quy luật của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau lên tất cả các mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm đảm bảo cho hệ thống giáo dục vận hành bình thường và liên tục phát triển, mở rộng cả về số lượng cũng như chất lượng. Hay nói cách khác: quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có chủ đích có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, nhân viên học sinh cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thự hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục. "Hoạt động quản lý giáo dục" xem như đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục, tới mức hình thành nên rất nhiều những khái niệm, những phạm trù cơ bản của khoa học này. Trong nghiên cứu, người ta thường vận dụng các khái niệm để phán đoán hay tiên đoán. Phán đoán là vận dụng các khái niệm để phân biệt, so sánh những đặc tính, bản chất của sự vật đó. Vậy “Khái niệm” là gì? Khái niệm là quá trình nhận thức hay tư duy của con người bắt đầu từ những tri giác hay bằng những quan sát sự vật hiện thực tác động vào giác quan. Như vậy, “Khái niệm” có thể hiểu là hình thức tư duy của con người về những thuộc tính, bản chất của sự vật và mối liên hệ của những đặc tính đó với nhau. Người nghiên cứu khoa học hình thành các “khái niệm” để tìm hiểu mối quan hệ giữa các khái niệm với nhau, để phân biệt sự vật này với sự vật khác và để đo lường thuộc tính bản chất của sự vật hay hình thành khái niệm nhằm mục đích xây dựng cơ sở lý luận. Là một chuyên ngành khoa học non trẻ, đồng thời dựa trên và có quan hệ mật thiết với nhiều ngành khoa học sinh ra trước và sau nó, khoa học quản lý giáo dục tất yếu sẽ sử dụng bộ máy khái niệm, phạm trù đã được sinh thành và sử dụng trong những ngành khoa học hữu quan cũng như có ngoại diên rộng hơn, biểu hiện cái chung nhiều hơn khi có những biến thái thích hợp vào lĩnh vực phản ánh chuyên biệt hơn, đặc thù hơn của mình. Vì vậy, các khái niệm, phạm trù của khoa học quản lý giáo dục có đặc điểm liên ngành khoa học rất rõ nét. Nếu một khoa học nào đó sử dụng khái niệm, phạm trù của các khoa học khác, thì những khái niệm, phạm trù đó đã được "đồng hoá", đã trở thành "cái của mình", với nội dung phản ánh đối tượng của chuyên ngành khoa học này chứ không chỉ là sự sao chép hay vay mượn giản đơn. Có thể khẳng định rằng, khoa học quản lý giáo dục, trong quá trình phát triển, đã hình thành nên các khái niệm, phạm trù của riêng mình với tính chất liên ngành khoa học vốn là thuộc tính của khoa học quản lý nói chung và khoa học quản lý giáo dục nói riêng. Khi biện minh về đặc điểm liên ngành của khoa học quản lý giáo dục, đã khẳng định rằng, các khái niệm, phạm trù của khoa học này - với tính liên ngành của chính đối tượng được phản ánh - phản ánh những hiện tượng, những hoạt động, sự vật thuộc về thực tiễn quản lý giáo dục. Chính đặc điểm này cho phép chúng ta phân biệt các khái niệm, phạm trù khoa học quản lý giáo dục với các khái niệm và phạm trù của các khoa học khác. Do đặc điểm liên ngành, việc xác định, phân biệt, khu trú lớp đối tượng được một khái niệm phản ánh trong khoa học quản lý giáo dục là một trong những nhiệm vụ của công trình nghiên cứu này. Có những đối tượng được nhiều ngành khoa học khác nhau nghiên cứu, được nhiều ngành khoa học khác nhau sử dụng bộ máy khái niệm của mình để phản ánh. 2 Các khái niệm - phạm trù của chuyên ngành khoa học quản lý giáo dục có tính phổ quát, có tần xuất sử dụng cao. Đặc điểm này rất dễ nhận diện bởi nó đã là một nguyên cớ dẫn đến sự "thường nhật hoá" các thuật ngữ khoa học. Khi xây dựng các khái niệm của khoa học quản lý giáo dục, các tác giả của công trình nghiên cứu này cố gắng dựa trên quy luật lô gíc học về mối quan hệ giữa Ngoại diên và Nội hàm của các khái niệm và phạm trù để đi đến kết luận rằng các khái niệm, phạm trù của khoa học này được phân biệt đủ tường minh, hay các khái niệm, phạm trù có đủ độ phân biệt cần thiết; nói cách khác khái niệm phạm trù phản ánh (hay chỉ) đúng đối tượng. Những phân tích nói trên nhằm chứng minh một luận điểm: các khái niệm phạm trù của chuyên ngành khoa học quản lý giáo dục có "lớp" đối tượng phản ánh riêng của chúng và những dấu hiệu cơ bản đặc trung của lớp đó được phản ánh đầy đủ và rõ ràng trong khái niệm hay phạm trù được xem xét. Điều đó có nghĩa là độ phân biệt của các khái niệm và phạm trù đủ rõ ràng để hình thành một cách vững chắc "thuật ngữ khoa học" tương ứng. 2. Trình bày ví dụ về 5 khái niệm trong khoa học quản lý giáo dục và xác định khả năng (tần suất) thực hiện các khái niệm đó. Từ khái niệm chung trên ta có thể đưa ra những khái niệm riêng về Khoa học Quản lý giáo dục như sau: Thứ nhất: Các tác giả "Giáo trình khoa học quản lý " (2002) - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt tới mục tiêu đã đề ra. Thứ hai: Theo Nguyễn Ngọc Quang: Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể của những người lao động (nói chung là khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến. Thứ ba: Các tác bộ "Giáo trình quản lý hành chính Nhà nước" của Học viện Hành chính quốc gia (1994) đã viết: Quản lý là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi hoạt động của con 3 người để đạt tới một mục đích đúng ý chí của người quản lý và phù hợp với quy luật khách quan. Thứ tư: Khoa học Quản lí giáo dục là Khoa học có tính liên ngành, có quan hệ với rất nhiều khoa học khác. Điều này là hiển nhiên vì nó phải giải quyết nhiều loại quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội này lại được các khoa học (hoặc nhóm khoa học) nghiên cứu. Có thể kể đó là: - Khoa học Mác-Lênin với ba bộ phận hợp thành: triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chính trị - kinh tế học và chủ nghĩa xã hội khoa học. - Khoa học quản lý được coi là cơ sở quan trọng trong hỗ trợ đặc lực cho Khoa học quản lý giáo dục phát triển. - Khoa học Tổ chức bàn về các điều kiện, các quy luật phát triển tổ chức, các nhân tố tổ chức trong quản lý, sự tương tác giữa quản lý và tổ chức….. - Điều khiển học gồm lý thuyết hệ thống, lý thuyết điều khiển, lý thuyết thông tin, vận trù học;….. - Khoa học giáo dục, trong đó có giáo dục học đại cương, Giáo dục học chuyên biệt (cho người lớn, trẻ em, người khuyết tật,.....), Lý luận dạy học, Xã hội học giáo dục, Kinh nghiệm học giáo dục... - Khoa học Tâm lý, trong đó có Tâm lý học quản lý, Tâm lý học sư phạm, Tâm lý học giao tiếp, ứng xử..... - Một số thành tựu khoa học mang tính công cụ hỗ trợ cho việc nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục, chẳng hạn Thống kê toán học….. Ngày nay do sự phát triển của xã hội, của khoa học và công nghệ, nhiều yếu tố của khoa học này thâm nhập vào khoa học khác và ngược lại. Khoa học Quản lý giáo dục cũng mang đặc điểm này. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với các nhà nghiên cứu cũng như hoạt động thực tiễn là phải vừa hiểu sâu vấn đề đang quan tâm, lại phải có tầm nhìn đủ rộng để có cách xem xét và giải quyết mang tính tổng quát, toàn cục, tránh sự phiến diện, hẹp hòi. Thứ năm: Khoa học Quản lý giáo dục là khoa học có tính ứng dụng cao, bởi quản lý giáo dục là lĩnh vực hoạt động thực tiễn của con người, thuộc phạm trù phương pháp. Do đó, việc nghiên cứu Khoa học Quản lý giáo dục đương 4 nhiên phải bắt nguồn từ thực tiễn và thành tựu nghiên cứu của nó không thể là lý thuyết trừu tượng, ít hoặc không bổ ích đối với các nhà quản lý cũng như đối với yêu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục. Mục đích cuối cùng cũng là mục đích cao nhất, chủ yếu nhất của những người làm công tác nghiên cứu Khoa học quản lí giáo dục là đưa thành tựu nghiên cứu của mình áp dụng vào thực tiễn. Thực tiễn chính là nơi phán xét đúng đắn, tính khoa học, tính khả thi của các công trình nghiên cứu. Từ khái niệm bốn và năm nêu trên, Khoa học Quản lí giáo dục phải đảm nhận đầy đủ ba chức năng, giống như bất kì một ngành khoa học nào. Đó là: - Chức năng nhận thức - Chức năng cải tạo và - Chức năng dự báo Sự thực ba chức năng trên đan xen vào nhau, hỗ trợ nhau trong thực tiễn phát triển của Khoa học Quản lý giáo dục. Nhiều khi trong các công trình nghiên cứu, người nghiên cứu vừa tiến hành khảo sát, điều tra, vừa đưa ra những giải pháp tác động nhằm cải tạo hiện thực. Nhưng cũng chính sự biến đổi của hiện thực lại giúp người nghiên cứu nhận thức sâu sắc hơn đối tượng nghiên cứu của mình, đồng thời thấy được xu hướng vận động, từ đó có cơ sở dự báo sự phát triển của nó trong tương lai. Như vậy sẽ giúp ích rất nhiều cho các nhà quản lý. Họ vừa hành động và lý giải cơ sở khoa học cho hành động của mình, lại chủ động nắm bắt thời cơ, có biện pháp đón đầu, tạo điều kiện thuận lợi cho sự vật phát triển. Qua phân tích các ví dụ về khái niệm trong khoa học quản lý giáo dục ta thấy phần chủ yếu của Khoa học Quản lý giáo dục là các vấn đề quản lý nhà trường. Bởi, suy cho cùng, nhà trường chính là tế bào căn bản, cơ sở trong hệ thống giáo dục quốc dân và thực tiễn nhà trường là sự hiện thực hoá và thử thách mọi lý luận giáo dục, mọi quan điểm, chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước. Tóm lại, nhà trường là bộ mặt của giáo dục, thực tiễn nhà trường là cơ sở đánh giá nền giáo dục, lý luận giáo dục cũng như lý luận quản lý 5 giáo dục. Do đó quản lý nhà trường được xuất hiện nhiều hơn (Tần xuất) và là chủ đề lớn . Để làm sáng tỏ về Quản lý nhà trường sau đây em xin được nêu rõ 5 khái niệm trong khoa học quản lý giáo dục: 1. Khái niệm Nhà trường: (Theo Từ điển giáo dục học, NXB Từ điển bách khoa, 2001, trang 301). Nhà trường, tổ chức giáo dục được coi là một đơn vị có tư cách pháp nhân, đặt dưới quyền một hiệu trưởng, nhằm đảo bảo việc giáo dục học sinh, sinh viên (nói chung là người học) và hoạt động của học sinh, sinh viên, giáo viên và những thành viên khác. Luật Giáo dục Việt Nam quy định: Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của nhà nước, nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và tổ chức theo các loại hình trường công lập, trường tư thục. Nhà trường thuộc các loại hình công lập, bán công, dân lập, tư thục... đều chịu sự quản lý của Nhà nước, của các cơ quan quản lý giáo dục theo sự phân công của Chính phủ. Khái niệm “Nhà trường” là một khái niệm mà nội hàm của nó ngày càng mở rộng. Quan niệm về nhà trường luôn vận động và phát triển theo xu thế của giáo dục. Nhà trường là cấu trúc cơ sở của một hệ thống giáo dục quốc dân. Nhà trường là một thiết chế xã hội (có quy chế, quy tắc, luật lệ), là tổ chức (có bộ máy nhân sự) có một cơ sở vật chất xác định. Khái niệm “Nhà trường” cần được xem xét trong một quá trình truyền đạt kinh nghiệm lịch sử xã hội của thế hệ đi trước cho thế hệ đi sau nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống lao động, xã hội, tức là đào tạo lao động mới cho xã hội. Nhà trường chỉ thực hiện chức năng một bộ phận của giáo dục (giáo dục nhà trường). Do đó, nghiên cứu một thực tiễn của nhà trường thì cần phải nghiên cứu hệ thống giáo dục và ngược lại muốn nghiên cứu hệ thống giáo dục thì cần phải nghiên cứu nhà trường. Thời đại ngày nay đã thừa nhận vai trò chủ đạo của giáo dục nhà trường trong việc đào tạo sức lao động mới cho xã hội. Mục đích của nhà trường là giáo dục công dân, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục phát triển các nhân cách. Giáo 6 dục nhà trường đáp ứng yêu cầu tồn tại và phát triển của xã hội. Tuy nhiên, giữa nội dung giáo dục trong nhà trường và thực tiễn khoa học công nghệ bao giờ cũng có “độ trễ”. Giảm “độ trễ” này là một tiêu chí đánh giá sự tiến bộ và tính hiện đại của nhà trường trong quá trình phát triển và tiến bộ xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong nền văn minh tin học, sự phát triển của công nghệ máy tính điện tử và mạng Internet trở thành nhân tố ảnh hưởng đáng kể tới nhà trường. Nhờ có máy tính điện tử và mạng Internet mà một phần của giáo dục chuyển dịch ra khỏi nhà trường về các gia đình. Với kỹ thuật, máy tính kết hợp với mạng Internet người ta có thể tự tiến hành đào tạo lại, làm phong phú thêm vốn tri thức, kỹ năng của mình để thích ứng với sự biến đổi thường xuyên của công nghệ và làm việc, không nhất thiết phải đến trường. Sự phát triển của công nghệ máy tính và kỹ thuật viễn thông đang dẫn đến sự toàn cầu hoá giáo dục và do đó nhà trường cũng mang tính toàn cầu hoá. Ngày nay nhà trường đang dần trở thành hệ mở, không bị khuôn cứng lại trong một không gian, thời gian hay nội dung đào tạo nhất định. Nhà trường là một hệ mở với đối tượng học (đa dạng hoá đầu vào và nội dung đào tạo); mở về mối quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, mở về phương thức đào tạo, thể hiện tính đa dạng hóa của giáo dục. Do đó khái niệm nhà trường cũng mở rộng hơn, không chỉ giới hạn trong nhà trường chính quy mà bao hàm tất cả các điều kiện nhà trường khác nhau, trong đó nhà trường chính quy được xem là hệ thống đơn vị nòng cốt của hệ thống giáo dục. Việt Nam hiện đang phấn đấu để xây dựng nhà trường hiện đại với đặc trưng nêu trên, mang tính đặc thù về bản sắc Việt Nam, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đó là nhà trường thực hiện giáo dục toàn diện: trí dục, đức dục, thể dục, mỹ dục và Giáo dục lao động kỹ thuật tổng hợp; thực hiện theo nguyên lý giáo dục; học đi đôi với hành; giáo dục kết hợp với lao động sản xuất; nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội; nội dung giáo dục đảm bảo tính khoa học, đại chúng, dân tộc; thực hiện bình đẳng giáo dục; không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tôn giáo, thành phần xã hội, đảm bảo sự 7 dân chủ trong quá trình giáo dục và mọi hoạt động của nhà trường; nhà trường là nơi tuyên truyền, giáo dục sâu rộng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 2. Khái niệm Quản lý nhà trường Nhà trường là thiết chế cơ bản của nền giáo dục có bản chất xã hội, nhưng không phải bản chất này “tự nhiên” đến với nhà trường, mà trong quá trình giáo dục, nhà trường phải chủ động tích cực kết hợp với gia đình và xã hội (môi trường giáo dục của nhà trường) để giáo dục HS. Nhà trường là đối tượng quản lý cơ bản của tất cả các cấp quản lý giáo dục có nhiệm vụ vận dụng những nguyên lý, những phương pháp của kế hoạch quản lý giáo dục để đẩy mạnh các hoạt động của nhà trường, đảm bảo sự phát triển toàn diện, hài hoà của thế hệ trẻ nhằm đạt tới mục tiêu giáo dục đặt ra trong từng thời kỳ phát triển của đất nước. Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng HS . Quản lý trường học là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của GV, HS, và các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nhà trường. Mục đích của quản lý nhà trường là đưa nhà trường từ trạng thái đang có, tiến đến trạng thái phát triển mới bằng phương thức xây dựng và phát triển mạnh mẽ các nguồn nhân lực giáo dục và hướng các nguồn nhân lực đó vào phục vụ cho việc tăng cường chất lượng giáo dục. Mục đích cuối cùng của quản lý giáo dục là tổ chức quá trình đào tạo giáo dục có hiệu quả để đào tạo lớp thanh niên thông minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và biết phấn đấu vì hạnh phúc của bản thân và của xã hội. 3. Khái niệm về quản lý 8 Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất và lâu đời của con người. Nó "xưa cũ như chính con người vậy" . Tuy nhiên, chỉ mới gần đây người ta mới chú ý đến "chất khoa học" của quá trình quản lý và dần dần hình thành các "lý thuyết quản lý". Có thể điểm qua một số lý thuyết đó như sau: K.Marx: "Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng". F.W. Taylor (1856 - 1915) là người được coi là cha đẻ của thuyết quản lý khoa học đã cho rằng cốt lõi trong quản lý là: "Mỗi loại công việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hóa và phải quản lý chặt chẽ". "Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất". Henri Fayol (1841 - 1925) thì lại xuất phát từ các loại hình hoạt động quản lý khi cho rằng: "Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra" . H.Koontz (Mỹ): "Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm (tổ chức). Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất" . Mary Parker Follett (1868 - 1933) đã có những đóng góp lớn lao trong thuyết hành vi trong quản lý khẳng định: "Quản lý là một quá trình động, liên tục, kế tiếp nhau chứ không tĩnh tại". Theo Đại từ điển tiếng Việt: quản lý là "tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, một cơ quan", là "trông coi, gìn giữ và theo dõi việc gì" [51, tr.1363]. Nghĩa Hán Việt của "Quản" là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu 9 nhất định, duy trì sự vật ở trạng thái ổn định; quá trình "Lý" bao gồm sửa sang, sắp đặt công việc, đổi mới, đưa hệ thông đo vào phát triển. Trong "quản" phải có "lý" thì toàn hệ mới có thể phát triển, trong "lý" phải có "quản" thì sự phát triển của hệ mới ổn định, bền vững. Hai quá trình này phải được gắn bó chặt chẽ với nhau thì toàn hệ mới đạt được thế cân bằng động, tồn tại và phát triển phù hợp trong mối tương tác với các yếu tố bên trong và bên ngoài. Theo cố GS. Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý là sự tác động có mục đích tới tập thể những người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định và mục đích đã định trước". Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: hoạt động quản lý là "tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) - trong một tổ chức - nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức". Từ những quan niệm trên, ta thấy bản chất chung của khái niệm quản lý là một quá trình tác động có ý thức, có định hướng và có tổ chức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra một cách hiệu quả nhất trong điều kiện biến động của môi trường. Quản lý tồn tại trong mọi quá trình hoạt động xã hội và là điều kiện quan trọng để tổ chức vận hành và phát triển. 4. Khái niệm quản lý giáo dục Có thể khẳng định, giáo dục và quản lý giáo dục là tồn tại song hành, Giáo dục xuất hiện nhằm thực hiện cơ chế truyền kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người, của thế hệ đi trước cho thế hệ sau và để thế hệ sau có trách nhiệm kế thừa, phát triển nó một cách sáng tạo, làm cho xã hội, giáo dục và bản thân con người phát triển không ngừng. Để đạt được mục đích đó, quản lý được coi là nhân tố tổ chức, chỉ đạo việc thực thi cơ chế nêu trên. Đối với cấp vĩ mô (quản lý một nền / hệ thống giáo dục) Quản lý giáo dục là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà trường) nhằm thực hiện 10 có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đã đặt ra ngành giáo dục. Đối với cấp vĩ mô (quản lý một nhà trường/trường học) Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, học viên, cha mẹ học sinh, học viên và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường. Nói một cách tổng quát: Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. QLGD là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩu mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu phát triển xã hội. - Bản chất của quản lý giáo dục là vì lợi ích phát triển của giáo dục, nhằm mục tiêu tối thượng là hình thành và phát triển nhân cách người được giáo dục, đối tượng và chủ thể giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. - Đối tượng của quản lý giáo dục là: hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống quản lý giáo dục, các quan hệ quản lý, các chủ thể quản lý cấp dưới, tập thể và cá nhân giáo viên và học sinh. 5. Khái niệm Người quản lý Theo nghĩa rộng: Người quản lý bao gồm tất cả những người tham gia vào hệ thống quản lý và hình thành chức năng nhất định. Theo nghĩa hẹp: Người quản lý là những người có thẩm quyền ra quyết định dù được phân quyền hay ủy quyền. Người quản lý là những người làm việc trong bộ máy, là người thực hiện các chức năng quản lý nhằm đạt được những mục tiên của tổ chức với kết quả và hiệu quả cao. Nói chung: người quản lý là người làm việc trong tổ chức, điều khiển công việc của người khác và chịu trách nhiệm trước cấp trên về kết quả hoạt 11 động của họ, là người chịu trách nhiệm trong việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra con người, tài chính, vật chất và thông tin.. của bộ phận hay tổ chức để đưa tổ chức đạt được mục tiêu đã đề ra. Người quản lý là người: - Biết điều họ muốn xảy ra và làm cho nó xảy ra. - Chịu trách nhiệm kiểm soát các nguồn tài nguyên và đảm bảo chúng được dùng một cách tối ưu. - Khuyến khích tính hiệu quả trong công việc và tìm kiếm sự tiến bộ không ngừng. - Chịu trách nhiệm về kết quả làm việc của bộ phận họ quản lý mà trong đó họ là một thành phần. - Tạo ra bầu không khí hoặc tiếng nói chung cho phép mọi người có thể phát huy tốt nhất khả năng của họ. Phân loại người cán bộ quản lý: - Người quản lý cấp thấp: hướng dẫn, đốc thức, điều khiển nhân viên trong công việc hàng ngày. - Người quản lý cấp trung gian: Đưa ra các quyết định chiến thuật để thực hiện kế hoạch và chính sách của tổ chức. - Người quản lý cấp cao: Xây dựng chiến lược, kế hoạch hành động và phát triển tổ chức. Chức năng của người quản lý: - Thiết lập các mục tiêu cho tổ chức, quyết định nội dung của các mục tiêu và cách thức thực hiện chúng. - Tổ chức mọi hoạt động, phân phối các nguồn lực của tổ chức, phân chi công việc và lựa chọn người phù hợp giao phó đảm nhận công việc. - Thúc đẩy và truyền thông một cách có hiệu quả, động viên, thúc đẩy mọi người làm việc đạt năng suất cao. biết cách thông tin có hiệu quả với các cấp. - Đo lường kết quả công việc của tổ chức - Phát triển nguồn nhân lực của tổ chức. 12 Một cách tổng quát: người quản lý là người có trách nhiệm phân bố nhân lực và các nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành của một bộ phận hay toàn bộ tổ chức để tổ chức hoạt động có hiệu quả và đạt đến mục đích. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng