Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận Quy trình sản xuất Tôm sú và tôm càng xanh...

Tài liệu Tiểu luận Quy trình sản xuất Tôm sú và tôm càng xanh

.DOC
33
3098
108

Mô tả:

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long Nau Nauplius Zoe Zoea My Mysis PL/POST Postlarvae TCX/tcx Tôm càng xanh Art Artemia CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1.1. Giới thiệu Nuôi trồng thủy sản ở nước ta đã trở thành nghề phổ biến và phát triển hết sức nhanh chóng, đang góp phần phát triển nền kinh tế đồng thời cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho người dân. Các đối tượng thủy sản chủ yếu là: tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm càng xanh, cá tra,…( Thu Hiền, “Xuất khẩu thủy sản 8 tháng đầu năm tăng 5,2%”- Tổng cục thủy sản Việt Nam, 2016). Ở Việt Nam, tiềm năng nuôi tôm là rất lớn. Nước ta có 3260 km bờ biển, 12 đầm phá và các eo vịnh, 112 cửa sông rạch, hàng ngàn đảo lớn nhỏ ven biển là những nơi rất thuận lợi cho việc nuôi trồng các loại thủy sản lợ mặn. Tôm sú (Penaeus monodon Fabricius, 1798) và tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii De Man, 1879) là một trong những đối tượng thủy sản quan trọng nhất trong nghề thủy sản thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, nghề nuôi thủy sản nói chung và nghề nuôi tôm nói riêng đang gặp nhiều khó khăn đáng kể. Đó là tình hình dịch bệnh và nguồn con giống không đáp ứng cả về số lượng lẫn chất lượng. Đặt biệt là tình trạng thiếu hụt nguồn giống và chất lượng giống không đảm bảo, giống trôi nổi ồ ạt trên thị trường là vấn đề nan giải nhất; trong khi đó nguồn giống đã quyết định đến 45% tỷ lệ thành công của vụ nuôi. Do đó, việc tiến hành thực tập sản xuất giống tôm sú và tôm càng xanh là điều hết sức có ý nghĩa và thực tế. Khoa Sinh học ứng dụng trường Đại học Tây Đô đã nhận ra điều này và tiến hành cho sinh viên thực tập chuyên môn nước lợ; mà trong đó chủ yếu là thực hành sản xuất giống tôm, với hai loại chính là tôm sú giống và tôm càng xanh. Việc này góp phần giúp sinh viên ngành thủy sản có thể phần nào nắm được quy trình sản xuất tôm giống, củng cố thêm kiến thức đã học và tạo sự tự tin khi ra trường cho sinh viên, nhằm giúp sinh viên dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm cơ hội việc làm; đây là môn học rất đáng được chú trọng và phát triển rộng hơn nữa. Bài bái cáo này được viết nhằm thống kê lại và nắm chắc hơn các bước thực hiện khi sản xuất giống đồng thời rèn luyện kỹ năng viết báo cáo khoa học và tinh thần làm việc tập thể trước khi ra trường. 1.2. Mục tiêu thực tập Rèn luyện kỹ năng thực tập, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn sản xuất giống tôm sú và tcx; trong đó giúp sinh viên nắm được cách lựa chọn tôm bố mẹ và kỹ thuật cho sinh sản, hiểu và vận hành được hệ thống công trình thiết bị trong một trại sản xuất giống, nắm được một số qui trình ương nuôi ấu trùng tôm cơ bản và nhận dạng được các giai đoạn phát triển của ấu trùng đồng thời đáp ứng đúng loại và lượng thức ăn cho cho sự phát triển của ấu trùng tôm sú. Đồng thời còn rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm cho sinh viên, giúp sinh viên tiếp xúc thực tế, tránh bỡ ngỡ khi ra trường. 1.3. Nội dung thực tập Kỹ thuật cắt mắt và cấy tinh cho tôm sú. Chọn tôm bố mẹ và tiến hành cho sinh sản tôm sú và tôm càng xanh. Tiến hành ương tôm sú giống; ương tcx theo qui trình nước trong và nước xanh cải tiến. CHƯƠNG 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2.1. Tổng quan về đặc điểm sinh học tôm sú 2.1.1. Phân loại Theo Nguyễn Văn Thường, 2009 tôm sú được phân loại như sau: Ngành: Arthropoda Lớp: Malacostraca Bộ: Decapoda Họ: Penaeidae Giống: Penaeus Loài: Penaeus monodon Fabricius, 1798 Hình 2.1 Hình thái tôm sú Penaeus monodon Theo Nguyễn Văn Thường (2009), tôm sú có chủy phát triển, chủy kéo dài đến rìa của cuống râu A1, gờ sau chủy có 3 răng và kéo dài đến hết bờ sau của Carapace. Carapace có gai râu và gai gan nhưng không có gai hốc mắt, rãnh bên chủy sâu dừng ở trước hoặc ngay sau gai thượng vị. Sợi râu trên và dưới của râu A1 dài gần bằng nhau và dài bằng cuống râu. Gờ gan thẳng, song song với mặt lưng của Carapace, không có gờ dạ dày - trán. Chân ngực V không có nhánh ngoài. Cơ thể tôm sú có màu xanh đậm, có những vân sắc tố trắng đen ở các đốt bụng, phần còn lại của thân biến đổi từ màu nâu sang màu xanh hoặc đỏ. Rìa chân hàm III và chân bụng có màu tím nâu hoặc hơi đỏ, phần nữa của chân đuôi có màu đỏ, xanh và nâu đen. Rìa của chân đuôi có lông tơ màu đỏ tía (Trương Quốc Phú, 2009). 2.1.2. Phân bố Phạm vi phân bố của tôm sú khá rộng, từ Ấn Độ Dương qua hướng Nhật Bản, Đài Loan, phía Đông Tahiti, phía Nam châu Úc và phía Tây châu Phi (Racek - 1955, Holthuis và Rosa - 1965, Motoh - 1981, 1985) (trích dẫn bởi Trương Quốc Phú, 2009). Nhìn chung, tôm sú phân bố từ kinh độ 300E đến 1550E từ vĩ độ 350N tới 350S xung quanh các nước vùng xích đạo, đặc biệt là Indonesia, Malaixia, Philippines và Việt Nam (Phạm Văn Tình, 2000). Tôm bột (PL), tôm giống (Juvenile) và tôm gần trưởng thành có tập tính sống gần bờ biển và rừng ngập mặn ven bờ. Khi tôm trưởng thành di chuyển xa bờ vì chúng thích sống vùng nước sâu, có độ trong cao và độ mặn ổn định (Nguyễn Văn Thường, 2009). 2.1.3. Vòng đời của tôm sú Theo Nguyễn Thanh Phương (2009), tôm sú đạt 8 - 10 tháng tuổi có thể tham gia sinh sản. Vòng đời của tôm sú gồm các giai đoạn: phôi, ấu trùng (Nauplius, Zoea, Mysis), hậu ấu trùng (Postlarvae), tôm giống và tôm trưởng thành. Theo FAO vòng đời tôm sú có thể tóm tắt như hình 2.2 Nguồn: tepbac.com Hình 2.2 Vòng đời tôm sú 2.1.4. Đặc điểm sinh trưởng Theo Phạm Văn Tình (2000), các giai đoạn biến thái và tốc độ sinh trưởng của tôm sú phải trải qua các chu kỳ lột xác. Quá trình lột xác của tôm được điều khiển nhờ hormone lột xác được tiết ra từ cơ quan Y và hormone ức chế lột xác được tiết ra từ cơ quan X. Chu kỳ lột xác là thời gian giữa hai lần lột xác liên tiếp nhau, chu kỳ này mang tính đặc trưng riêng biệt cho loài và giai đoạn sinh trưởng của tôm. Chu kỳ lột xác sẽ ngắn ở giai đoạn tôm con và kéo dài khi tôm càng lớn. Ngoài ra, quá trình lột xác và tốc độ tăng trưởng của tôm còn bị ảnh hưởng rất lớn bởi rất nhiều yếu tố như dinh dưỡng, độ mặn. Thời kỳ biến thái của ấu thể sau khi nở là Nauplius trải qua 6 lần lột xác, Zoea trải qua 3 lần lột xác, Mysis trải qua 3 lần lột xác. Đến giai đoạn Postlarvae một ngày lột xác một lần, từ Postlarvae 5 trở đi thì sau 1 - 2 ngày tôm lột xác một lần (phụ thuộc vào nhiệt độ và nồng độ muối). Ở giai đoạn này cơ thể gần giống tôm trưởng thành, kích thước cơ thể đầu giai đoạn Postlarvae đạt 4,9 - 5,0mm. Đến cuối giai đoạn kích thước cơ thể đạt 2 - 3cm (Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2009). Theo Phạm Văn Tình (2000), thời kì tôm con lớn lên phải trãi qua quá trình lột xác, mỗi lần lột xác tôm tăng trưởng về trọng lượng từ 10 - 15% so với lúc ban đầu. Ở thời kì tôm con cứ sau 2 - 3 ngày tôm lột xác một lần. Thời kì tôm trưởng thành quá trình lột xác ít hơn, thời gian giữa hai lần lột xác phụ thuộc rất lớn vào nồng độ muối. Nồng độ muối thích hợp cho tôm sú là 15 - 20‰. 2.1.5. Đặc điểm dinh dưỡng Theo Phạm Văn Tình (2000), tôm sú là loài ăn tạp, đặc biệt ưa ăn giáp xác nhỏ, thực vật dưới nước, mảnh vụn hữu cơ, giun nhiều tơ, hai mảnh vỏ, côn trùng. Trong tự nhiên, tôm sú bắt mồi mạnh khi thủy triều rút. Khi nuôi trong ao, tôm bắt mồi nhiều vào sáng sớm và chiều tối. Tuy nhiên, tính ăn của tôm cũng thay đổi theo giai đoạn. Giai đoạn Nauplius tôm dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Giai đoạn Zoae tôm ăn được thức ăn có kích thước <50 µm. Dinh dưỡng chủ yếu bằng tảo khuê (Sketonema, Cheatoceros sp...). Trong sản xuất giống nếu thiếu tảo tươi có thể bổ sung thêm tảo khô, thức ăn công nghiệp như: Lansy, Frippack 1,... Giai đoạn Mysis: tôm ăn được thức ăn có kích thước 50 - 90 µm, ăn chủ yếu phiêu sinh động vật, ấu trùng Artermia, luân trùng (Brachionus plicatilis). Trong sản xuất giống nhân tạo thức ăn bổ sung như: Lansy, Frippack 2,… Giai đoạn tôm bột (Postlarvae): tôm ăn được thức ăn có kích thước 90 - 250 µm. Trong tự nhiên tôm ăn các giáp xác nhỏ, nhuyễn thể nhỏ, giun nhiều tơ. Khi ương tôm giống có thể cho ăn thức ăn chế biến từ lòng đỏ trứng gà, thịt tép, cá,... hay thức ăn công nghiệp như Frippack 2, Frippack 150, N1, N2... Postlarvae giai đoạn đầu có chiều dài khoảng 4,5mm, các chân bụng có nhiều lông tơ và vẫn còn tập tính bơi trong cột nước nhưng phần lớn bắt đầu sống đáy. Từ giai đoạn Postlarvae 6 (khoảng 6 ngày từ khi tôm chuyển từ Mysis sang Postlarvae) thì tôm hoàn toàn sống đáy. Giai đoạn trưởng thành tôm sú ăn thiên về động vật đáy như giáp xác đáy, hai mảnh vỏ, giun nhiều tơ, các loại ấu trùng của động vật đáy (Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2009). Hiện tượng tôm ăn lẫn nhau xảy ra khi tôm thiếu thức ăn, thức ăn thiếu chất dinh dưỡng hay mất cân bằng trong dinh dưỡng, và nuôi với mật độ quá dày. Tôm khỏe thường tấn công tôm yếu, tôm lớn ăn tôm nhỏ và tôm vỏ cứng ăn tôm vỏ mềm (Phạm Văn Tình, 2000). 2.1.6. Đặc điểm sinh sản của tôm sú Phân biệt tôm đực và cái Tất cả các loài tôm họ tôm he đều có các cơ quan sinh dục phụ. Ở con đực, các nhánh trong của chân bụng thứ nhất biến thành cơ quan giao vĩ (Petasma). Khi chưa thành thục, các nhánh trong này đơn thuần là những nhánh thon, dẹp, nhưng khi thành thục, chúng kéo dài và dính lại với nhau nhờ những lông móc nhỏ giữa chúng. Cấu trúc của Petasma đặc trưng riêng cho từng loài. Ở tôm cái, cơ quan sinh dục phụ là Thelycum, nằm ở giữa gốc chân ngực thứ tư và năm. Thelycum là biến dạng của đốt ngực thứ tư và năm. Tùy theo loài mà có cấu trúc Thelycum khác nhau. Hình 2.3 Phân biệt tôm sú đực (male) và cái (female). Tuổi thành thục Tuổi thành thục sinh dục của tôm đực và tôm cái từ tháng thứ 8 trở đi. Xác định sự thành thục của tôm cái dễ hơn tôm đực, quan sát con cái có túi tinh ở cơ quan sinh dục phụ. Phương pháp xác định thành thục ở con đực khó hơn, chỉ khi tìm thấy được tinh trùng ở cuối ống dẫn tinh. Ngoài ra có thể dựa vào trọng lượng để xác định, khi con đực nặng từ 50g trở lên thì đạt trọng lượng thành thục. Hormone điều khiển sự thành thục sinh dục (GIH - gonal inhibiting hormone) được sản xuất bởi tế bào thần kinh trong cơ quan X của cuống mắt, vận chuyển tới tuyến giáp và được sinap đưa vào kho dự trữ và khi cần thì tiết ra. Sự thành thục sinh dục của tôm sú thông qua tác động của tuyến nội tiết, khi cắt mắt tức là thúc đẩy sự thành thục diễn ra nhanh chóng hơn. Số lượng trứng của tôm cái đẻ nhiều hay ít là phụ thuộc vào chất lượng buồng trứng và trọng lượng cá thể, trọng lượng lớn cho trứng nhiều hơn. Khi con cái thành thục ngoài tự nhiên có trọng lượng từ 100 - 300 gam và có thể cho sinh sản 300.000 - 1.200.000 trứng. Nếu cắt mắt nuôi vỗ trong bể xi măng, thành thục và đẻ, cho số lượng trứng từ 200.000 - 600.000 trứng (Phạm Văn Tình, 2000). Phát triển tuyến sinh dục cái: Ở tôm sú có 5 giai đoạn phát triển của buồng trứng dựa trên sự khác biệt về cỡ trứng, độ rộng tuyến sinh dục và màu sắc. Giai đoạn I ( chưa phát triển): cũng như giai đoạn 5 (giai đoạn thoái hóa sau khi đẻ) buồng trứng chưa phát triển, mỏng, trong suốt, không nhìn thấy được từ bên ngoài, trứng có kích cỡ 36µm. Giai đoạn II (giai đoạn phát triển): buồng trứng mềm và có màu trắng hay xanh ô liu, dạng dãy, kích cỡ trứng trung bình 177µm. Giai đoạn III (giai đoạn gần chín): buồng trứng có màu xanh nhạt, phần trước dày và nở rộng. Có thể thấy buồng trứng dễ dàng qua lớp vỏ đặc biệt ở đốt bụng thứ nhất, kích cỡ trứng 215µm. Giai đoạn IV (giai đoạn chín): buồng trứng có màu xám nâu, nở rộng khắp đốt bụng thứ nhất, phủ đầy khoang hay một phần lưng của cơ thể. Trứng có kích thước 235µm Hình 2.4 Các giai đoạn phát triển của buồng trứng tôm sú 2.1.7. Đặc điểm các giai đoạn phát triển của ấu trùng tôm sú Các giai đoạn phát triển ấu trùng tôm sú có một số đặc điểm nhận dạng nhất định. Theo Motoh (1981), cho rằng sự phát triển của ấu trùng tôm sú trải qua các giai đoạn nauplii (6 giai đoạn), zoae (3 giai đoạn) và mysis (3 giai đoạn) (trích dẫn bởi Tăng Minh Khoa, 2012). Giai đoạn Nauplius: Ấu trùng nauplius mới nở có chiều dài khoảng 0,3 mm, có 3 đôi phụ bộ và một điểm mắt ở giữa trước. Ấu trùng có tập tính trôi nổi, hướng quang, dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Hình 2.5 Đặc điểm các giai đoạn phát triển của ấu trùng tôm sú Giai đoạn Zoae: bao gồm 3 giai đoạn phụ, zoea 1 phân biệt với nauplius qua một số đặc điểm như có carapace tròn, các phụ bộ và gai đuôi phát triển. Ở giai đoạn zoae 2 ấu trùng xuất hiện 2 mắt có cuống, chủy có răng, bụng phát triển dài ra. Đôi râu thứ nhất hướng ra phía trước. Ấu trùng zoae 3 có các gai lưng và gai bụng trên các đốt bụng. Râu thứ nhất to hơn và có nhiều lông tơ. Các mầm chân ngực xuất hiện phía sau các phụ bộ miệng. Đặc điểm rõ nhất là chân bụng (uropod) xuất hiện trước đuôi. Ấu trùng zoae có tính ăn lọc, thụ động, thức ăn chính là tảo, có kích cỡ 3 - 30µm. Tuy nhiên zoae 1 vẫn còn sử dụng noãn hoàn trong khi bắt đầu ăn ngoài. Zoae có tính hướng quang mạnh. Giai đoạn Mysis: có 3 giai đoạn phụ, giai đoạn mysis 1 có cơ thể kéo dài, chân ngực phát triển, telson xuất hiện, chưa có chân bụng. Mysis 2 có mầm chân bụng nhưng chưa phân đốt. Mysis 3 có chân bụng phát triển dài gấp đôi so với giai đoạn mysis 2, chân bụng có 2 đốt. Ấu trùng Mysis dần dần chuyển sang ăn động vật phiêu sinh, bơi ngửa và giật về phía sau. Sau giai đoạn mysis chuyển sang giai đoạn hậu ấu trùng (postlarvae) có hình dạng tương tự như tôm trưởng thành chiều dài đầu tiên khoảng 4,5mm có tập tính bơi trong cột nước, phần lớn sống đáy. Từ Postlarvae 6, tôm chủ yếu sống đáy. 2.2. Sơ lược về đặc điểm sinh học của TCX 2.2.1 Phân loại và phân bố TCX có tên khoa học là Macrobrachium rosenbergii được De Man đặt tên vào năm 1897, có vị trí phân loại như sau: Ngành: Arthropoda Lớp: Malacostraca Bộ: Decapoda Họ: Palaemonidae Giống: Macrobrachium Hình 2.6 Hình thái Tôm Càng Xanh Loài: Macrobrachium rosenbergii (De Man, 1897) Trong tự nhiên, TCX phân bố rộng ở các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, tập trung ở khu vực Ấn Độ Dương và tây nam Thái Bình Dương. Ở Việt Nam, TCX phân bố tự nhiên chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ở các thủy vực độ mặn 18‰ hay đôi khi cả 25‰ vẫn có thể thấy tôm xuất hiện (Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2003). 2.2.2 Vòng đời TCX Vòng đời TCX có 4 giai đoạn, bao gồm trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng và tôm trưởng thành. TCX trưởng thành sống chủ yếu ở nước ngọt. Khi thành thục, tôm bắt cặp và đẻ trứng, trứng dính vào các chân bụng của tôm mẹ. Tôm mẹ di cư ra vùng cửa sông nước lợ 6- 18‰ để nở. Ấu trừng nở ra sống phù du và trải qua 11 lần biến thái để trở thành hậu ấu trùng, lúc này tôm có xu hướng tiến vào vùng nước ngọt. Khi trưởng thành chúng lại di cư ra vùng nước lợ nơi có độ mặn thích hợp để sinh sản và tiếp tục vòng đời (Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2003). Hình 2.7 Vòng đời TCX 2.2.3 Tập tính ăn và bắt mồi TCX là loài ăn tạp nghiêng về động vật, trong tự nhiên khi kiểm tra dạ dày thức ăn gồm có nguyên sinh động vật, giun nhiều tơ, giáp xác, côn trùng, nhuyễn thể, các loài tảo và mùn bã hữu cơ. Trong thời gian ấp trứng tôm có thể nhịn ăn vài ba ngày. Tôm thường bắt mồi vào sáng sớm và chiều tối (Phạm Văn Tình, 2004). TCX ăn các loại thức ăn khác nhau ở từng giai đoạn phát triển. Ở giai đoạn ấu trùng, tôm ăn chủ yếu là phiêu sinh thực vật và ấu trùng của các động vật không xương sống khác (Trương Quan Trí, 1990). Hình dạng và mùi vị thức ăn đóng vai trò quan trọng trong việc hướng tôm đến bắt mồi. Đây là vấn đề quan trọng trong chế biến thức ăn cho ấu trùng tôm. Đặc tính của TCX nếu không đủ thức ăn, chúng hay ăn thịt lẫn nhau khi lột xác, đây là đặc tính của loài. Vì vậy, trong ương giống cần lưu ý vấn đề này nhằm nâng cao tỷ lệ sống. Khi nuôi tôm thương phẩm cũng cần lưu ý đến hiện tượng này và cần có các biện pháp kỹ thuật hạn chế sự ăn thịt lẫn nhau của tôm (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). 2.2.4 Sự phân đàn Giai đoạn ấu trùng đến Postlarvae tỷ lệ sống của ấu trùng TCX phụ thuộc rất nhiều vào nguồn tôm mẹ, trong quá trình phát triển đó thì sự phân đàn là không tránh khỏi. Sự phân đàn lớn hay nhỏ tùy thuộc vào điều kiện như mật độ, nhiệt độ, dinh dưỡng. (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). 2.2.5 Đặc điểm về sinh trưởng TCX phải trải qua 11 lần lột xác và biến thái để phát triển thành hậu ấu trùng. Thời gian giữa hai lần lột xác của tôm phụ thuộc vào nhiệt độ, kích cỡ, giới tính, thức ăn và điều kiện sinh lý của chúng (Nguyễn Việt Thắng, 1995). Bảng 2.1 Đặc điểm các giai đoạn ấu trùng của TCX Giai đoạn ấu trùng I II III IV V VI VII VIII Ngày tuổi Đặc điểm nhận dạng 1 2 3–4 4–6 5–8 7 – 10 11 – 17 13 – 20 Không có cuống mắt Có cuống mắt Có sự hiện diện của Uropods Có 2 gai ở lung Các telson hẹp và có hình thon dài Có sự hiện diện của các núm chân bụng Các chân bụng chẻ đôi Các chân bụng có các tơ cứng Nhánh chân trong của chân bụng xuất hiện Có 3 – 4 răng trên chủy Xuất hiện răng dưới chủy Có tập tính giống tôm trưởng thành IX 15 – 22 X XI PL 17 – 23 23 – 35 23 – 35 (Nguồn: Uno và Soo, 1969, trích dẫn bởi Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2003) 2.2.6 Đặc điểm về sinh sản Theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (2003), TCX thành thục và giao vĩ xảy ra hầu như quanh năm. Ở đồng bằng sông Cửu Long tôm sinh sản vào tháng 4 – 6 và tháng 8 – 10. Tôm cái thành thục lần đầu ở khoảng 3 – 3,5 tháng kể từ khi PL 10- 15. Tùy vào kích cỡ và trọng lượng tôm mà sức sinh sản thay đổi từ 7.000 – 503.000 trứng, thông thường 20.000 – 80.000 trứng. Sau khi giao vĩ từ 2 – 5 giờ, có khi 6 – 24 giờ, thì tôm cái sẽ đẻ trứng. Tùy theo nhiệt độ ấp mà thời gian ấp trứng có thể từ 15 – 23 ngày. 2.3 Các qui trình sản xuất giống TCX hiện nay 2.3.1 Hệ thống nước trong hở Qui trình được khởi xướng đầu tiên bởi Ling cào năm 1969 và được hoàn thiện bởi Aquacop từ năm 1980. Đặc điểm của qui trình này là nước trong, sạch, không có tảo, mật độ ương cao (100 – 150 con/lít). Ưu điểm của qui trình này là thường đạt năng suất cao, qui trình tương đối đơn giản, không cần kĩ thuật cao. Tuy nhiên, qui trình này lại đòi hỏi tốn nhiều công lao động và chi phí khác. 2.3.2 Hệ thống nước trong kín Qui trình này được một số tác giả như Sandifer (1977), Menasveta (1980), Singholka (1980) nghiên cứu nhưng kết quả đó còn hạn chế và đến Aquacop (1984) và Griessinger (1986) thì qui trình căn bản được hoàn chỉnh để đưa vào sản xuất đại trà ở qui mô lớn. Hệ thống này được ứng dụng ở nhiều nơi. Đặc điểm của qui trình này là dùng bể lọc sinh học để lọc nước thải ra từ bể ương và tái sử dụng. Không thay nước trong suốt quá trình ương. Tuy nhiên, hạn chế chính của qui trình này là đòi hỏi kĩ thuật cao, đầu tư cao, thiết bị đồng bộ, phức tạp khi lắp đặt, khó xử lý khi có sự cố. 2.3.3 Hệ thống nước xanh Bắt đầu được nghiên cứu từ năm 1966 do Fujumura khởi xướng và hoàn thiện vào năm 1974. Đặc điểm của qui trình này là dùng tảo Chlorella cho vào bể ưởng để duy trì màu nước xanh liên tục. Qui trình có ưu điểm nổi bật là hạn chế thay nước. Tuy nhiên hạn chế chính của qui trình là mật độ ương thấp, đòi hỏi kĩ thuật nuôi tảo. 2.3.4 Hệ thống nước xanh cải tiến Qui trình được đề xướng bởi Ang từ năm 1986 trên cơ sở cải tiến mô hình nước xanh trước đó. Nguyên tắc hoạt động của qui trình là cho phép vi sinh vật và tảo phát triển trong bể ương để tự ổn định môi trường nước. Vỏ Artemia được cho trực tiếp vào bể để làm giá thể cho các vi sinh vật phát triển. Hệ thống này có nhiều ưu điểm quan trọng là không phải thay nước, không vệ sinh bể và không bổ sung thêm tảo trong suốt quá trình ương (tảo chỉ cho vào bể ương một lần đầu trước khi thả ấu trùng) hệ thống rất đơn giản, chi phí thấp, dễ áp dụng cho nhiều đối tượng và nhiều nơi, cả những vùng xa biển. 2.4. Tình hình sản xuất giống tôm sú trên thế giới và trong nước 2.4.1. Tình hình sản xuất giống tôm sú trên thế giới Nghề sản xuất tôm biển (trong đó có tôm sú) trên thế giới (Trần Ngọc Hải, 2009) có những bước tiến quan trọng có thể tóm lược như sau (trích dẫn bởi Nguyễn Tiến Diệt, 2011). Năm 1933: Hudinaga lần đầu tiên sản xuất giống thành công tôm biển (P.japonicus), mô hình bể lớn. Năm 1966: Cook và Murphy thành công trong sản xuất giống tôm P. setiferus và P. aztecus với mô hình Galveston ở Texas. Thập kỷ 60 - 70, mô hình Galveston được ứng dụng rộng rãi ở các nước Châu Á, với P. monodon, P. merguiensis, P. indicus, P. orientus; nguồn tôm mẹ tự nhiên. Thập kỷ 70 và 80, nhiều loài tôm được nuôi vỗ và cho sinh sản thành công trong trại sản xuất giống. Chương trình sản xuất giống phi bệnh tật và miễn bệnh đã được bắt đầu tại Mỹ (P. vannamei) (1989) và Pháp (1987). Năm 1995: Chương trình gia hoá tôm mẹ được tiến hành ở Úc (P. japonicus). Chương trình ương ấu trùng theo mô hình tuần hoàn được tiến hành ở Tahiti và Polynesia (Pháp) từ thập kỷ 80. Ở Úc, có nhiều nghiên cứu trong viêc gia hóa và sản xuất giống tôm biển. Theo Preston (2000), cho rằng việc sản xuất giống tôm sú sạch bệnh được hoàn thiện hoàn toàn trong các hệ thống lọc sinh học tuần hoàn. Chính chất lượng nước trong hệ thống tuần hoàn ổn định và tốt hơn trong ao, cách ly được các nguồn nhiễm bệnh nên cho kết quả giống tốt và chất lượng cao (trích dẫn bởi Nguyễn Thanh Phương, 2005). Hiện nay, có trên 24 loài tôm thuộc Penaeus và 7 loài thuộc Metapenaeus đã được nghiên cứu sinh sản, trong đó tổng cộng có 11 loài được sản xuất đại trà. 2.4.2. Tình hình sản xuất giống tôm sú ở Việt Nam Theo Nguyễn Tiến Diệt (2011), Việt Nam là một trong các quốc gia có nghề sản xuất tôm sú (Penaeus monodon) phát triển so với các quốc gia Châu Á và trên thế giới. Năm 2004, sản lượng tôm sú của Việt Nam là 290.000 tấn, trong đó ĐBSCL đóng góp là 200.000 tấn. Cả nước sản xuất được 26,1 tỉ tôm giống, nhưng trong đó ĐBSCL chỉ sản xuất được 7 tỉ con vào năm 2004 (Bộ Thủy sản, 2005). Năm 2005 lượng tôm sú giống cả nước sản xuất được 28,805 tỉ Postlarvae với khoảng 4.281 trại SXG (Bộ Thủy sản, 2006). Theo số liệu của Cục NTTS, hiện cả nước có 3.377 trại tôm giống đang hoạt động, bao gồm 2.887 trại tôm sú, 490 trại tôm he chân (Cổng thông tin điện tử, Bộ Nông Nghiệp, 2010). Theo Trần Ngọc Hải, 2009. Nghề sản xuất tôm biển (trong đó có tôm sú) ở Việt Nam có những bước tiến quan trọng và có thể tóm lược như sau: Đầu năm 1970, nghiên cứu sinh sản nhân tạo tôm biển đầu tiên, với loài P. merguiensis, P. penicillatus, P. japonicus. Trại nghiên cứu sản xuất giống đầu tiên được thành lập vào 1982, tại Qui Nhơn, do FAO tài trợ. Đến năm 1985: sản xuất thành công tôm sú (P. monodon) tại Nha Trang, và tôm sú trở thành đối tượng chủ yếu trong sản xuất giống ở Miền trung. Năm 1994 cả nước có 800 trại sản xuất giống. Đến năm 1999 cả nước có 2.125 trại sản xuất giống. Năm 2002 cả nước có khoảng 3.000 trại sản xuất giống. Riêng tôm thẻ chân trắng năm 2002 được nhập từ Mỹ và thử nghiệm sản xuất giống thành công, đến năm 2009 có khoảng 490 trại tôm thẻ trong tổng số 3.377 trại sản xuất giống tôm. 2.4.3. Tại Đồng bằng sông Cửu Long Sản xuất tôm sú giống ở ĐBSCL đã có những tiến triển khả quan. Mạng lưới ương nuôi cung cấp con giống cho nghề nuôi phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng giống cũng được cải thiện rất nhiều so với thời kỳ mới chuyển đổi (2000). Tính năng động và linh hoạt của hệ thống cung ứng giống tôm sú ở ĐBSCL đã góp phần đáng kể vào kết quả nuôi tôm ở địa phương. Số lượng trại và sản lượng tôm giống sản xuất ở các tỉnh liên tục tăng (Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, 2009). Năm 2001, toàn vùng chỉ có 862 trại với sản lượng 3.952 triệu tôm giống. Đến năm 2005 đã lên đến 1.280 trại với sản lượng 12.000 triệu giống tương ứng, chiếm 29,2% số trại và chỉ mới đáp ứng 42,05% lượng tôm giống sản xuất so với cả nước (4.300 trại và 29.000 triệu con PL15) và chỉ đáp ứng được 40,5% nhu cầu cho nghề nuôi trong vùng (28.740 triệu con) (Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, 2009). Năm 2009, ĐBSCL có 1.105 trại sản xuất giống tôm nước lợ đang hoạt động, trong đó có 1.100 trại sản xuất giống tôm sú và 5 trại sản xuất giống tôm chân trắng. Toàn vùng đã sản xuất hơn 9 tỷ con giống tôm sú và hơn 250 triệu con giống tôm chân trắng (Cục Nuôi trồng thủy sản, 2009). Năm 2010 ĐBSCLcó 1.220 trại sản xuất giống sản xuất được 20,915 tỷ tôm giống đáp ứng 50,77% lượng giống thả nuôi. Thành phố Cần Thơ, từ năm 2001 Khoa Thủy Sản - Trường Đại học Cần Thơ bắt đầu chuyển giao công nghệ sản xuất tôm sú giống ứng dụng qui trình tuần hoàn cho một số trại và sau đó số trại tăng dần. Năm 2003 các trại tôm tại thành phố Cần Thơ đã cung cấp được 40 triệu tôm giống và đến năm 2004 thì tăng lên 70 triệu con giống cho các tỉnh ĐBSCL (Chi cục Thủy sản Cần Thơ, 2005). Năm 2005 Cần Thơ có 13 trại sản xuất tôm sú công nghệ sản xuất tôm sú giống ứng dụng qui trình tuần hoàn, lọc sinh học, đem lại hiệu quả cao cung cấp giống sạch của vùng ĐBSCL (Nguyễn Thanh Phương, 2006). Năm 2010 số trại sản xuất giống tôm sú tăng lên 20 trại (Chi cục Thủy sản Cần Thơ, 2010). 2.5 Tình hình sản xuất giống TCX trên thế giới và Việt Nam 2.5.1 Tình hình sản xuất TCX trên thế giới Nghề sản xuất giống tôm càng xanh xuất hiện và phát triển từ những năm 1959, khi Ling đã tìm ra đặc điểm đặc điểm sinh thái và sinh sản vủa tôm càng xanh. Trong suốt những năm 1960 đến năm 1990, tôm càng xanh giống được sản xuất ở Hawaii và Đông Nam Á sau đó lan ra nhiều nước trên thế giới. Hiện nay, các nước Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Philippine, Indonesia, Việt Nam là những nước có nguồn sản xuất giống tôm càng xanh lớn. 2.5.2 Tình hình nuôi TCX ở Việt Nam Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và PTNT), năm 2014, cả nước có khoảng 21 tỉnh/thành nuôi tôm càng xanh với tổng diện tích là 12.851 ha (tăng 552 ha so với năm 2013), sản lượng nuôi đạt 6.695 tấn; trong đó tập trung nuôi chủ yếu tại các tỉnh ĐBSCL là 12.692 ha (chiếm 98,8% so với diện tích nuôi tôm càng xanh cả nước). Các tỉnh có diện tích nuôi lớn như Bến Tre 2.300 ha, sản lượng đạt 1.969 tấn; Đồng Tháp 1.123 ha, sản lượng đạt 1.500 tấn; Bạc Liêu 5.841 ha, sản lượng đạt 584 tấn và Trà Vinh 1.050 ha, sản lượng đạt 670 tấn. Diện tích tiềm năng phát triển nuôi tôm càng xanh của Việt Nam rất lớn và tập trung chủ yếu tại các tỉnh vùng ĐBSCL. Theo quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản vùng ĐBSCL đến năm 2015, diện tích nuôi tôm càng xanh là 26.900 ha, chiếm 3,24% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản của vùng; đến năm 2020 là 35.100 ha, chiếm 3,24% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản của vùng. CHƯƠNG 3: VÂÂT LIÊÂU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Thời gian, địa điểm và đối tượng nghiên cứu Thời gian: Từ ngày 20/08/2014 đến ngày 20/09/2016. Địa điểm: Trại thực nghiệm Khoa Sinh học Ứng dụng Trường Đại học Tây Đô. Đối tượng nghiên cứu: tôm sú (Penaeus monodon Fabricius, 1798) và tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii De Man, 1879). 3.2. Vật liệu nghiên cứu a. Vật liệu - Bể composite gồm các loại có thể tích: 4m3, 500 lít. - Thau, xô, vợt (thu ấu trùng, nghiền thức ăn), nhiệt kế, khúc xạ kế, túi lọc nước. - Kính hiển vi, cân đồng hồ, đèn pin. - Hệ thống cấp thoát nước, hệ thống thổi khí, máy bơm nước, máy phát điện. - Và một số dụng cụ khác cần thiết cho môn học. b. Thức ăn, thuốc, hóa chất và chế phẩm sinh học Thức ăn Tảo Chaetoceros sp, Frippak - 1, Frippak - 2, Frippak - 150, Lansy và Artemia. Hình 3.1 Thức ăn dùng trong sản xuất giống Thuốc, hóa chất và chế phẩm sinh học Hóa chất xử lý nước: Chlorine, Thiosunfat Natri, EDTA, Sodium bicacbonat, Formol. Hóa chất nuôi cấy tảo: dung dịch dinh dưỡng Key Bloom. Hóa chất dùng trong ương ấu trùng tôm sú: Antibio, Mycogynas, Megyna, Vitamin C, Nutroplex. 3.3. Phương pháp thí nghiệm 3.3.1. Vệ sinh trại Trước khi tiến hành thực tập sản xuất giống, trại được quét dọn sạch sẽ, dọn những cây xung quanh trại nhằm cung cấp đủ ánh sáng. Các dụng cụ, bể chứa tôm mẹ, bể ương ấu trùng, bể ấp Artemia,... đều được rửa bằng xà phòng và rửa lại bằng nước sạch nhằm loại bỏ các mầm bệnh. 3.3.2. Xử lý nước Nguồn nước: nước ngọt sử dụng là nước máy được cung cấp từ nguồn nước của trường. Nước mặn - nước ót lấy từ trại giống Đăng Khoa (Cần Thơ). Pha nước có độ mặn mong muốn bằng nước ót và nước máy theo công thức sau: Để pha nước ta áp dụng hệ phương trình: C1V1 = C2V2 Trong đó: C1 : là độ mặn của nước ban đầu C2 : là độ mặn cần pha V1 ,V2 : là thể tích của nước ban đầu Nước dùng trong ương ấu trùng tôm sú là 30‰ và được xử lý Chlorine, trung hòa kim loại nặng bằng EDTA và nâng kiềm bằng Sodium Bicacbonat, sau đó sục khí mạnh trong 48 giờ để loại hết Chlorine. Trường hợp nước còn nhiều Chlorine thì trung hòa bằng Thiosunfat Natri. 3.3.3. Phương pháp ấp Artemia Artemia sử dụng là loại sấy khô đóng hộp và có nguồn gốc từ Vĩnh Châu nên không cần xử lý vỏ. Cân Art theo nhu cầu của từng giai đoạn phát triển của ấu trùng sau đó ngâm trong nước ngọt 30 phút rồi tiếp tục ngâm trong Chlorine 5 phút sau đó rửa sạch rồi cho vào dụng cụ ấp có sục khí mạnh, nước dùng để ấp có độ mặn từ 20‰ - 25‰. Sau 12 - 18 giờ tiến hành thu bằng vợt có mắc lưới phù hợp, trình tự thu như sau: Tắt sục khí khoảng 15 phút cho vỏ Art nổi lên mặt nước tiến hành loại bỏ vỏ. Cho Art vào vợt và rửa bằng nước ngọt. Tắm Art bằng formol 200 ppm trong 1 - 2 phút, sau đó rửa lại bằng nước ngọt. Tùy thuộc vào giai đoạn của ấu trùng tôm mà thu Art đã bung dù hay hoàn toàn tách khỏi vỏ. Hình 3.2 Xô ấp Art 3.3.4. Phương pháp cấy tảo Tảo là nguồn thức ăn quan trọng trong giai đoạn biến thái của ấu trùng, đặc biệt ở giai đoạn Zoae chúng sử dụng chủ yếu nhóm phiêu sinh thực vật như: Chaetoceros sp, Skeletonema costatum. Trong đó phổ biến là Chaetoceros sp, để đảm bảo nguồn tảo tươi sử dụng, tảo Chaetoceros sp được tiến hành nuôi sinh khối thông thường trong sản xuất giống nhân tạo tôm sú. Gây tảo chlorella: Cấy tảo Chlorella vào bể chuẩn bị sẵn nước, Sử dụng dung dịch Walne 10 - 20 ppm để làm môi trường cấy tảo. Tảo này được sử dụng cho ấu trùng tôm càng xanh. Gây tảo Chaetoceros sp: cấy tảo Chaetoceros sp vào bể có chứa nước (20‰25‰), sử dụng dung dịch Warn 10 – 20 ppm để làm môi trường cấy tảo. Tảo này được sử dụng cho ấu trùng tôm sú. Tuy nhiên do thiết kế của trại thực nghiệm không thích hợp cho việc nuôi cấy tảo, nên hầu hết nguồn tảo sử dụng trong suốt quá trình thực tập được lấy về từ trại giống Đăng Khoa đã nuôi sinh khối trước đó. 3.3.5. Tiến hành sinh sản nhân tạo tôm sú a. Chọn tôm bố mẹ Tôm bố mẹ phải có kích cỡ lớn, tôm khỏe mạnh, màu sắc sặc sỡ, không thương tích, phụ bộ còn đầy đủ, vỏ sạch và cứng, không có đốm trắng, mang bình thường. Thelycum không bị đốm đen, đặc biệt tôm cái có túi tinh màu trắng đục ở thelycum. Tiến hành chọn 1 tôm đực và 2 tôm cái sau đó nuôi vỗ lại trong bể composite, nước có độ mặn 30‰, cho ăn bằng ốc mượn hồn 2 lần/ngày (6h và 18h) lượng thức ăn cho tôm bố mẹ từ 20-30% trọng lượng cơ thể. Ốc mượn hồn phải được rửa qua formaline và rửa lại bằng nước sạch trước khi cho tôm ăn để loại bỏ các mầm bệnh. Hình 3.3 Kiểm tra hình thái tôm mẹ b. Cắt mắt tôm mẹ Cắt mắt để thúc đẩy quá trình thành thục của buồng trứng. Dùng dây cao su (dây thun) thắt cuống mắt một bên của con cái cho cuống mắt tự rụng. Thao tác phải diễn ra nhanh chóng tránh làm tôm bị tổn thương. Hình 3.4 Cắt cuống mắt tôm mẹ Thường xuyên kiểm tra buồng trứng tôm mẹ, khi buồng trứng chuyển sang giai đoạn IV chuyển tôm mẹ sang bể đẻ để tiến hành cho sinh sản, động tác phải được thực hiện nhẹ nhàng nhanh chóng. Bể đẻ phải được bố trí sục khí nhẹ, tránh gây tiếng động làm ảnh hưởng đến quá trình sinh sản của tôm sú. c. Thu và bố trí ấu trùng Tôm sinh sản xong vớt tôm mẹ ra và loại bỏ màng nhày, thường xuyên đảo trứng để trứng không bị hư. Trứng sau khi nở (12 - 15 giờ) tiến hành thu ấu trùng bằng phương pháp chiếu sáng, dùng vợt vớt ấu trùng tắm qua Formol 200ppm trong 30giây. Sau đó cho vào thùng nhựa (thùng nhựa có thể tích 10 lít, nước trong thùng là nước bể ương để ấu trùng quen với môi trường ương) tiến hành định lượng ấu trùng. Dùng pipet có thể tích 10ml hút nước có chứa ấu trùng và đếm số ấu trùng có trong pipet, lặp lại 3 lần sau đó qui ra lượng ấu trùng có trong thùng chứa. Bố trí ấu trùng: dùng ca nhựa có thể tích 1lít chia đều ấu trùng trong thùng nhựa vào 5 bể ương, nước trong bể ương có độ mặn 30‰ và có bố trí sục khí nhẹ. Mật độ ương là 40 ấu trùng/lít (40.000 ấu trùng/bể). Sau khi bố trí ấu trùng vào bể, dùng bạc đậy kính để đảm bảo nhiệt độ trong bể ương được ổn định và tránh trường hợp hướng sáng gây thiếu oxy. d. Chăm sóc và quản lý Cho ấu trùng tôm sú ăn 8 lần/ngày, mỗi lần cách nhau 3 giờ. Thức ăn cho ấu trùng ăn tùy thuộc vào giai đoạn phát triển của ấu trùng. Giai đoạn Nauplius: do tôm còn dinh dưỡng bằng noãn hoàng nên không cho tôm ăn vào giai đoạn này. Khi tôm chuyển giai đoạn từ Naupius lên Zoae 1 thì bổ sung Antibio và Nutroplex vào trong bể ương. Giai đoạn Nauplius và Zoae, bể ương cần đậy bạc kính và sục khí nhẹ để tránh sự hướng quang và cặn ở đáy dính lên thân ấu trùng. Giai đoạn Zoae: Sau khi khoảng trên 50% ấu trùng tôm trong bể ương chuyển Zoae 1 thì tiến hành cho ăn tảo tươi (Tảo Chaetoceros sp). Tùy theo nhu cầu sử dụng thức ăn của ấu trùng mà điều chỉnh lượng tảo phù hợp. Bổ sung men vi sinh đường ruột ZP 25 và vitamin C. Từ giai đoạn Zoae 2, ngoài cho ấu trùng tôm ăn tảo tươi có bổ sung thức ăn chế biến là Lansy. Giai đoạn Mysis: Mysis 1 cho tôm ăn thức ăn chế biến là chính, ngoài ra có bổ sung tảo tươi. Ở giai đoạn này bể ương không cần đậy bạc và tăng dần sục khí giúp ấu trùng bắt mồi dễ dàng. Giai đoạn Mysis 2, Mysis 3 hoàn toàn cho ăn bằng thức ăn chế biến, thành phần thức ăn chế biến gồm có: Lansy, Frippak 2, ZP 25, vitamin C, và bổ sung Artemia bung dù 2 lần/ngày (6h và 18h). Tiến hành Siphon đáy bể để loại bỏ cặn và thức ăn dư thừa, cấp lại nước mới và nâng dần mức nước trong bể ương ấu trùng tôm sú bằng nước có độ mặn 30‰. Giai đoạn Postlarvae: giai đoạn này ấu trùng đã bắt mồi chủ động, thức ăn chủ yếu có nguồn gốc thừ động vật phù du. Từ PL1 - PL5 cho ăn Frippak - 2 + Frippak 150. Từ PL5 chỉ cho ăn Frippak - 150 (thức ăn chế biến cho ăn 6 lần/ngày), artemia được bổ sung 2 lần/ngày (6h và 18h). Trong quá trình cho ấu trùng cần quan sát cẩn thận để đáp ứng và điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Khi có dấu hiệu nước bẩn thì tiến hành Siphon đáy bể để loại bỏ cặn và thức ăn dư thừa, thay 30% lượng nước trong bể ương. Cách cho ấu trùng tôm sú ăn thức ăn chế biến: Cân lượng thức ăn cần cho ấu trùng ăn (phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của ấu trùng) sau đó cho vào vợt cà thức ăn có kích thước mắc lưới phù hợp với từng giai đoạn phát triển của ấu trùng. Cho nước ngọt vào khuấy đều, tiến hành cho ăn bằng cách dùng cốc thủy tinh (có thể tích 1 lít) tạt đều từng bể ương. Chú ý, từ giai đoạn Z2 trở đi tiến hành cấp nước hằng ngày kết hợp hạ độ mặn (2 - 4‰/lần), đến lúc xuất Post độ mặn xuống còn khoảng 15‰. Theo dõi nhiệt độ và pH bể ương 2 lần/ngày vào lúc 6h30 và 14h. 3.3.5.1 Thu hoạch Khi xuất Post, xác định tỷ lệ sống theo công thức sau: Số lượng PL thu được = n x A Trong đó n: số cốc thu A: số ấu trùng 1 cốc Số lượng PL thu được Tỷ lệ sống (%) = ---------------------------------------- x 100 Tổng số ấu trùng ban đầu 3.3.7. Phương pháp xử lí số liệu Số liệu được tính toán bằng phần mềm Microsolf Office (Excel). 3.3.6 Tiến hành sinh sản nhân tạo tôm càng xanh a. Chọn tôm bố mẹ Tôm mẹ chọn cho sinh sản phải khỏe mạnh, không bị thương tích, không có dấu hiệu bệnh ( đốm đen, đốm nâu, đóng rong,...), có trọng lượng tốt nhất là 50-80g và trứng có màu xám đen. Nên chọn đủ số lượng tôm trứng có màu sắc tương tự nhau để cho nở đồng loạt. Tôm mẹ đã ôm trứng vận chuyển về trại bằng các thùng nhựa hay thùng xốp, có sục khí. Sau đó được thuần hóa ở độ mặn 5-7 ‰ , và tắm tôm mẹ qua formaline 20-25 mg/l trong 30 phút, tôm sau khi xử lý xong được cho vào bể đẻ. b. Thu và bố trí ấu trùng vào bể thí nghiệm Chuẩn bị nước ương ấu trùng: nước được pha với độ mặn 12‰ xử lý xong và sục khí liên tục trong 24 giờ, sau đó được cấp vào bể 200 lít . Sau khi ấu trùng nở ra đồng loạt, ngừng sục khí, do tính hướng quang của ấu trùng sẽ tập trung nơi chiếu sáng, dùng vợt thu lấy ấu trùng tập trung nơi chiếu sáng ra
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng