Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề tài thực trạng về sử dụng đất nông nghiệp ở việt nam...

Tài liệu đề tài thực trạng về sử dụng đất nông nghiệp ở việt nam

.DOC
32
2954
79

Mô tả:

Phần mở đầu Đất đai đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của sinh vật và loài người trên trái đất. Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động kinh tế xã hội, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế trong nông nghiệp, là yếu tố quan trọng nhất cấu thành bất động sản và thị trường bất động sản. Đất đai còn là một trong những bộ phận lãnh thổ của mỗi quốc gia. Chính vì vậy mà điều 1 chương I luật đất đai có ghi: đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý, nhà nước giao cho các tổ kinh tế đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước tổ chức chính trị xã hội, hộ gia đình và cá nhân ổn định lâu dài. Đất nông nghiệp là một thành phần cấu tạo nên quỹ đất nên phải có những giải pháp hợp lý trong quản lý và sử dụng đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp là đất để canh tác và những mảnh đất nay có điều kiện thuận lợi. Đất nông nghiệp có rất Ýt nên vấn đề cần cải tạo và quản lý đất nhà nước là vấn đề cấp thiết. Mục đích nghiên cứu để vạch ra những hướng quản lý, từ đó sẽ sử dụng đất đảm bảo hiệu quả, phù hợp với yêu cầu quản lý từ đó sẽ sử dụng đất đảm bảo hiệu quả phù hợp với yêu cầu quản lý đất đai của nhà nước. Nhiệm vụ nghiên cứu thực trạng về đất nông nghiệp ở nước ta để cùng nhau bảo đảm và sử dụng hợp lý quỹ đất nông nghiệp. Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp thống kê. Phạm vi nghiên cứu trên lãnh thổ Việt Nam với toàn bộ quỹ đất nông nghiệp. Chương I Cơ sở khoa học việc sử dông đầy đủ và hợp lý I. Khái niệm và đặc điểm. 1. khái niệm. Đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào mục đích sản xuất nông nghiệp như trồng trọt. chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. 2. Đặc điểm đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng nó vừa là tư liệu sản xuất đặc biệt vừa là tư liệu lao động Đất nông nghiệp thuộc loại đất người ta chủ yếu sử dụng vào mục đích nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản. Ngoài ra còn có loại đất thuộc đất nông nghiệp nhưng thực tế không thuộc đất sản xuất trong nông nghiệp mà nó phục vụ cho các ngành khác. Vì vậy chỉ có loại đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp mới được coi là đất nông nghiệp. Những diện tích đất đai phải qua cải tạo mới đưa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp được coi là đất có khả năng nông nghiệp. Nhà nước xác định mục đích sử dụng chủ yếu của đất nông nghiệp là sử dụng vào mục đích nông nghiệp, song do đặc điểm tình hình từng loại đất nay có sự khác nhau dẫn đến sử dụng cụ thể khác nhau. Vì vậy, người ta chia đất nông nghiệp thành 4 loại: + Đất nông nghiệp hàng năm: Bao gồm phần diện tích đất nông nghiệp dành để trồng cây các loại cây ngắn ngày bao gồm: diện tích đất trồng lúa, diện tích đất trồng lúa cộng với trồng màu, diện tích đất gieo mạ, diện tích đất nương rẫy, diện tích đất trồng cây hàng năm khác. + Đất trồng có dùng cho chăn nuôi: Là loại đất dùng chủ yếu cho chăn nuôi đó là diện tích đất chuyên trồng có cho chăn nuôi, đất đồng cỏ tự nhiên đã được quy hoạch, cải tạo và chăm sóc nhằm mục đích nuôi gia sóc. + Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: Là toàn bộ diện tích mặt nước sử dụng vào mục đích nuôi tôm có, nuôi trồng thuỷ sản khác như: ao, hồ, đầm. Ngoài ra các loại đất mặt nước có thể nuôi thuỷ sản nhưng không nhằm mục đích thuỷ sản như các hồ sông phục vụ chủ yếu cho thuỷ lợi trong nông nghiệp. + Đất trồng cây lâu năm: Là toàn bộ diện tích đất được dùng để trồng các cây dài ngày, trồng một lần có thể cho thu hoạch nhiều lần và có chi phí kiến thiết cơ bản đáng kể: như trồng dừa, mía, chuối... Đất nông nghiệp ở nước ta phân bổ không đều giữa các vùng trong cả nước. Vùng đồng Bằng sông Cửu Long có tỷ trọng lớn nhất của cả nước chiếm 67,1% diện tích toàn vùng và vùng đất trũng. Độ phì và độ màu mỡ của các vùng khác nhau, trong đó vùng đồng vằng Sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long có độ màu mỡ cao chủ yếu là đất phù sa chiếm tỷ lệ lớn so với các vùng khác. Còn vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên phần lớn là đất bazan. Đất nông nghiệp Việt Nam chiếm tỷ lệ rất lớn tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước. Với quỹ đất như vậy sẽ bảo đảm cho nguồn lương thực, thực phẩm tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Do đó đặc điểm tự nhiên kí hậu cận nhiệt đới lên thực vật Việt Nam rất đa dạng nên sản xuất nông nghiệp ở nước ta cũng rất đa dạng và phong phú. ở miền Bắc nước ta có 4 mùa rõ rệt vì vậy sản xuất nông nghiệp mang tính mùa vụ. ở miền Nam có 2 mùa (mùa mưa và mùa khô) nên việc sản xuất nông nghiệp rất thuận lợi. Vậy để sử dụng đất nông nghiệp cần có các biện pháp nhằm nâng cao và sử dụng đất đai hiệu quả nhất. 3. vai trò của đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp là loại đất phù hợp cho trồng cây lương thực, cây hoa màu và chỉ trồng trên đất nông nghiệp thì mới cho hiệu quả cao đảm bảo cho sự tồn tại, duy trì và phát triển của các loại cây lương thực, hoa màu trên. Phát triển kinh tế nông nghiệp chủ yếu do quỹ đất nông nghiệp và tính chất đó là yếu tố cơ sở nền tảng và làm tiền đề để cho sự phát triển II. vai trò của việc sử dụng đất nông nghiệp trong sự phát triển kinh tế xã hội. - Đất nông nghiệp là sản phẩm tự nhiên có trước lao động và cùng với sự phát triển của xã hội, là điều kiện chung của lao động. Đất nông nghiệp quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. - Đất nông nghiệp tham gia vào các ngành sản xuất lương thực, thực phẩm như ngành thuỷ sản, ngành trồng trọt, chăn nuôi, ngoài ra còn tham gia vào các ngành thuỷ lợi, giao thông... - Đất đai và cùng với các điều kiện tự nhiên khí hậu của đất nước là một trong những cơ sở quan trọng nhất để hình thành các vùng chuyên canh nhằm khai thác sử dụng hiệu quả các tiểm năng tự nhiên ở mỗi vùng đất nước. Đất nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng là yếu tố hàng đầu của ngành sản xuất nông nghiệp. Nó không chỉ là chỗ tựa, chỗ đứng của lao động mà còn cung cấp thức ăn cho cây trồng mọi tác động của con người vào cây trồng đều dùa vào đất đai. Đất nông nghiệp là tự liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được, nó là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động. Con người lợi dụng một cách có ý thức các tính chất tự nhiên của đất đai như lý học, hoá học, sinh vật, các tính chất khác để tác động lên cây trồng. III. những nhân tố ảnh hưởng tới việc quản lý và sử dụng đất đai và biện pháp chủ yếu trong sử dụng đất nông nghiệp. 1. những nhân tố ảnh hưởng tới việc quản lý và sử dụng đất nông nghiệp. a.Khách quan. *.Điạ hình: Nước ta có địa hình phức tạp chủ yếu là đồi núi vì vậy ảnh hưởng trực tiép đến việc sử dụng đáat nông nghiệp. Do đòi núi nhiều dẫn tới diện tích sử dụng cho đất nông nghiệp Ýt.§Þa hình phức tạp ảnh hưởng tới việc vận chuiển sản phẩm nông nghiệp :vận chuiển khó khăn,chi phí vận chuiển cao .Đây là nguyên nhân dẫn tới việc sử dụng đất nông nghiệp chưa cao. *.Khí hậu: việtNam có điều kiện khí hậu cận nhiệt đới gió mùa cho lên trong quá trình sản xuất nông nghiệp phải thoe mùa vụ khong liên tục. ảnh hưởng tới các ngành chế bién nông sản . b.Chủ quan. *.Dân sè: Đây là một vấn đề đáng quan tâm đối với quá trínhử dụng đất nông nghiệp .Ơ nước ta hiện nay dân số là7633900 chiếm 78%dân số trong cả nước với số liệu này thì mật độ dân số ở nông nghiệp là quá đông. Mặt khác sự phân bố dân số dữa các vùng không đồng đều dẫn tới việc sử dụng đất nông nghiệp không hiệu quả ,ví dụ như khu vưc đồng bằng Sông Hồng Đòng bằng Sông Cử Long mật đọ dân số quá đông ,còn khu vực miền núi dân số thưa thít . *. Tác động của quá trình đô thị hóa. Do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội nên quá trình đô thị hóa dẫn tới đất nông nghiệp bị thu hẹp khá lớn để phục vụ cho nhu cầu xây dựng nhà ở đô thị của dân cư, của các đơn vị cơ quan Nhà nước và xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật. Do vậy gây ảnh hưởng rất lớn tới công tác quản lý đất đai bởi các lý do chủ yếu là: * Do tác động của quá trình đô thị hóa, dân cư biến động cơ học dẫn đến tăng nhu cầu về đất xây dựng, tình trạng mua bán đất trái phép, mua bán đất nông nghiệp để xây dựng nhà ở phát sinh rất phức tạp. Hiện tượng vi phạm pháp luật đất đai của các cá nhân, tổ chức... kèm theo đó là tình trạng vi phạm về công tác quản lý trật tự xây dựng đô thị. * Quá trình đô thị hóa đòi hỏi phải sử dụng diện tích đất ngày càng nhiều để xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị và các công trình phục vụ đời sống văn hóa, phát triển sản xuất trong khi đó quỹ đất đai lại có hạn. 2.Biện phá khắc phục. +Xây dựng hệ thống giao thông vận tải đảm bảo cho việc vận chuyển nông nghiệp tới nơi tiêu thụ, chế biến . +Cần phải có biện pháp làm giảm việc tăng dân số ,và đưa ra các chính sách nhằm chuiển dịch cơ cấu dân số giữa các vùng sao cho cân đối giữa các vùng ,ví dụ chính sách khuyến khích người dân di cư tới các vùng kinh tế mới. +Cần phải đưa các giống cây trồng cho năng suất cao và chịu đươc sự biến đổi khí hậu của từng vùng nhằm đảm bảo cung cấp sản phẩm nông nghiệp một cách liên tục .Khuyên khích phat triển cây công nghiệp,cây ăn quả,cây lâu năm. III. Quỹ đất nông nghiệp ở nước ta. Đất nước chúng ta trải dài từ Bắc đến Nam với việc phân thành 7 vùng kinh tế để tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng. Quỹ ruộng đất là tổng thể về diện tích ruộng đất trên một vùng lãnh thổ theo mét ranh giới nhất định, nằm trong phạm vi một đơn vị sản xuất (hộ gia đình, doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp ....) của một địa phương như xã, huyện, tỉnh hay cả nước. Tổng quỹ đất nông nghiệp ở Việt Nam là: 7.637.710 ha, đối với mỗi đơn vị sản xuất, mỗi địa phương quỹ đất nông nghiệp là có giới hạn về mặt diện tích. Đặc trưng của các loại quỹ đất được quy định bởi đặc điểm của đ. Trong đó, đặc điểm có tính hữu hạn về số lượng đất đai và tính vô hạn về sự sinh lời của đất đai chi phối một cách rõ rệt nhất. Tuy nhiên, trong các quỹ đất, quỹ đất tự nhiên mang tính bao trùm và được phân thành các loại khác nhau. Mỗi loại đất hình thành mỗi quỹ riêng (trong đó có quỹ đất nông nghiệp). Vì vậy, quỹ đất nông nghiệp và một số quỹ đất chuyên dùng khác có sự biến động nhất định. Sự biến động của quỹ đất nông nghiệp sẽ diễn ra theo hai hướng. Hướng thứ nhất: Thu hẹp quỹ đất nông nghiệp do quá trình đô thị hoá, do sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, do sự hình hành các trung tâm công nghiệp mới, .... chỉ tính riêng ở Thủ đô Hà Nội trong khoảng 4 năm từ 1994 đất nông nghiệp giảm 1.300 ha. Việc hình thành nhiều khu chế xuất, khu công nghiệp đã làm giảm quỹ đất nông nghiệp. Bởi vậy, việc bố trí quy hoạch để sử dụng đất đạt hiệu quả sử dụng cao và tránh tình trạng xây dựng, quy hoạch trên đất nông nghiệp. Hướng thứ hai: Tăng quỹ đất nông nghiệp bởi vì nhu cầu về lao động và thu nhập, do nhu cầu về các sản phẩm nông nghiệp ngày càng tăng, dân số ngày càng Đông nên việc khai khẩn đất hoang hoá để đưa vào sản xuất nông nghiệp tăng lên. Đây là xu hướng vận động theo chiều rộng là vấn đề cần được khuyến khích và thực hiện theo những chính sách, tính toán của Nhà nước, theo những định hướng, những mục tiêu đã đề ra. Quỹ đất nông nghiệp được cấu thành từ các loại đất khác nhau, tuỳ theo mục đích sử dụng của chúng. Nói cách khác, quỹ đất nông nghiệp được phân thành các loại khác nhau. Khi mục đích sử dụng đất nông nghiệp thay đổi làm cho số lượng loại đất này tăng lên, loại đất kia giảm đi. Quỹ đất nông nghiệp có sự biến động trong nội bộ của nó cùng với sự biến động các loại quỹ đất trong tổng quỹ đất tự nhiên, ở từng loại quỹ đất cũng có sự biến đổi. Đối với quỹ đất nông nghiệp, sự biến động trong nội bộ của nó thương theo xu hướng: Giảm dấn diện tích trồng cây lương thực để chuyển sang trồng các loại cây khác. Xu hướng biến động này do trình độ sản xuất ngày càng cao, nhờ thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng xanh năng suất cây lương thực đã tăng lên đảm bảo an toàn lương thực, từ một nước thiếu ăn, nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo của đất nước ta chiếm ưu thế về số lượng nhưng chất lượng thì còn kém và thua so với chất lượng gạo của các nước như Thái, Mỹ. Đòi hỏi phải thay thế, chuyển đổi các loại cây trồng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất cũng như nâng cao hiệu quả kinh tế của cây trồng. Mặt khác, do sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, đặc biệt là của hệ thống giao thông đã mở ra khả năng giao lưu hàng hoá làm cho việc chuyển sang trồng các loại cây trồng khác mang tính thiết thực hơn như cây ăn quả và cây công nghiệp. Vấn đề giao thông phải thật sự cải thiện tốt, đảm bảo cho sự vận chuyển thuận lợi nhanh chóng để đưa ccc sản phẩm ra thị trường trao đổi thì mới tránh được hình thức sản xuất tự cung - tự cấp tại mỗi địa phương. Trong quỹ đất trồng cây lương thực cũng như quỹ đất trồng các loại cây trồng khác đã dần dần thay thế những cây trồng có chất lượng thấp bằng cây có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao theo hướng khai thác lợi thế của vùng. Ví dụ: Ngay trong ngành trồng lúa xu thế thay các loại lúa có năng suất cao nhưng chất lượng thấp bằng các loại lúa cổ truyền có chất lượng cao ngày càng tăng. Trong quỹ đất đai của cả nước, quỹ đất nông nghiệp đứng thứ 3 về tỷ trọng và có xu hướng tăng trong thời kỳ 1980 trở lại đây. Nguyên nhân chủ yếu là do tác động của cơ chế quản lý và sử dụng đất đai đã tạo động lực để người nông dân tích cực khai hoang, tăng vụ mở rộng diện tích... đưa đất đai vào hoạt động nông nghiệp. Với những chính sách của Nhà nước đã từng bước cải tạo Đồng Tháp Mười, cải tạo đất ở Đồng bằng sông Cửu Long đã làm tăng quỹ đất nông nghiệp. Quỹ đất nông nghiệp có sự biến động theo xu hướng tỷ trọng đất trồng cây hàng năm giảm dần từ 86,4% năm 1980 xuống còn 72,5% năm 1997; tỷ trọng đất trồng cây lâu năm tăng dần từ 7,9% năm 1980 lên 18,98% năm 1997. Biến động quỹ đất nông nghiệp từ 1980-1997 Đơn vị: 1.000 ha Các loại đất Đất nông nghiệp trong cả 1980 6.913, 1985 6.942, 1990 6.993,2 1994 7.367,2 1997 7.367,72 nước 1. Đất trồng cây hàng năm 4 5.974, 2 5.615, 5.339,0 5.463,8 5.553,80 2. 3. 4. 2 549,5 272,2 117,5 8 804,8 328,6 169,8 1.045,2 342,3 266,7 1.347,7 221,0 334,7 1.449,60 132,50 ...... Đất trồng cây lâu năm Đất trồng cỏ Đất có mặt nước dùng vào sản xuất nông nghiệp. Nguồn: Tổng cục Thống kê, Tổng cục Địa chính. Tuy nhiên, so với quỹ đất chưa sử dụng, đất nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ hơn còn lượng lớn đất đai chưa được khai thác. Việc đầu tư khai thác đất nông nghiệp một cách đầy đủ và hợp lý đã và đang được đặt ra một cách cấp thiết. 2. Phân bố đất nông nghiệp Đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội. Vì vậy việc phân bổ quỹ đất đai đặc biệt là quỹ đất nông nghiệp bị chi phối của hai yếu tố đó rất mạnh. Phân bố đất đai theo vùng bị chi phối bởi các điều kiện tự nhiên gắn với đất đai mạnh hơn, còn phân bố theo hai loại cây trồng lại bị chi phối bởi các yếu tố về mặt xã hội mạnh hơn. 2.1. Phân bố đất nông nghiệp theo vùng kinh tế Phân bố đất nông nghiệp theo vùng kinh tế trước hết được thể hiện theo tính tự nhiên của đất đai. Tức là trong quỹ đất nông nghiệp của cả nước, đất nông nghiệp thuộc phân bố theo các vùng như thế nào phụ thuộc vào đặc tính tự nhiên của đất đai. Trong đó, các yếu tố địa hình, nông hoá, thổ nhưỡng đóng vai trò quyết định. ở Việt Nam căn cứ vào các yếu tố tự nhiên của đất đai là chủ yếu, người ta phân quỹ đất đai thành 7 vùng lãnh thổ. Đất Nhà nước phân theo 7 vùng đó như sau: * Vùng Trung du miền núi phía Bắc: Đất nông nghiệp có 1.201.437 ha chiếm 11,67% so với tổng quỹ đất tự nhiên của vùng. Đất nông nghiệp ở đây chủ yếu trồng cây hàng năm (lúa rẫy, sắn, đậu, đỗ....). Phần lớn đất nông nghiệp ở vùng này là cây công nghiệp dài ngày (chè, cà fê, ....) và cây ăn quả. Nhờ thành tựu phát triển sản xuất lương thực của cả nước, nhờ các cơ sở hạ tầng của vùng đang từng bước được củng cố và xây dựng nên khả năng chuyển đổi cây trồng và khai thác nông nghiệp của vùng còn rất lớn. * Vùng Đồng bằng sông Hồng: Đất nông nghiệp có 664.638 ha, chiếm 56,56% so với tổng diện tích toàn vùng. Đất trong vùng được hình thành và bồi tụ thường xuyên bởi phù sa của hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình nên địa hình tương đối bằng phẳng, chất lượng đất tốt, rất phù hợp cho việc trồng lúa. Vì vậy, vùng Đồng bằng sông Hồng được coi là vựa lúa ở các tỉnh phía Bắc. Do quá trình đô thị hoá, dân số Đông nên đất nông nghiệp bị giảm mạnh. * Vùng Khu Bốn cũ: Đất nông nghiệp 676.707 ha chiếm 13,1% diện tích toàn vùng. Đất đai ở đây chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Bởi vậy, việc mở rộng quỹ đất nông nghiệp của vùng gắn với đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng, nhất là các cơ sở hồ, đập đã và đang trở thành cần thiết. * Vung duyên hải miền Trung: Đất nông nghiệp chiếm 604.956 ha chiếm 12,05% so với quỹ đất tự nhiên của vùng. Vùng này có sự biến động đất nông nghiệp tương đối lớn theo hướng giảm cây hàng năm, tăng các loại cây lâm nghiệp bảo vệ môi trường. Từ năm 1980 đến 1994, đất nông nghiệp giảm 45.587 ha để chuyển sang đất lâm nghiệp. Đất trồng cây hàng năm giảm 93.495 ha, đất bồi tụ từ các con sông lớn đa số đất nông nghiệp là đất rẫy có độ dốc lớn, dễ bị rửa trôi khi gặp mưa kéo dài. * Vùng Tây Nguyên: Đất nông nghiệp là 798.358 ha, chiếm 11,2% so với quỹ đất tự nhiên của vùng. Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng đất của vùng Tây Nguyên là đất đỏ bazan màu mỡ nên rất thích hợp với các loại cây công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao như: cà fê, cao su, hạt điều, .... Đất chưa sử dụng 1.580.342 ha, đất có khả năng nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Vì vậy, tiềm năng về nông nghiệp ở vùng này rất lớn. * Vùng Đông Nam Bé: Diện tích đất nông nghiệp là 1.029.375 ha, chiếm hơn 41,22% quỹ đất của vùng. Vùng này chủ yếu là đất bazan màu mỡ thuận lợi cho phát triển các cây công nghiệp dài ngày và các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao. Vì vậy, đây là một trong những vùng kinh tế trù phú, là miền đất có sức hấp dẫn đối với những người làm nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện tại trong vùng vẫn còn 35.087 ha đất chưa sử dụng, trong đó đất có khả năng nông nghiệp chiếm tỷ trọng đáng kể. ĐâY là nguồn lực quý giá cần được khai thác. * Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Đây là vùng đất nông nghiệp chiếm thành phần lớn đất nông nghiệp 2.620.238 ha trong tổng số 3.955.550 ha, chiếm 73,77% diện tích đất nông nghiệp. Hệ thống đất đai của vùng này được hệ thống sông Cửu Long bồi tu phù sa thường xuyên nên rất màu mỡ. Vì vậy, đấy được coi là vựa lúa của cả nước, vùng có sản lượng lương thực và sản lượng lương thực hàng hoá lớn nhất trong cả nước. Bên cạnh đó tiềm năng về đất đai của vùng cũng còn rất lớn. Đất chưa sử dụng chủ yếu là đất nông nghiệp và được tập trung ở vùng Đồng Tháp Mười và khu Tứ Giác Long Xuyên. Để khai thác tiềm năng này cần đầu tư một cách đồng bộ cả về kinh tế và xã hội, từ khai hoang cải tạo đất đến xây dựng được các kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật. Giải quyết được các vấn đề đó việc khai thác mở ra rất lớn, vùng sản xuất lúa hàng hoá sẽ được mở rộng. 2.2 Phân bố đất nông nghiệp theo cây trồng. Trong tổng số 7.637.710 ha đất nông nghiệp của cả nước, đất trồng cây hàng năm có 5.553..889 ha, đất trồng cây lâu năm chiếm 1.449.607 ha. Còn lại là đất đồng cỏ và đất mặt nước có sử dụng vào nông nghiệp. Trong đất trồng cây hàng năm, đất trồng lúa chiếm tỷ trọng lớn hơn cả. Tổng diện tích trồng lúa năm 1994 là 4.230.077 ha chiếm 54,42% diện tích đất nông nghiệp. Đất trồng lúa chủ yếu tập trung ở hai vựa lúa của cả nước là trồng lúa ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Đất trồng lúa của Đồng bằng sông Hồng là 581.460 ha, của Đồng bằng sông Cửu Long là 1.957.977 ha chiếm 60,03% diện tích trồng lúa cả nước. Đây không chỉ là vùng có diện tích lớn nhất, mà còn là vùng có điều kiện đất đai thuận lợi cho trồng (đất phù sa màu mỡ, điều kiện tưới tiêu thuận lợi). Vì vậy, hai vùng này có sản lượng lúa cao nhất trong cả nước. Đứng thứ hai trong diện tích cây hàng năm là đất trồng màu và cây công nghiệp hàng năm vào thời điểm 1994 diện tích màu và cây công nghiệp hàng năm là 1.075.175 ha, chiếm 19,68% đất trồng cây hàng năm và 14,59% đất nông nghiệp. Trong đất chuyên trồng màu, đất trồng ngô ngày càng tăng và từng bước thay thế cho cây khoai lang và cây sắn. Trong đất trồng cây công nghiệp hàng năm, đất trồng các loại đay, lạc, ... chiếm tỷ trọng đáng kể và được phân bố chủ yếu ơr các bãi ven sông. Hai vùng có diện tích cây màu và cây công nghiệp hàng năm lớn nhất nước là vùng miền núi và trung du Bắc Bộ (diện tích 2.770.807 ha chiếm 25,83% tổng diện tích cây màu và cây công nghiệp hàng năm cả nước và 27,19% diện tích đất nông nghiệp của vùng) và vùng Đông Nam Bộ (diện tích 215.352 ha, chiếm 20,03 diện tích đất cùng loại của cả nước và 22,552% đất nông nghiệp của vùng). Đất trồng cây công nghiệp lâu năm như cà phê, chè, cao su, .... chiếm tỷ trọng lớn và tập trung ở các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng miền núi trung du Bắc Bộ. ở các vùng này đã hình thành nên các vùng cây ăn quả nổi tiếng như bưởi, xoài, chôm chôm, (Biên Hoà, Đồng Nai, Sông Bé, ....). Chương II Thực trạng vê sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam I. Thực trạng về sử dụng đất nông nghiệp trong thời gian qua. 1. Đường lối đổi mới củĐườn a Đảng về ruộng đất ở miền Bắc (1957). Đảng ta đã chủ trương tiến hành xây dựng một nên kinh tế nông nghiệp theo hai hình thức sở hữ tập thể và sở hữu toàn dân.Theo hình thức sở hữu này mô hình kinh tế nông nghiệp là tập thể hoá ruộng đất đưcon chã nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể. Với hình thức sở hữu tập thể về ruộng đất nên chúng ta đã thực hiện tốt một số khâu thủy lợi, cải tạo và quy hoạch đồng ruộng,trên thực tế ruộng đất lại bị lãng phí trong quản lý và sử dụng chế độ sở hữu tập thể với mô hình hợp tác kiểu cũ đã làm cho nông dân không thiết tha với ruộng đất lắm, không tạo ra động lực vật chất để thúc đẩy họ tích cực sản xuất. Dẫn đến kém hiệu quả, sản xuất bị trì trệ do không nhận ra điểm bất hợp lý đó nên sau 1975 mô hình này lại áp dụng vào miền Nam mà không tính đến sự khác nhau giữa nông nghiệp và nông thôn miền Nam và miền Bắc. Vì hình thức sở hữu ruộng đất ở miền Nam trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá chứ không phải nền kinh tế tự cung tự cấp như ở miền Bắc trước khi hợp tác hoá ruộng đất từ chỗ có chủ nhân cụ thể, trực tiếp có kinh nghiệm sản xuất nay chuyển sang sở hữu tập thể dẫn đến phát triển nông nghiệp chậm chạp , trì trệ cả khi coi nông nghiệp là hàng đầu. Từ thực tế Đảng ta đã nhận thấy rằng cần phải khắc phục mô hình kiểu cũ tìm tòi các bước đi và hình thức thích hợp.Để xây dựng mô hình kinh tế nông nghiệp phát tryển vững mạnh. Năm 1979, Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 đã cho phép xã viên mượn đất làm vụ đông, khuyến khích nông dân tận dụng đất hoang để sản xuất, tạo thêm sản phẩm cho xã hội. Năm 1981, Ban Bí thư TW Đảng ra chỉ thị số 100 cho phép áp dụng rộng rãi chế độ khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động thực chất là đến hộ gia đình xã viên. Ruộng đất của tập thể song hé gia đình được giao đảm bảo nhận nhiều khâu trong canh tác có thể đầu tư thêm công sức, vật tư, kỹ thuật để tăng sản lượng. Năm 1986, Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới trong đó có đổi mới về quản lý, cơ chế khoán. Với Nghị quyết 10 Bộ chính trị (4-1988) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân nhưng nông dân đã được giao khoán ruộng đất ổn định lâu dài hạn.Cùng với Nghị quyết 10 của Bộ chính trị thì tháng 3/1989, Hội nghị Trung ương VI đã tiến thêm một bước quan trọng đó là việc xác định lại vị trí của kinh tế hộ gia đình, vai trò quyền lợi của người lao động. Hộ gia đình được coi là đơn vị kinh tế tự chủ. Điều đó hoàn toàn phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp của nước ta hiện nay. Để tiếp tục hoàn chỉnh đường lối đổi mới, Nghị quyết Hội nghị TV và Luật đất đai 1993. Với Luật đất đai , Nhà nước đã chính thức giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân dối với cây ngắn ngày là 20 năm,cây dàI ngày 50 năm.. Người nông dân không chỉ được quyền sử dụng mà còn được quyền thừa kế, thế chấp, chuyển nhượng, cho thuê đất đai . Sự nới rộng các quyền hạn của nông dân đối với ruộng đất và việc thể chê hoá các quyền đó bằng luật pháp Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi về kinh tế, pháp lý để phát huy tiềm năng to lớn của kinh tế hộ gia đình. Đồng thời thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nông nghiệp, phát triển các ngành nghề nông thôn là động lực thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng CNHHĐH. 2. Thực trạng về quản lý, sử dụng ruộng đất hiện nay. * Về quản lý biến động chủ sử dụng: Hiện nay việc quản lý biến động chủ sử dụng đất được thực hiện với kết quả rất khác nhau giữa các vùng với vùng Đồng bằng sông Hồng, Trung du miền núi phía Bắc, ven biển miền Trung. Công tác này nhìn chung diễn ra nền nếp và Ýt phức tạp. Riêng ở Nam Bộ là phức tạp nhất. ở các tỉnh này ruộng đất được chuyển nhượng, cầm cố không đủ tiền không chuộc lại. Đến mức Nhà nước trực tiếp là chính quyền địa phương không thể kiểm soát được. Trong nội bộ từng vùng cũng có sự khác nhau về tình hình quản lý biến động chủ sử dụng đất, nhìn chung ở vùng ven đô thị tình hình biến động phức tạp hơn vùng sâu, xa. * Về quản lý biến độn mục đích sử dụng đất nông nghiệp. -Hiện nay nội dung này còn một số bất cập: + Trong xu thế chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, một mặt chúng ta đang khuyến khích quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn mà xu hướng chung là tăng tỷ trọng cây công nghiệp, cây ăn quả, các loại thuỷ hải sản cao cấp ,.... cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Song mặt khác, Luật đất đai còn hạn chế việc chuyển đất trồng lúa, trồng lương thực thành đất nuôi trồng các sản phẩm khác. + Trên quan điểm bảo toàn lương thực quốc gia, pháp luật đã giới hạn việc chuyển đất trồng cây lương thực chủ yếu là đất trồng lúa sang nuôi trồng các sản phẩm khác. Song trên quan điểm đảm bảo tăng hiệu quả kinh tế thì ta lại khuyến khích nuôi trồng các loại sản phẩm có giá trị kinh tế cao, đang được thị trường chấp nhận chưa có cơ chế thích hợp để giải quyết mâu thuẫn này. + Chóng ta muốn quy hoạch sử dụng đất để đảm bảo sử dụng đất nông nghiệp đạt hiệu quả nhất nhưng lại chưa có cơ chế hợp lý các chủ sử dụng đất thực hiện theo quy hoạch. Trong quyền tự do kinh doanh theo cơ chế thị trường, các chủ sử dụng đất nông nghiệp được giao 5 quyền: chuyển nhượng, chuyển đổi, thừa kế, thế chấp, cho thuê thì chính quy hoạch là một quá trình quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp. Song thực tế một số vùng chưcon chã thực hiện tốt. Điển hình là Tây Nguyên, Trung du và miền núi. ở Tây Nguyên:công tác xây dựng và thực hiện quuy hoạch kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp giữa tỉnh và huyện,giữa huyện và xã,giữa các ngành và các cơ quan TƯ trên địa ban còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ.Dẫn tới các tổ chức,nhân ở tỉnh,thành phố khác đều canh tác cao su,cà fê trên địa bàn chưcon chã thee quy hoạch,hoach tổng thể.Mặt khác viec chặt phá rừng làm lương rẫy của đồng bào dân téc du canh du cư và di cư tự do là môtnguyen nhân làm tăng diện tích đất nông nghiệp không quản lý được.lafnguyeen nhân dẫn tới sử dụng đất nông nghiệp ở Tây Nguyên không hiệu quả. Còn vùng Trung du và miền núi thì diễn ra theo hai hướng: - Hướng truyền thống lạc hậu phá rừng làm rẫycủa đồng bào dân téc du canh du cư và di dân tự do đang là moott trong những nguyen nhân làm tăng diẹn tích đát nông nghiệp không quản lý được. - Hướng mới là chuyển đất trồng cây lương thực sang trồng cây ăn quả có giá trị cao cấp. Như huyện Lục Ngạn- Bắc Giang hầu hết đất trồng khoai, sắn trước kia nay đã trồng vải, đã ddat hieuj quả cao.Nhưng công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp trong nông nghiệp công tác này diễn ra rất chậm ở ngay thời kỳ sau khi có Nghị định 64/CP ngày 27/09/1993. Nguyên nhân chủ yếu là kinh phí chưa đủ.Nhưng có một biện pháp để thúc đẩy nhanh và đỡ tốn kém cho quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hạn chế được tình trạng manh mún ruộng đết đó là đổi ruộng đất cho nhau, thúc đẩy quá trình tập trung hoá ruộng đất. Quá trình này vừa nằm trong luật pháp cho phép lại vừa phù hợp với quy hoạch. Làm tốt công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tiền đề đưa việc quản lý đất đi vào nền nếp. Cho đến nay có thể cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là nhân tố quan trọng mà là tạo tâm lý vững chắc cho nông dân đâù tư thâm canh nâng cao năng suất ruộng đất. Cho đến đầu năm 1998, nhiều tỉnh đã cơ bản hoàn thành thủ tục và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân, nội dung này hiện nay có thể nói đã được thực hiện tương đối tốt. Về việc giải quyết chanh chấp: Đây là vấn đề quan trọng trong nội dung quản lý Nhà nước về đất đai đã được quy định trong Luật đất đai năm 1993. Từ sau khi có Luật đất đai năm 1993 , Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về tình hình tranh chấp ruộng đất xảy ra khá nhiều ở hầu khắp các vùng, từ đó đến nay, nhất là khi có Luật đất đai năm 1993 các Nghị định của Chính phủ về đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất ở, ... Đảng và Nhà nước các cấp đã nỗ lực giải quyết ở các nơi có sự khác nhau, nhưng đều dùa trên nguyên tắc là có cơ sở pháp lý và bảo đảm thuận tình giữa các hộ nông dân. Cho đến nay có thể khẳng định công tác giải quyết tranh chấp đất đai trong nông nghiệp, lâm nghiệp đã được thực hiện với kết quả tốt vừa tạo điều kiện tiền đề để sử dụng ruộng đất đạt hiệu quả cao vừa tôn trọng các thành qủa của các giai đoạn cách mạng về ruộng đất trước đây vừa đảm bảo ổn định chính trị, xã hội trong nông thôn. 3. Các chính sách về quản lý và sử dụng ruộng đất: Chính sách đổi mới của Đảng và Chính phủ đã tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong nền nông nghiệp phân phối và tổ chức lại đất đai , tù do hoá việc ra quyết định sản xuất nông nghiệp mở cửa thị trường đầu vào và đầu ra. Thừa nhận hộ nông dân là đơn vị cơ bản của sản xuất nông nghiệp. Dưới tác động của chính sách đổi mới Luật đất đai năm 1993 ra đời đặc biệt là Luật đất đai năm 1998 sửa đổi tuỳ theo mục tiêu cụ thể của chính sách được cụ thể hoá dưới các dạng văn bản pháp lý được Chính phủ ban hành đến các địa phương. Các chính sách sử dụng đất phải đảm bảo vừa phát triển về kinh tế, vừa ổn định về xã hội. Sử dụng đầy đủ và hợp lý ruộng đất tạo ra nhiều nông sản có chất lượng cao, giá hạ, đáp ứng đầy đủ sản lượng ngày càng tăng của dân cư, có sản phẩm tốt để xuất khẩu tác động đến các ngành kinh tế hữu quan, bảo vệ chất đất và ổn định môi trường. Từ các mục tiêu kể trên các chính sách sử dụng đất nông nghiệp và bảo vệ đất nông nghiệp gồm các loại sau đây: + Các chính sách xác lập về quyền lợi gắn chặt với đất đai - Chính sách bảo vệ người nông dân có đất sản xuất ổn định lâu dài. - Chính sách khuyến khích người trồng lúa. - Chính sách trợ cấp cho người đi xây dựng vùng kinh tế mới. - Chính sách tín dụng. - Chính sách ưu tiên phát triển đất nông nghiệp. - Chính sách bảo vệ và phát triển đất trồng lúa. + Các chính sách về nghĩa vụ của người sử dụng đất như: - Chính sách khuyến khích chuyển đất nông nghiệp trồng lúa sang mục đích sử dụng khác. - Chính sách sử dụng đất nông nghiệp. - Chính sách sử dụng đất đúng mđ. - Chính sách thuế chuyển quyền sử dụng đất. II. Các biện pháp sử dụng chủ yếu 1. Bố trí cơ cấu cây trồng. Việc bố trí cơ cấu cây trồng sao cho hợp lý là một vấn đề quan trọng vì cơ cấu cây trồng phụ thuộc vào điều kiện của tự nhiên như khí hậu, địa hình, ... như vậy, vấn đề đặt ra là sử dụng hợp lý cây trồng đúng mục đích, hiệu quả kinh tế cao phù hợp với từng điều kiện sinh thái của từng vùng. ở nước ta, khí hậu thay đổi rõ rệt từ Bắc vào Nam cho nên cần phải có hình thức bố trí hợp lý bên cạnh điều kiện về khí hậu việc bố trí còn phụ thuộc vào đặc điểm của đất nông nghiệp, chiến lược sản phẩm của Nhà nước hay là mục tiêu phát triển của ngành. Thực tế là vùng Tây Nguyên có khí hậu Êm áp hai mùa rõ rệt cộng với địa thế của cao nguyên GiaLaiKonTum, Đăklăk, Lâm Đồng đều là đất đỏ bazan màu mỡ nên bố trí trồng các cây công nghiệp như cà phê, cao su, ... vừa đảm bảo được diện tích lâm nghiệp, ngoài ra còn bố trí trồng các cây công nghiệp ngắn ngày như; mía đường, tiêu. Đối với vùng Đông Nam Bộ cũng vậy đất chủ yếu là bazan, khí hậu Êm áp phù hợp với cây công nghiệp đặc biệt là cao su. Đây là vùng có diện tích trồng cao su lớn nhất trong nước. Đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đất đai ở đây màu mỡ, khí hậu cận nhiệt đới Êm áp, thuận lợi cho việc trồng lúa nước và các cây ăn quả cao cấp như nhãn, xoài, ... ngoài ra còn là vùng mặt nước nuôi trồng thuỷ sản thuận lợi. Vùng Duyên hải miền Trung có khí hâụ khắc nghiệt nên cần bố trí có hệ thống rừng phòng hộ để đề phòng thiên tai và sự cố môi trường, trồng các loại cây lâu năm. ở vùng khu Bốn cũ, vùng này khí hậu cũng thay đổi theo mùa lại chịu ảnh hưởng khắc nghiệt giữa hai vùng Nam- Bắc nên thường hay có thiên tai lũ lụt, do đó cần bố trí cây trồng kèm lẫn rừng phòng hộ, chú ý có thể xen canh gối vụ, ngoài hai vụ lúa mùa và chiêm có thể bố trí được một vụ hoa màu lương thực như rau mùa đông, khoai Đông xuân, ngô, ... Vùng Đồng bằng sông Hồng ngoài chịu ảnh hưởng của thời tiết địa hình ở đây cũng phức tạp, bên cạnh diện tích đất trồng lúa còn có diện tích đất bãi trồng màu, các cây lương thực ngô, khoai, ... ngoài ra còn vùng rộng lớn đất chiêm trũng. Vì vậy việc bố trí cây trồng ở đây rất đa dạng tuỳ thuộc vào từng địa phương cũng như vùng ven thành phố Hà Nội nhu cầu cung cấp cho thành phố về rau màu là rất nhiều nên cần bố trí trồng cây rau màu. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc với diện tích rộng lớn đất đai đa dạng nên việc bố trí cây trồng ở đây cũng phụ thuộc vào loại chất đất đai và điều kiện phù hợp của từng loại cây các tỉnh Thái Nguyên, Yên Bái có diện tích đất xám bạc màu, thời tiết bốn mùa rõ rệt phù hợp để trồng các cây công nghiệp chè, vùng miền núi Sơn La có thời tiết phù hợp với các loại cây ăn quả như mận, xoài, đào, ... Vùng miền núi Lạng Sơn, Bắc Giang phù hợp với cây ăn quả: vải, mận, na, ... như vậy việc bố trí cơ cấu cây trồng trong cả nước sao cho phù hợp với lợi thế của từng vùng cũng như là việc phát triển nông nghiệp cả nước là rất quan trọng là một khâu trong việc quản lý nông nghiệp nước ta. 2. Thâm canh. Đây là biện pháp cơ bản lâu dài để phát triển nền nông nghiệp theo chiều sâu, quy mô công nghiệp hiện đại thực hiện thâm canh là khai thác “Khả năng sinh lời vô hạn của ruộng đất”. Tuy nhiên, khai thác đặc điểm của ruộng đất bằng thâm canh phải coi trọng tính hiệu quả và phải gắn với việc cải tạo, bảo vệ, bồi dưỡng đất. Trong điều kiện của sản xuất hàng hoá để thâm canh có hiệu quả cần hiểu rõ mối quan hệ giữa các yếu tố của quá trình sản xuất của từng cây trồng cụ thể. Phải xem xét và tính toán trạng thái và hiệu quả kinh tế của từng hướng đầu tư cho từng yếu tố và tập hợp các yếu tố. Khi đầu tư các yếu tố vật chất: phân bón, giống, thuốc trừ sâu,... cần lưu ý đến đặc điểm sinh học của cây trồng đảm bảo sản xuất nông sản có chất lượng cao đảm bảo về vệ sinh an toàn thực phẩm, tạo lòng tin với người tiêu dùng. Trên thực tế, ở nước ta nhiều nơi nông dân vẫn canh tác theo kiểu truyền thống chưa có kỹ thuật cũng như áp dụng các thành tựu khoa học mới như giống, phân, ... nên sản phẩm thu được với kết quả thấp ở đây nói chủ yếu là vùng miền núi và trung du có đồng bào dân téc thiểu số. 3. Về khai hoang. Khai hoang là quá trình đầu tư cải tạo đất hoang (đất chưa sử dụng) biến đất đai là sản phẩm của tự nhiên thành sản phẩm của xã hội để đưa vào sản xuất nông nghiệp. Đối với nước ta khai hoang không những nhằm sử dụng đầy đủ và hợp lý đất đai để tăng thêm sản phẩm cung cấp cho xã hội, mà còn có ý nghĩa to lớn như góp phần tích cực vào cải thiện tình hình phân bố lực lượng sản xuất, lực lượng lao động giữa các vùng, xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện, sản xuất nhiều nông sản hàng hoá, nâng cao đời sống cho nhân dân làm thay đổi bộ mặt kinh tế văn hoá ở vùng dân téc Ýt người, tăng cường củng cố quốc phòng. Nhận thức được vấn đề trên, trước sức Ðp về việc tăng dân số, trong nhiều năm qua, đất nước ta có nhiều cố gắng trong việc tổ chức khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới như Tây Nguyên, Sông Bé, Đồng bằng sông Cửu Long, Sơn La, .... Vì vậy công tác khai hoang đã thu được những kết quả
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng