Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Lớp 12 Tài liệu ôn thi thpt quốc gia môn ngữ văn 2016 cực hay (phần 7 - kí - kịch giai ...

Tài liệu Tài liệu ôn thi thpt quốc gia môn ngữ văn 2016 cực hay (phần 7 - kí - kịch giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ xx)

.PDF
32
372
66

Mô tả:

Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn 2016 cực hay (Phần 7 - Kí - Kịch giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX)
1 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ - NGUYỄN TUÂN (tiết 1) Lời mở: Tuỳ bút là một thể loại văn xuôi có đóng góp đáng kể vào nền văn học hiện đại nước nhà. Có thể kể ra nhiều tác giả, tác phẩm thành công ở thể loại này: Thạch Lam với Hà Nội băm sáu phố phường, Nguyễn Trung Thành với Đường chúng ta đi, Vũ Bằng với Thương nhớ mười hai, Hoàng Phủ Ngọc Tường với Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, Rất nhiều ánh lửa, Ai đã đặt tên cho dòng sông? Và không thể không kể đến ông vua của thể tùy bút Nguyễn Tuân với Người lái đò Sông Đà. I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả: NguyÔn Tu©n (1910 – 1987) Xuất hiện trên đàn văn vào cuối thập niên 30 và đầu 40, Nguyễn Tuân đã khẳng định ngay lập tức tên tuổi của mình ở một văn phẩm gần như đạt đến sự hoàn thiện và hoàn mỹ của một phong cách viết: Vang bóng một thời. Ông được coi là cây đại thụ của rừng đầu nguồn Việt Nam thế kỉ 20 với một phong cách nghệ thuật tài hoa, độc đáo. Lµ c©y bót tµi n¨ng cả ở truyÖn ng¾n, nghiªn cøu phª b×nh v¨n häc, ký...Tuy nhiªn, v-¬ng quèc ®Ó NguyÔn Tu©n xây nên l©u ®µi nghÖ thuËt nguy nga tr¸ng lÖ lµ ë Tuú bót. Ng-êi l¸i ®ß s«ng §µ lµ minh chøng cho së tr-êng cña nghÖ thuËt ë thÓ tµi tuú bót. Qua đây, người đọc có thể thấy chân dung của một cái tôi tài hoa, uyên bác mà mỗi con chữ kh«ng chØ lµ l©u ®µi ch÷ nghÜa mµ cßn lµ bÓ th¼m t©m hån, chở nặng tÊm lßng cña nhµ v¨n ®èi víi ®Êt n-íc, con ng-êi. ChÝnh tÊm lßng yªu con ng-êi, yªu ®Êt n-íc gãp phÇn lµm nªn nh÷ng trang v¨n thËt tµi hoa cña NguyÔn Tu©n: “Nãi chuyÖn víi Ng-êi l¸i ®ß s«ng §µ nh- cµng lai l¸ng thªm c¸i lßng muèn ®Ò th¬ vµo s«ng n-íc". (Lêi t¸c gi¶). MOON.V N 2. Tác phẩm 2.1. Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời, đề tài, nguồn cảm hứng - Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” rút từ tập “Sông Đà” gồm 15 tùy bút và một bài thơ phác thảo, ra đời năm 1960 trong khí thế phấn khởi hào hùng của những năm tháng miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khắp đất nước dậy vang Tiếng hát con tàu, sục sôi tiếng gọi vọng về từ Đoàn thuyền đánh cá. Chính những âm thanh ấy đã thổi bùng lên nhiệt tình cách mạng, giục giã bước chân phiêu lãng của Nguyễn Tuân tìm về với mảnh đất miền Tây của Tổ Quốc, khám phá chất vàng của thiên nhiên và tâm hồn dân tộc để đúc lại trong thiên tùy bút…Viết về dòng sông địa đầu tổ quốc, dồn nét trong tâm khảm Nguyễn Tuân là cảm hứng ngợi ca, khẳng định sự thay đổi của thiên nhiên đất nước trong thời kì đổi mới. 2.2. Thể loại Tùy bút là một dạng có tính chất trung gian giữa tự sự với trữ tình, giữa thơ với văn xuôi, giữa yếu tố chủ quan và khách quan,…vừa có tính chất ghi chép (kí), vừa có chất thơ (trữ tình) vừa mang màu sắc triết học trong tư duy. Trong tuỳ bút cũng có kể chuyện, thuật sự. Nhưng cái mạch chính, ưu trội lên, luôn là trữ tình. Đó là thể văn tự do, tương đối phóng túng, nhưng vẫn có nguyên tắc của nó. Một trong những nguyên tắc mà người ta hay nói đến là nguyên tắc kết cấu: vừa tán, vừa tụ. Bề mặt có vẻ tản mạn, nhưng bề sâu lại nhất quán về ý nghĩa, tư tưởng, chủ đề, tạo trục xuyên suốt như khối vuông ru bích. Tùy bút Nguyễn Tuân là đỉnh cao tùy bút Việt Nam mà qua đó, ta thấy một cái tôi tài hoa, uyên bác. Nếu như trước cách mạng tháng Tám, ông viết về những con người đặc chủng, http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI đặc tuyển thì giờ đây, những con người bé nhỏ, bình thường mà vĩ đại lại là nhân vật chính trong sáng tác Nguyễn Tuân. 2.3. Giá trị của tác phẩm + Giá trị thông tin, tư liệu: công trình khảo cứu về Sông Đà, cung cấp những hiểu biết chân xác, lí thú về Sông Đà, về lịch sử, địa thế, phong cách vượt thác của người lái đò, sự chuẩn bị của nhà nước để chinh phục Sông Đà. + Giá trị văn chương. II. Đọc hiểu văn bản Giá trị đích thực của tác phẩm văn chương không phải chỉ qua việc phản ánh, khắc họa hiện thực mà còn ở tầm tư tưởng, cảm xúc và những suy nghiệm sâu sắc về con người, về cuộc sống. Cái đẹp của văn tuỳ bút Nguyễn Tuân thể hiện tập trung ở Người lái đò sông Đà, nhưng lòng yêu mến thiết tha, thái độ trân trọng chế độ mới, cuộc sống mới và sự thay đổi căn bản trong quan niệm thẩm mĩ chính là cái mạch ngầm tư tưởng, cảm xúc có ý nghĩa quyết định đối với công việc sáng tạo của người nghệ sĩ. Khi phân tích, không chỉ chú ý làm nổi bật cái tôi tài hoa, uyên bác, cần hết sức lưu tâm đến cái tôi dào dạt, tinh tế trong cảm xúc, chân thành gắn bó với đất nước và dân tộc của một nhà văn từng có thời kì dài thoát li cuộc sống, chỉ ham mải miết trong xê dịch,…. 1. Hình tượng Sông Đà 1.1. Tính cách hung bạo- vẻ đẹp dữ dội, hùng vĩ MOON.V N * Vị trí của nhân vật trong tác phẩm: Hình tượng trung tâm của tùy bút là người lái đò, nhưng những trang đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân lại dành cho con sông mà ở đó, hình như cái ngông của ngòi bút Nguyễn Tuân đã gặp gỡ với cá tính đặc biệt của sông như một cuộc hẹn hò từ lâu với đứa con bướng bỉnh của bà mẹ Tây Bắc. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã trân trọng viết hoa cả hai chữ Sông Đà. Sông nước xứ mình đã chảy bao nhiêu trên trang viết của Nguyễn Tuân, nhưng chưa ở đâu, hình ảnh dòng sông lại hiện lên sống động như một sinh thể, có tâm trạng, có linh hồn, có tên riêng trong khai sinh, có lai lịch và tính cách phức tạp, phong phú như sông Đà trên trang văn của Nguyễn. Sự phức tạp ấy tập trung thể hiện ở hai phương diện mà Nguyễn Tuân gọi là hung bạo và trữ tình. * Biểu hiện của tính cách hung bạo, vẻ đẹp dữ dội, hùng vĩ của Sông Đà - Hiện lên qua lời đề từ: Thơ Nguyễn Quang Bích:“Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Nét riêng của Sông Đà: thế chảy độc đáo, nghịch ngược, không giống ai của Sông Đà. Nguyễn Tuân tìm thấy sự đồng cảm với cái “ngông” của thiên nhiên. - Biểu hiện chủ yếu ở khúc thượng nguồn: lắm thác, nhiều ghềnh, độ dốc lớn, nước chảy xiết. + Bờ sông có những đoạn rất hiểm trở: Vách đá: “dựng vách thành”, hai bờ sừng sững như áp sát nhau. Đó là vách đá hẹp, sâu, dốc thẳng đứng được đặc tả bằng một loạt các liên tưởng, so sánh cụ thể, độc đáo: Mặt sông chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Nó chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này nhẹ tay ném hòn đá qua vách… Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh…ta có cảm giác thất thần như ngước nhìn lên một tòa cao tầng nào đó vừa tắt phụt đèn điện. Chưa hết bàng hoàng, ta bị cuốn theo những âm thanh man dại của âm thanh tiếng nước mặt ghềnh Hát Loóng http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI + Âm thanh tiếng nước: Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt...Chúng ta vẫn hát Em có nghe thấy gió nói gì không? Và hình dung tiếng gió dịu dàng trong lời thì thầm tình tự. Nhưng hẳn đó không phải là cái gió cuồn cuộn như thành hình, gùn ghè (biến âm của hai tiếng gầm gừ và hầm hè chăng?) như thành tiếng. Một thứ tiếng quỷ quái và ghê rợn: Thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Chưa thỏa, nhà văn còn tiếp tục tả tiếng thác với muôn vàn giọng điệu: Nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo…Thế rồi, nó bất thần Rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng- Những câu văn trùng điệp gợi không khí quay cuồng, bỏng rát của một trận cuồng lửa, hủy diệt. Dùng lửa để tả nước, lấy rừng tả sông, đem những yếu tố vốn tương khắc, giờ lại hòa hợp để tương sinh một so sánh độc đáo, gợi cảm là nhà văn muốn nhấn mạnh đặc tính hủy diệt ghê gớm của Sông Đà. Câu văn có kết cấu trùng điệp, liên hoàn, nhịp ngắn tạo giọng văn dồn dập, gấp gáp, căng thẳng, từ ngữ cực tả trạng thái dữ dội gợi ấn tượng hãi hùng, rùng rợn và sức tàn phá khủng khiếp. Dữ dội nhất phải kể đến những hút nước. Trông xa nó giống như cái lúm đồng tiền trên má một cô nàng xinh xinh, nhưng kì thực nó là mồ chôn bao số phận. Nguyễn Tuân đã đặc tả hút nước Sông Đà: sâu, sáng, xanh trong thăm thẳm bằng những so sánh đặc biệt: + Hút nước: Giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Mặt giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh. Cốc pha lê nước khổng lồ. Từ đáy hút nước nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải.. Kết hợp thủ pháp của văn học và thủ pháp của điện ảnh, Nguyễn Tuân đã truyền đến độc giả cảm giác chân thực, sống động như tận mắt chứng kiến vẻ hung bạo một cách hùng vĩ của Sông Đà. MOON.V N + Đá: Sông Đà đã dàn bày thạch trận trên sông như một trận đồ bát quái bắt dìm bằng hết, bắt chết bằng được bất cứ con thuyền nào qua đó. Thạch trận không chỉ có vẻ hung hãn, dữ dằn của vách đá, hút nước mà còn bộc lộ bản chất nham hiểm, xảo quyệt. Mặt sông Đà “cả một chân trời đá nó bày thạch trận trên sông đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngay trên sông đòi ăn chết cái thuyền”. Có những đoạn mặt ghềnh “nước xô đá đá xô sóng sóng xô gió cuồn cuộn những luồng ghùn ghè suốt năm...”. Mặt hòn đá nào cũng ngỗ ngược, “nhăn nhúm”, méo mó. Nó đứng, ngồi, nằm, nghiêng với những nhiệm vụ riêng, bày sẵn thạch trận thành ba tuyến. Bày ba trùng vi nhằm tước đoạt và hủy diệt đến cùng sự sống của con người: giở mọi thủ đoạn, mưu ma chước quỷ để dẫn dụ, phục kích, đó là “binh pháp” sâu hiểm của “thần sông thần đá”. Chúng đã chọn khúc ngoặt – khi tầm nhìn bị hạn chế để đánh phục kích, dụ người vào sâu thế trận, đánh quật vu hồi, cô lập hóa, chặn mọi đường sinh. Khi giáp lá cà: giở mọi ngón đòn hiểm ác: nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, uy hiếp tinh thần đối phương. Với cách miêu tả mang cảm giác mạnh, nhà văn Nguyễn Tuân đã dựng nên một nét tính trội của sông Đà đó là rất dữ dội hung bạo nhưng đồng thời nó cũng rất sống động như một sinh thể sống. Vì thế tác giả thường gọi con sông Đà chứ ít gọi là dòng sông. + Tuy nhiên, để thấy hết cái dữ dội của Sông Đà, phải cùng ông bước vào trận thủy chiến với cả một đội quân hùng hậu, đông đảo, dữ dằn, hung hãn của sông gồm có lực lượng: đá hậu, đá tướng, đá tiền vệ với nhiều thủ đoạn nham hiểm. Chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba trùng vi, tập đoàn cửa sinh cửa từ, hệ thống boongke, pháo đài đá chìm nổi, lộ diện hay giấu mặt... Trùng vây thứ nhất có bốn cửa tử, một cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng vào mình, mặt nước hò la vang dậy (…), ùa vào http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI mà bẻ gẫy cán chèo võ khí trên cánh tay ông lái, chúng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến, sóng nước như quân liều mạng đội thuyền lên với vẻ hùng hổ, nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, hung hăng như một đấu sĩ bất bại. Chúng đã dùng đến miếng đòn hiểm độc nhất: luồng nước (..) bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò. Chúng muốn giở ngón đòn hiểm hóc quyết định nhằm nốc ao đối phương. - Trùng vây thứ hai, chúng tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Chúng bộc lộ bộ mặt nham hiểm, xảo quyệt. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá- thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đòn cửa tử- dai dẳng, quyết liệt. Chúng không ngừng khiêu khích. Trùng vây ba ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác…Dường như có bao nhiêu liên tưởng độc đáo, bao nhiêu sáng tạo từ ngữ dồn chứa đã tụ hội về đây, tạo nên bức tranh sơn dầu hoành tráng với những mảng màu va đập tới tấp làm náo động cả không gian. Bằng cách đó, Nguyễn Tuân đã bắt sự hung bạo phải hiện lên thành hình khối, đường nét, âm thanh và muôn vàn chuyển động sống động. * Dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Tuân - Về nội dung: Qua vẻ đẹp hung bạo của Sông Đà, Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước say đắm thiết tha của một người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp kì vĩ hào hùng của thiên nhiên Tây Bắc. Đồng thời, cũng tạo nên bối cảnh không gian chuẩn bị cho sự xuất hiện của con người, nhấn mạnh môi trường lao động đầy gian lao thử thách để ca ngợi con người. Khắc họa bản chất Sông Đà: vừa “khắc nghiệt như dì ghẻ, chúa đất”, vừa hùng vĩ dữ dội để tạo ấn tượng về con sông mang diện mạo một kẻ thù số một, thách thức đối với con người, gợi ham muốn chinh phục, khám phá, chế ngự. MOON.V N - Về nghệ thuật: Ngôn từ phong phú, sử dụng thuật ngữ, hệ từ vựng của nhiều ngành khoa học, nghệ thuật khác nhau (quân sự, võ thuật, thể thao…) để diễn tả tính chất cuộc đấu tranh giữa con người – tự nhiên: quyết liệt, căng thẳng, một mất một còn. Cảm xúc dạt dào, tinh tế. * Tiểu kết: Mặc dù hình tượng nổi bật trong tác phẩm là người lái đò nhưng xuyên suốt tác phẩm là hình tượng rất riêng của con sông Đà. Nếu như thần thoại “Sơn Tinh, Thủy Tinh” lý giải cái hung bạo, khắc nghiệt của Sông Đà bằng tư duy cổ sơ “năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Nguyễn Tuân lại dựng lên vẻ đẹp dữ dội, hung bạo, hùng vĩ của Sông Đà bằng những trang văn cụ thể, chân xác, giàu liên tưởng. Qua đó, có thể thấy niềm say mê của Nguyễn muốn dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hóa và những kì tích lao động của con người, tình yêu thiên nhiên đắm say và tinh thần dân tộc. Một tấm lòng dào dạt với cuộc sống mà Nguyễn Tuân đã hòa nhịp bằng trái tim chân thành của một nghệ sĩ tài hoa. http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ - NGUYỄN TUÂN (tiết 2) Ngòi bút Nguyễn Tuân không chỉ vẫy gió tuôn mưa khi nói về vẻ đẹp hùng vĩ của dòng sông mà tâm hồn còn dào dạt mênh mông khi viết về dòng sông trữ tình. Có thể nói, tất cả những đối cực khác nhau của cái đẹp đều được nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân phô khoe hết vẻ đa dạng phong phú trong ngòi bút... 1. Hình tượng Sông Đà (tiếp) 1.2. Vẻ đẹp nên thơ và trữ tình - Vẻ đẹp trữ tình thể hiện trong lời đề từ thứ hai, thơ của nhà thơ Ba Lan:“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”: cảm thán về vẻ đẹp nên thơ, thi vị của các dòng sông- hé mở vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà và vẻ đẹp tâm hồn con người gửi vào tiếng hát. - Tính trữ tình thể hiện tập trung ở khúc hạ lưu với dòng chảy và màu nước. Dòng chảy êm, phẳng, rộng, tạo nét tính cách tương phản với sự hung bạo được miêu tả cụ thể, chân thực bằng rất nhiều hình ảnh gợi cảm và màu nước biến ảo theo mỗi mùa. - Tính trữ tình thể hiện trong điểm nhìn động: theo thời gian (mùa); theo không gian (trên cao- xa); từ tư thế (ngồi thuyền- đi). + Từ trên cao, xa nhìn xuống, Sông Đà như một cái Dây thừng ngoằn nghèo. Tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Đó là vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng, e ấp như mang cả hương thơm quyến rũ của núi rừng (áng tóc thơm hương hoa ban hoa gạo). Nguyễn Tuân khi phản ánh sự vật sự việc bao giờ cũng tìm cách đẩy sự vật sự việc đến độ tột cùng tột đỉnh. Vì thế sông Đà trong con mắt của Nguyễn Tuân hung bạo bao nhiêu thì cũng rất trữ tình bấy nhiêu. Sông Đà không chỉ đẹp ở hình dáng mà còn đẹp ở sự thay đổi sắc màu ấn tượng. + Từ điểm nhìn theo thời gian, ta còn được tác giả cho thấy sự kì ảo của màu nước: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về- Những dòng văn ngậm đầy chất họa, chất nhạc, chất thơ cho thấy khả năng quan sát tinh tế, ngôn ngữ cá thể hóa cao độ nhờ những so sánh độc đáo, chân xác. + Cảm nhận trên tư cách một “cố nhân”: Màu nắng tháng ba Đường thi là liên tưởng độc đáo khiến nắng sông Đà như ngậm thơ, ngậm họa. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Lời văn quá đỗi ngọt ngào tha thiết, khiến ta không còn phân biệt được đâu là chất thơ của cảnh, đâu là hoài ức và kỉ niệm, đâu là những cảm giác, những ấn tượng trong trẻo của một tâm hồn… + Ngồi trên thuyền, chiêm ngưỡng sông Đà “như một tình nhân chưa quen biết”. Với những câu văn sử dụng hầu hết là thanh B, với nhịp điệu hết sức chậm rãi, êm ả, thư thái lạ lùng, tác giả đã nhẹ đưa nét bút trên tấm lụa ngôn từ có độ loang mờ kì ảo để truyền cho người đọc những dư vị ngọt ngào và nỗi xúc động thầm kín. Nào là biện pháp dùng động để tả tĩnh (hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt, thuyền trôi, tiếng còi sương…), đặc tả cái thanh tịnh tuyệt cùng của bờ bãi sông Đà. Nào là những hình ảnh đẹp, trong trẻo, thanh khiết, liên tưởng giàu chất thơ: Lá ngô non đầu mùa, cỏ gianh đồi núi ra những nõn búp, con nai thơ ngộ, áng cỏ sương, tất cả đều gợi vẻ tinh khôi, đọng hương sữa ngào ngạt, non tơ. Tiếng còi sương là âm thanh trong tâm tưởng, dội về từ quá khứ, một chi tiết MOON.V N http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI độc đáo, diễn tả sâu sắc cái yên lặng khôn cùng của bờ sông, tĩnh đến mức người và vật giao cảm để lặng tìm âm thanh tự tâm hồn, tự thời gian thăm thẳm. + Bờ sông: Bờ sông đâu phải lúc nào cũng dựng vách thành mà nhiều quãng sông “bờ sông hoang dại như thời tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích”, “cảnh ven sông ở đây lặng lẽ như tờ, hình như đời Lí đời Trần đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ thế thôi”. ...thời gian không xác định, không cụ thể nhưng giàu sức gợi, gợi về quá khứ, gợi trăm năm cổ tích, khơi lại những trầm tích tâm hồn người Việt trong những trang viết cổ sơ. Lấy những giá trị văn hóa truyền thống để so sánh là một cách để Nguyễn Tuân vĩnh viễn hóa cái đẹp của bờ bãi sông Đà. - Trên bãi sông sự sống dâng tràn “cỏ gianh đầu núi đang ra nõn búp”, “nương ngô nhú mấy lá ngô non đầu mùa”, “một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương”- Sông Đà không chỉ có vẻ đẹp trữ tình của hình dáng, màu sắc mà còn có vẻ đẹp trữ tình của sức sống êm đềm sinh sôi. Đối với Nguyễn Tuân sông Đà là một cố nhân và sẽ càng đẹp hơn trong khúc hát xây dựng tương lai. 1.3. Tiểu kết - Để xây dựng hình tượng con sông Đà như một sinh thể có số phận, nhà văn đã huy động tổng hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật: nghệ thuật tả thực và lãng mạn, sự phối hợp nhiều thủ pháp của hội họa, của điện ảnh, nghệ thuật sử dụng ngôn từ một cách đa dạng sáng tạo, nhờ thế vẻ đẹp và đặc tính của dòng sông được hiện lên rất đa diện. Xây dựng hình tượng con sông Đà nhà văn vừa để chứng minh tài nghệ của người lái đò sông Đà vừa để người đọc thấy răng, sông Đà là một con sông đặc biệt đầy triển vọng trong khúc hát xây dựng tương lai. - Ngòi bút tài hoa và biến hóa của Nguyễn Tuân đã thổi linh hồn cho Sông Đà, để vật thể vô tri hiện lên với những tính cách đối nghịch mà thống nhất. Từ đó, nét tài hoa, uyên bác trong nhìn nhận, khám phá, miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Tuân được thể hiện một cách đầy thuyết phục. 2. Hình tượng người lái đò 2.1. Khái quát - Khắc họa trong tương quan với hình ảnh Sông Đà hung bạo, hùng vĩ. - Ông lái đò không tên, dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Tuân là khắc sâu phẩm chất dũng cảm, gan dạ, kiên cường (bộc lộ rõ nhất khi nhân vật đương đầu với khó khăn, thử thách) của những con người bình thường, vô danh. Giả sử có một cái tên hoặc đặt ông lái trong khung cảnh thi vị trữ tình của Sông Đà thì nhân vật sẽ trở thành một nghệ sĩ đa tình, giống như thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân trước cách mạng. Ông lái đò chỉ trở thành người anh hùng - nghệ sĩ trong thiên sử thi leo ghềnh vượt thác. 2.2. Phẩm chất tài năng, trí dũng - Nắm chắc qui luật của thần sông thần đá. Thuộc qui luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Hé mở vấn đề mang ý vị triết học sâu xa: trong cuộc chiến đấu một mất một còn với kẻ thù bốn chân, con người am hiểu và làm chủ quy luật là con người tự do, dẫu đó là quy luật đầy khắc nghiệt, chỉ cần một chút lơi tay, do dự và mất bình tĩnh là có thể trả giá bằng cái chết. - Trong cuộc giao tranh với thạch trận: Bút pháp tương phản dựng lên cuộc tranh chấp quyết liệt, gay gắt, căng thẳng trên thạch trận Sông Đà giữa một bên là thạch trận Sông Đà (thiên nhiên), một bên là Ông đò (con người). Lực lượng kẻ thù gồm tất cả bọn đá hậu, đá tướng, đá tiền vệ với nhiều thủ đoạn nham hiểm. Cả một đội quân hùng hậu, đông đảo, dữ dằn, hung hãn. Chúng còn giăng sẵn trận đồ bát quái: ba trùng vi, tập đoàn cửa sinh cửa từ, hệ thống boongke, pháo đài đá chìm nổi, lộ diện hay giấu mặt... + Trùng vây thứ nhất • Bốn cửa tử, một cửa sinh. • Sóng trận địa phóng thẳng... MOON.V N http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI • Mặt nước hò la vang dậy (…), ùa vào mà bẻ gẫy cán chèo võ khí trên cánh tay ông lái, chúng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến. • Sóng nước như quân liều mạng đội thuyền lên với vẻ hùng hổ. • Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, hung hăng như một đấu sĩ bất bại. • Miếng đòn hiểm độc nhất: luồng nước (..) bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò. Chúng muốn giở ngón đòn hiểm hóc quyết nhằm nốc ao đối phương. + Trùng vây thứ hai • Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Chúng bộc lộ bộ mặt nham hiểm, xảo quyệt. • Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá- thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ. • Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đòn cửa tửdai dẳng, quyết liệt. Không ngừng khiêu khích. + Trùng vây ba: • Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. • Luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. - Một ông đò và sáu tay chèo, lực lượng ít ỏi, cạn kiệt sức lực. Như một đại tướng lão luyện, dày dạn kinh nghiệm trận mạc, ông đò bình tĩnh tiến vào trận địa, lần lượt vượt qua từng trùng vây: - Vượt trùng vây thứ nhất: Hai tay giữ mái chèo, ông cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch. Trên con thuyền vẫn nghe tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. - Vượt trùng vây thứ hai: Không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vòa cửa sinh, lái miết một đường chéo về phía cửa đá. Những động tác thành thạo, chính xác, dũng mãnh... - Vượt trùng vây thứ ba: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Hành động dũng cảm, động tác nhanh gọn, dứt khoát. Với nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi không khí cuộc giao tranh quyết liệt, một sống một chết giữa ông Đò và thủy thần. Với sự tương phản hai lực lượng: một bên là thiên nhiên – thác đá Sông Đà bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song, một bên là con người – ông lái đò bé nhỏ, cạn kiệt sức, tác giả đã tạo nên một khúc tráng ca ca ngợi bản lĩnh, sự dũng cảm và khả năng chinh phục tự nhiên của con người. Kết hợp kiến thức uyên bác của nhiều lĩnh vực: võ thuật, thể thao, quân sự… và trí tưởng tượng phong phú cùng kho chữ nghĩa phong phú, tài hoa, biến câu chuyện bình thường của người lao động trên sông thành bản trường ca về người anh hùng – nghệ sĩ lái đò trong nghệ thuật vượt thác. 2.3. Ông đò vừa là một dũng sĩ vừa là một nghệ sĩ. - Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do. - Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò không chỉ thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này mà còn phải nắm chắc binh pháp của thần MOON.V N http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. - Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét : Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Lời ghi chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm ! 2.4. Kết; Nổi bật trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là nhân vật chính diện luôn được nhà văn chú ý mô tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu như trước cách mạng tháng Tám 1945, theo Nguyễn Tuân, cái tài hoa chỉ có ở lớp nhà nho trong quá khứ thì nay, trong Người lái đò sông Đà và nhiều tác phẩm khác, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống hàng ngày của người dân lao động, trong hiện tại của đất nước. Cuộc đời của người lái đò vô danh, không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động. MOON.V N http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ - NGUYỄN TUÂN (tiết 3) Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân là ta đang đến với một tâm hồn vô cùng phong phú, với những phát hiện hết sức tinh tế, độc đáo về quê hương. Chỉ có N.T mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì tên TQ của SĐ lại là Bả Biên Giang, từ biên giới Việt Trung tới ngã ba Trung Hà (chỗ sông Đà chan hòa vào sông Hồng) là 500 cây số lượn rồng rắn, và tính toàn thân sông Đà thì chiều dài là 883 nghìn thước mét chảy qua hai nước VN và TQ. Cũng chưa có nhà văn nào trước N.T có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng ba câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay ngang qua miền sông ấy. SĐ như áng tóc mun dài ngàn vạn vạn sải...như một con cá bị chúa đất từng vùng cắt ngang ra thành từng khúc nhỏ. Con sông đã ác như người dì ghẻ, chúa đất chia bến ngăn sông lại càng làm cho sông Đà ác thêm, đế quốc đóng đồn bốt ven sông, tính dữ ác của con sông càng tăng lên mấy lần... TIẾT 3 Đề 1: Đọc hiểu. Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi: …Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. (Trích Tuỳ bút Sông Đà-Nguyễn Tuân) 1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính? 2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ? 3. Trong đoạn văn trên, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều biện pháp tu từ về từ. Xác định biểu hiện các phép tu từ đó và nêu tác dụng của hình thức nghệ thuật này là gì ? 4. Đoạn văn bản trên Nguyễn Tuân đã sử dụng tổng hợp tri thức của những ngành nào ? Hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng đó là gì ? Trả lời: 1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức miêu tả là chính. 2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là : tả về thác nước và đá ở sông Đà (hay còn gọi là thạch thuỷ trận) 3. Trong đoạn văn trên, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều biện pháp tu từ về từ. Đó là : - So sánh: thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo... - Nhân hoá: oán trách , van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.., rống lên , mai phục ,nhổm cả dậy ,ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó … Tác dụng của hình thức nghệ thuật này là: gợi hình ảnh con sông Đà hùng vĩ, dữ dội. Không còn là con sông bình thường, Sông Đà như có linh hồn, đầy tâm địa, nham hiểm. Qua đó, ta thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. 4. Đoạn văn bản trên Nguyễn Tuân đã sử dụng tổng hợp tri thức của nhiều ngành . Cụ thể : MOON.V N http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI - Âm nhạc : tả âm thanh tiếng thác : nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên… - Hội hoạ : vẽ bộ mặt của Đá : nhăn nhúm méo mó - Quân sự: mai phục. Hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng đó là: thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân khi tả dòng sông Đà. Con sông được nhìn ở nhiều góc độ, trở nên sống động, mạnh mẽ, ấn tượng, thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu đậm của nhà văn. Đề 2: Anh hoặc chị hãy phân tích nhân vật người lái đò trong trích đoạn tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân. So sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù) để thấy chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. 1. Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà 1.1. Vài nét về hình ảnh con sông Đà: Sông Đà hiện lên thật hung dữ nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình là cái nền để người lái đò xuất hiện.. 1.2. Nhân vật người lái đò sông Đà: a. Ông lái đò có ngoại hình và những tố chất khá đặc biệt b. Ông lái đò là người tài trí, luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ: c. Ông lái đò rất mực dũng cảm trong những chuyến vượt thác đầy nguy hiểm: d. Ông lái đò là một hình tượng đẹp về người lao động mới. Qua hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày. Ông lái đò chính là một người anh hùng như thế. 2. So sánh với nhân vật Huấn Cao 2.1. Nhân vật Huấn Cao a. Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng. b. Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”. c. Hình tượng ông Huấn Cao là hình tượng điển hình cho vẻ đẹp “vang bóng một thời” nay đã lùi vào quá khứ chỉ còn dư âm trong tâm trạng của những tấm lòng tích cổ thương kim (Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ- Vũ Đình Liên) 2.2. Từ việc tìm hiểu vài nét về vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao, chúng ta sẽ dễ thấy được chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám. a- Nét chung (tính thống nhất) - Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. - Vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện. - Vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Các phép tu từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện. b- Nét riêng (tính khác biệt) - Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau Cách mạng tháng Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân. - Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi “ngông”, mắc bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái Đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Nhưng không còn là một Nguyễn Tuân “nghệ thuật vị nghệ thuật” nữa. Ông đã nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nẩy nở sinh sôi, đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới. Đề 3: Cảm nhận của anh chị về dấu ấn cái tôi Nguyễn Tuân trong “Người lái đò Sông Đà”. I/ Më bµi Ng-êi l¸i ®ß S«ng §µ ®-îc trÝch tõ tËp Tuú bót S«ng §µ (1960), tËp Tuú bót nµy kh«ng nh÷ng lµ thµnh c«ng nghÖ thuËt xuÊt s¾c cña NguyÔn Tu©n sau C¸ch m¹ng mµ cßn lµ thµnh tùu nghÖ thuËt tiªu MOON.V N http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI biÓu cña thÓ tµi tuú bót trong v¨n häc ViÖt Nam hiÖn ®¹i.Qua tuú bót S«ng §µ ng-êi ®äc thÊy ngêi lªn vÎ ®Ñp cña thiªn nhiªn vµ vÎ ®Ñp cña con ng-êi ViÖt Nam. Thiªn nhiªn T©y b¾c võa hïng vÜ d÷ déi võa mü lÖ th¬ méng nh- con ng-êi ViÖt Nam, võa cÇn cï th«ng minh dòng c¶m võa rÊt mùc tµi hoa. §äc Ng-êi l¸i ®ß S«ng §µ chóng ta thÊy cã hai h×nh t-îng nghÖ thuËt xuyªn suèt bµi tuú bót lµ h×nh t-îng ng-êi l¸i ®ß vµ con s«ng §µ. Nhưng hình tượng cái tôi của nhà văn cũng là một trong nh÷ng nÐt ®Æc s¾c thể hiện rõ nhất phong c¸ch nghÖ thuËt cña NguyÔn Tu©n. II/ Thân bài 1. Trước hết, đó là cái tôi của một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. 2. Nổi bật nhất trong thiên tuỳ bút là hình bóng của một cái tôi có ý thức cá nhân phát triển rất cao. 3. Phong c¸ch nghÖ thuËt cña NguyÔn Tu©n cßn ë phong c¸ch tµi hoa uyªn b¸c. Sù Tµi hoa khiÕn phong c¸ch NguyÔn Tu©n ph¶i nãng rÉy sù sèng, nã ph¶i næi h×nh, næi ©m thanh, næi c¶m gi¸c. NguyÔn Tu©n ®óng lµ ng-êi nghÖ sÜ cña ng«n tõ víi nh÷ng s¸ng t¹o tõ míi l¹ ®éc ®¸o mµ chÝnh x¸c tinh tÕ. Khi t¸c gi¶ viÕt “s«ng §µ tu«n dµi tu«n dµi nh- ¸ng tãc tr÷ t×nh” khi ch÷ ¸ng th-êng nãi vÒ t¸c phÈm hay hay t¸c phÈm ®Ñp biÕn s«ng §µ thµnh mét t¸c phÈm tuyÖt mü mµ thiªn nhiªn ban tÆng cho con ng-êi. ¤ng l¸i ®ß ®-îc miªu t¶ khi bÞ th-¬ng nÐn chÞu nçi ®au, NguyÔn Tu©n dïng ba ch÷ mÆt mÐo bÖch chø kh«ng ph¶i lµ mÆt mÐo xÖch, nÕu lµ mÆt mÐo xÖch lµ diÔn t¶ nçi ®au lµm biÕn d¹ng khu«n mÆt, cßn mÐo bÖch th× kh«ng nh÷ng lµm biÕn d¹ng khu«n mÆt mµ cßn nhît nh¹t. Khu«n mÆt lµ mÐo bÖch qua n«Ü ®au míi cµng kh¾c ho¹ vµ lµm næi bËt lªn nghÞ lùc cña lßng qu¶ c¶m cña «ng l¸i ®ß. Hai ch÷ “Æc Æc”gîi t¶ hót n-íc s«ng §µ lµ hai ch÷ rÊt thÇn t×nh “ n-íc Æc Æc lªn nh- võa rãt dÇu s«i vµo ” hai ch÷ Æc Æc miªu t¶ rÊt tµi thø ©m thanh qu¸i vËt khiÕn s«ng §µ nh- lµ thø thñy qu¸i bÞ bãp cæ ®ang qu»n qu¹i. H×nh ¶nh trong v¨n NguyÔn Tu©n ®-îc x©y dùng trªn nh÷ng liªn t-ëng bÊt ngê ®éc ®¸o. - Phong c¸ch nghÖ thuËt NguyÔn Tu©n cßn lµ phong c¸ch nghÖ thuËt uyªn b¸c. Nhµ v¨n lao ®éng c«ng phu nghiªm tóc trong nghÖ thuËt. Tr-íc khi viÕt NguyÔn Tu©n t×m hiÓu s©u s¾c ®èi t-îng víi sù hiÓu biÕt t-êng tËn. §Ó viÕt t¸c phÈm Ng-êi l¸i ®ß s«ng §µ, NguyÔn Tu©n ®i tõ thùc ®Þa nhiÒu lÇn «ng ®Õn víi s«ng §µ vµo mïa xu©n ®Ó thÊy c¶nh n-íc xanh mµu ngäc bÝch, ®Õn th¨m c¶nh vµo mïa thu ®Ó thÊy c¶nh n-íc s«ng §µ lõ lõ chÝn ®á. Nhµ v¨n cã khi ®i b»ng thuyÒn cã khi l¹i ngåi trªn m¸y bay ®Ó cã c¸i c¶m gi¸c dßng s«ng §µ nh- chiÕc d©y thõng lo»ng ngo»ng d-íi c¸nh m¸y bay. NguyÔn Tu©n cßn ®äc trong s¸ch vë, th- tÞch cæ. §äc c¶ D- ®Þa chÝ cña NguyÔn Trãi tr-íc khi ®Æt bót viÕt vÒ s«ng §µ. Nhµ v¨n huy ®éng nhiÒu tri thøc nhiÒu ngµnh nghÒ v¨n häc nghÖ thuËt kh¸c nhau ®Ó t×m hiÓu, ph¶n ¸nh ®èi t-îng. Miªu t¶ s«ng §µ t¸c gi¶ vËn dông nh÷ng hiÓu biÕt vÒ ®Þa lý, lÞch sö ng«n ng÷ v¨n häc. Víi hiÓu biÕt vÒ ®Þa lý nhµ v¨n cã thÓ nãi t-êng tËn s«ng §µ b¾t nguån tõ ®©u, ®Õn ®o¹n nµo th× nhËp quèc tÞch ViÖt Nam. Tr-íc NguyÔn Tu©n ch-a cã nhµ v¨n nµo cã thÓ kÓ ra vanh v¸ch 50 trong tæng sè 73 con th¸c d÷. S«ng §µ ®• bao lÇn ®æi tªn qua c¸c triÒu ®¹i, ®• tõng cã nh÷ng chiÕn c«ng nµo trong qu¸ khø vµ trong cuéc kh¸ng chiÕn chèng Ph¸p ®• bÞ bän thùc d©n ®æi tªn vµ gäi b»ng c¸i tªn T©y lÕu l¸o. Víi nh÷ng tri thøc vÒ ng«n ng÷ v¨n häc, NguyÔn Tu©n ®• b¸c bá luËn ®iÖu cña bän thùc d©n cho r»ng ch÷ §µ lµ ®en nªn gäi lµ s«ng §µ lµ s«ng §en. Nhµ v¨n nªu râ chÝnh bän thùc d©n ®• ®Ì ngöa con s«ng råi ®æ mùc T©y lªn ®ã ®Ó ghi bõa lªn b¶n ®å s«ng §µ lµ s«ng §en. Thùc ra n-íc s«ng §µ mang vÎ ®Ñp huyÒn diÖu kh«ng lê lê nh- mét mµu canh hÕn nh- n-íc s«ng G©m, s«ng L« vµ mét sè s«ng kh¸c. Miªu t¶ cuéc v-ît th¸c nh- mét cuéc thuû chiÕn nhµ v¨n sö dông nh÷ng tri thøc cña qu©n sù vâ thuËt. Xem c¶nh «ng ®ß ph¸ vßng v©y th¹ch trËn cña §µ giang ng-êi ®äc ®-îc xem binh ph¸p T«n Tö. Nhµ v¨n sö dông nhiÒu tõ ng÷ cña qu©n sù vâ thuËt rÊt chÝnh x¸c vµ tinh tÕ: Cöa sinh, cöa tö, ®¸nh óp, ®¸nh vu håi, ®¸nh gi¸p l¸ cµ, ®¸nh tóm th¾t l-ng, ®ßn ©m ®ßn tØa ... cã thÓ nãi nhµ v¨n tung ra mét lùc l-îng ng«n tõ hïng hËu tõ kho nhµ vâ, mang vÒ vèc mét c¸ch hµo phãng. §Ó g©y nh÷ng Ên t-îng m¹nh vÒ hót n-íc cña s«ng §µ... T¸c phÈm cña NguyÔn Tu©n kh«ng nh÷ng cã gi¸ trÞ v¨n häc mµ cßn cã gi¸ trÞ v¨n ho¸. §äc t¸c phÈm cña NguyÔn Tu©n kh«ng nh÷ng ®-îc th-ëng thøc ¸ng v¨n hay mµ cßn ®-îc më réng n©ng cao hiÓu biÕt vÒ nhiÒu ngµnh v¨n ho¸, nghÖ thuËt khoa häc kh¸c nhau. §äc Ng-êi l¸i ®ß S«ng §µ ta ®©u chØ ®-îc th-ëng thøc mét thiªn tïy bót hay mµ cßn ®-îc më réng n©ng cao hiÓu biÕt vÒ lÞch sö, ®Þa lý MOON.V N http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI v¨n ch-¬ng phong tôc tËp qu¸n...liªn quan tíi dßng s«ng. Cã nh÷ng ng-êi kh¾c ho¹ phong c¸ch nghÖ thuËt cña NguyÔn Tu©n b»ng mét ch÷ “Ng«ng”. Ng«ng cã ë nh÷ng con ng-êi kh¸c ®êi, phong c¸ch NguyÔn Tu©n lµ phong c¸ch nghÖ thuËt ®éc ®¸o cña mét c©y bót tµi hoa. ChÝnh ®iÒu nµy chi phèi nh÷ng biÓu hiÖn kh¸c trong phong c¸ch nghÖ thuËt NguyÔn Tu©n. Là một nghệ sĩ có chủ trương để lại dấu ấn độc đáo của cá nhân trong văn chương, Nguyễn Tuân đã để lại dấu ấn không thể trộn lẫn của riêng mình trong rất nhiều thể loại, nhưng tùy bút là nơi thể hiện rõ nhất hình tượng cái tôi Nguyễn Tuân bởi thể văn này cho phép người viết tự do bày tỏ tâm hồn mình. “Phong cách, ấy là người” với phong cách văn học và đặc điểm con người gần như trùng khít. Đây quả là hiện tượng đặc biệt trong văn học Việt Nam. 4. Một cái tôi linh hoạt, năng động, vừa giữ vai trò người trần thuật trực tiếp, vừa mạnh dạn phơi trải cảm xúc, không chỉ thu nạp cuộc sống mà lắng lọc nó qua tâm hồn mình, nối liền thế giới bên ngoài với thế giới bên trong tạo nên những trang văn đặc sắc. III/ KÕt luËn: - Sức hấp dẫn của tùy bút xét đến cùng là sự hấp dẫn của cái tôi- người cầm bút. - Qua đây, người đọc có thể thấy chân dung của một cái tôi tài hoa, uyên bác mà mỗi con chữ kh«ng chØ lµ l©u ®µi ch÷ nghÜa mµ cßn lµ bÓ th¼m t©m hån, ®ã lµ tÊm lßng cña nhµ v¨n ®èi víi ®Êt n-íc, con ng-êi. ChÝnh tÊm lßng yªu con ng-êi, yªu ®Êt n-íc gãp phÇn lµm nªn nh÷ng trang v¨n thËt tµi hoa cña NguyÔn Tu©n: “Nãi chuyÖn víi ng-êi l¸i ®ß s«ng §µ nh- cµng lai l¸ng thªm c¸i lßng muèn ®Ò th¬ vµo s«ng n-íc". (Lêi t¸c gi¶). MOON.V N http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI AI Đà ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG - HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (tiết 2) Mở: Không cuồn cuộn tuôn về biển Đông như dòng sông Bạch Đằng, không hùng vĩ tạo khúc hát hùng ca như sông Đà hay đẹp một cách xót xa kì ảo như dòng sông Đuống trôi nghiêng trong thơ Hoàng Cầm, sông Hương bao đời vẫn mang vẻ mê hoặc quyến rũ riêng khiến có người gắn bó cả đời với Huế vẫn phải thảng thốt: Ai đã đặt tên cho dòng sông? Giờ học này, mời các em hãy cùng đến với bài bút kí nổi tiếng Ai đã đặt tên cho dòng sông? để cảm nhận vẻ đẹp đa dạng của sông Hương trong tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi chung tình với quê hương xứ sở. I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả - Sinh 9/9/1937 tại thành phố Huế, học trung học và đại học ở Huế, nhiều năm sống và hoạt động cách mạng, công tác tại Huế, gắn bó với đất và người nơi đây, am hiểu sâu sắc cội nguồn và linh hồn văn hóa xứ sở. Là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Ông có làm thơ, viết nhàn đàm (bàn chuyện thế sự hàng ngày), nhưng sở trường vẫn là bút kí, tùy bút. “Trong bút kí, HPNT phát hiện ra nhiều giá trị nghệ thuật mới mẻ, đẹp đến nao lòng, nhân ái ngập tràn từng trang viết”…giống như những vỉa than đá “Than đá là quá khứ của trái đất, nhưng than đá không bao giờ cũ, nó bị dồn nén cồn cào trong lòng đất và luôn đòi bốc cháy” (Ngô Minh). - Phong cách nghệ thuật: Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều trên nền tảng hiểu biết sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử… Hành văn: hướng nội (hướng vào bên trong, vào thế giới nội tâm nhiều trăn trở, thâm trầm, sâu lắng), súc tích, mê đắm, tài hoa. 2. Tác phẩm 2.1. Xuất xứ - Viết tại Huế, 1/ 1981, rút từ tập ký cùng tên (gồm 8 bài viết về nhiều đề tài. Có bài đậm chất sử thi ngợi ca đất nước và con người Việt Nam như Rừng hồi, Ai đã về châu xưa, Đời rừng, Đứa con phù sa, Cồn Cỏ ngày thường; có những bài thiên về miêu tả thiên nhiên, qua đó bộc lộ lòng gắn bó với quê hương đất nước, đặc biệt là những bài kí viết về thiên nhiên và con người Huế: Hoa trái quanh tôi, Về cây Panhxô và khẩu súng của Trường, Ai đã đặt tên cho dòng sông...), XB năm 1984. - Lấy Ai đã đặt tên cho dòng sông làm nhan đề cho tập bút kí, là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn. - Là bút kí dài, có nhân vật, có lời thoại, gồm có ba phần: Phần một nói về cảnh quan thiên nhiên của sông Hương. Phần hai và ba là phương diện lịch sử và văn hóa của sông Hương. - Đoạn trích này nằm ở phần một, có lược bỏ một số đoạn. Phần văn bản của đoạn trích thiên về tùy bút, với “nhịp điệu hết sức chậm rãi...nghiêng hẳn về chất thơ thi vị ngọt ngào” (Trần Đình Sử, Lí luận và phê bình văn học, NXB Hội Nhà văn, H, 1996, tr 254) . - Thuộc phần một, nhưng đoạn trích không chỉ đề cập tới cảnh quan thiên nhiên sông Hương xứ Huế mà còn thấy được sự gắn bó với lịch sử và văn hóa của cố đô Huế. Nó tiêu biểu cho văn phong của Hoàng Phủ Ngọc Tường. 2.2. Bố cục: Đoạn 1 (từ đầu - dưới chân núi Kim Phụng): Sông Hương nhìn từ nguồn cội. - Đoạn 2 (tiếp – quê hương xứ sở): Sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế. - Đoạn 3 (còn lại): Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, với cuộc đời và thi ca.. 2.3. Thể loại - Tính xác thực là đặc trưng cơ bản của Kí. Kí cũng có thể hư cấu, nhưng liều lượng giới hạn và không thể xa rời thực tiễn. Là thể loại in đậm dấu ấn hình tượng tác giả, ngôn từ trong kí chủ yếu là ngôn ngữ trực tiếp của tác giả. Nhà văn kể, phân tích, luận giải, đánh giá những sự việc. Là thể loại nhanh nhạy, kí phản ánh kịp thời những vấn đề sôi bỏng của đời sống, ngôn ngữ gần với cuộc sống đời thường. MOON.V N http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI + Kí có nhiều tiểu loại: kí sự, bút kí, phóng sự, nhật kí, hồi kí, tùy bút...Bút kí là thể loại ghi chép các sự kiện, qua đó ghi lại những cảm xúc suy nghĩ của tác giả. Tùy bút là một thể loại của kí, nhưng đó là thể giàu chất trữ tình nhất, khá tự do trong quá trình sáng tạo. Ngôn ngữ trong tùy bút giàu hình ảnh, giàu chất thơ...Trong thành tựu của kí không thể không khắc đến Nguyễn Tuân, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, HPNT.... - Đặc điểm cơ bản của kí Hoàng Phủ Ngọc Tường: + Kí HPNT bộc lộ một trí tuệ sắc sảo uyên bác. + Kí HPNT thiên về tùy bút. Thể loại chuyên ghi chép các sự việc xác thực qua ngòi bút HPNT lại thấm đẫm chất trí tuệ, nặng trĩu nỗi trầm tư. + Kí HPNT thường có tính chất tự do tản mạn. Cách tổ chức văn bản thường mang tính nghệ thuật cao, văn phong giàu chất thơ, hình ảnh gợi cảm. + Nguồn mạch xuyên suốt các tác phẩm kí HPNT là lòng yêu quê hương đất nước, là tâm huyết với tinh hoa dân tộc. II. Đọc hiểu văn bản “Quê hương ai cũng có một dòng sông”, nên dòng sông luôn là một hình ảnh biểu tuợng cho quê hương. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, sông Hương chính là Huế. Dòng sông “vừa là một cảnh quan thiên nhiên, vừa là một thành phần của văn hóa phi vật thể của cố đô Huế”; và là “tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”. 1. Hình tượng sông Hương trong vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên 1.1. Vẻ đẹp sông Hương nhìn từ nguồn cội + Nhìn từ cội nguồn: có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn: như một “bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu trầm bổng.- Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn- hùng tráng.- Mãnh liệt vượt qua ghềnh thác- ào ạt.- Cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực sâu- dữ dội. - Dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng- nên thơ, tình tứ, mê đắm. + Biện pháp nhân hoá: Sông Hương như “cô gái Di - gan phóng khoáng và man dại”, với “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Vẻ đẹp nữ tính, vừa dịu dàng vừa mãnh liệt hoang sơ. Không chỉ ngắm nghía “khuôn mặt kinh thành”, nhà văn còn khơi về nguồn cội để khám phá vẻ đẹp tâm hồn thăm thẳm mà chính dòng sông cũng không muốn bộc lộ. Hé mở một phát hiện mới của tác giả về vẻ đẹp của Sông Hương: Người ta hay nghe tới sông Hương gắn với Huế “dịu dàng pha lẫn trầm tư”, êm đềm, trong trẻo nay lại biết tới phần dữ dội, mê hoặc, khó cưỡng của dòng sông. 1.2. Sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế + Quan hệ giữa sông Hương và có đô: “người tình mong đợi”- hành trình về cố đô được hình dung như “một cuộc tìm kiếm có ý thức” một người tình trong mộng của người con gái. + Hành trình về xuôi tìm “người tình mong đợi” - Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại: là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”- gợi nhớ truyện cổ tích “Công chúa ngủ trong rừng”- vẻ đẹp lãng mạn của câu chuyện cổ. - Khi ra khỏi vùng núi: “chuyển dòng liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột’, “vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, vượt qua, đi giữa âm vang, trôi di giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột”- linh hoạt, rạo rực sức trẻ và sự khao khát. - Qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo: “mềm như tấm lụa” - Qua những dãy đồi tây nam thành phố: ánh lên “những mảng phản quang nhiều màu sắc”; “ sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” - Qua lăng tẩm đền đài: “vẻ đẹp trầm mặc…như triết lí, như cổ thi”- so sánh độc đáo, giàu sức gợi- tả mặt nước phẳng lặng và không gian bờ bãi u tịnh bằng liên tưởng tới triết học, thơ cổ - nổi bật vẻ thâm nghiêm, bao nhiêu thăng trầm lịch sử, bao nhiêu dời đổi của các triều đại đã tạo thành trầm tích văn hóa lặn vào vẻ đẹp ngàn năm của dòng nước, thấp thoáng hình ảnh một “cái tôi” giàu suy tư. - Khi gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ: tươi tắn và trẻ trung Nhận xét: • Sông Hương chảy qua nhiều địa danh khác nhau, mỗi địa danh mà chỉ nhắc thôi ngưòi ta đã thấy bao tầng sâu văn hiến, nhiều dáng vẻ Sông Hương được khám phá ở nhiều góc nhìn. • Diện mạo: vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng. MOON.V N http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI • Bút pháp: kể và tả, sự liệt kê được thơ hoá bằng thụ cảm tài hoa, tinh tế. + Sông Hương khi chảy vào thành phố: - Giữa những biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long: Vui tươi hẳn lên, đó là tâm trạng của một người đi xa “tìm đúng đường về”, nao nức bồi hồi giữa bờ bãi thân thuộc của quê hương. - Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên: uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến, làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Một so sánh lạ, dùng tiếng “vâng” vốn trừu tượng, e ấp, ngập ngừng, ý vị, thiêng liêng trên bờ môi cô gái đang yêu để tả hình dáng mềm mại nơi cánh cung của dòng sông, thể hiện cái nhìn tình tứ, thống nhất, đem lại cho người đọc những khoái cảm thẩm mĩ độc đáo. - Liên tưởng và suy tư của nghệ sĩ: • So sánh sông Hương với sông Xen của Paris, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, những tên sông đã trở thành linh hồn của thủ đô các nước, thành biểu tượng văn hóa của quốc gia, ngầm thể hiện lòng tự hào về sông Hương và kinh thành Huế. (Liên hệ với Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo”: đặt các triều đại Việt Nam sánh ngang với các triều đại Trung Hoa) • Liên tưởng khi từ khói lửa miền Nam tới Lê –nin-grát, đứng nhìn sông Nê-va, lâu năm xa Huế: Sống dậy giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại: muốn hóa làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo… Hai nghìn năm trước: triết gia Hi Lạp “khóc suốt đời vì dòng sông trôi đi quá nhanh”. Nhớ lại con sông Hương: “quý điệu chảy lững lờ của nó khi đi ngang thành phố”, điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Khám phá vả cảm nhận sâu sắc đặc trưng riêng của dòng sông khi chảy qua kinh thành Huế: điệu chảy êm đềm, chậm mềm, lặng lẽ, như không vương vấn chút nào cái xô bồ của thời gian, sự nuối tiếc của con người vì mọi thứ một đi không trở lại. Sông Hương nguyên sơ, trăm năm không đổi thay, như mang thần thái, quan niệm vũ trụ tuần hoàn của Phương Đông, như điệu chảy thời gian bất di bất dịch trong thơ ca cổ điển Việt Nam và Trung Hoa. Sông Hương mang cảm nghiệm thời gian và niềm tự hào của nhà thơ. - Sông Hương “trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước”: người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya liên tưởng: • Nền âm nhạc cổ điển Huế: “được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Sông Hương gắn với lịch sử âm nhạc lâu đời của Huế, là cái nôi hình thành nền âm nhạc truyền thống, gợi nhắc đến sông Nile, sông Hằng, Hoàng Hà – cũng là những cái nôi hình thành những nền văn hóa lớn trên thế giới, nhà văn cảm nhận dòng sông ở góc độ văn hóa. • Nguyễn Du và Truyện Kiều là linh hồn, niềm tự hào của quốc văn Việt Nam. Dòng sông mang những thổn thức của cha ông, gắn bó với các giá trị văn hóa, văn học kinh điển của dân tộc, là dòng chảy vắt từ quá khứ, mang bao phù sa, trầm tích văn hóa hiện diện trong ngày hôm nay. + Nỗi lưu luyến khi rời khỏi kinh thành: - Rời khỏi kinh thành, chếch về hướng chính bắc. - Sực nhớ điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng để gặp lại thành phố lần cuối - Liên tưởng: Rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây, nỗi vương vấn, chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. • So sánh: sông Hương, kinh thành Huế - nàng Kiều, Kim Trọng với Tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở. Có ba so sánh bắc cầu: sông Hương trong khúc ngoặt chia tay kinh thành Huế - Thúy Kiều trong đêm tình tự gửi lời nguyện thề cùng Kim Trọng – người Châu Hóa mãi thủy chung với xóm làng. Từ dòng chảy khác lạ của dòng sông liên tưởng tới mối tình kín đáo, e ấp, trước sau như nhất của Kim – Kiều, so sánh với tình yêu quê hương xứ sở của người Huế. Nhà văn đã mượn tình cảm riêng để khái quát mối tình chung, làm cho tình yêu đất, yêu nước không chung chung, to tát mà mềm mại, ý vị; tinh tế mà đằm thắm, thiêng liêng, sâu sắc. 1.3. Tiểu kết - Không chỉ là hình ảnh dòng chảy lắng hồn thiêng xứ sở, dòng sông còn mang nhiều biểu tượng khác. Dòng sông là biểu tượng cho lẽ vô thường, biểu hiện cho sự biến dịch của tự nhiên, dòng sông luôn biến dịch không ngừng theo thời gian, không chỉ theo mùa mà còn trong từng khoảnh khắc của một ngày, “Sông Hương rất nhạy cảm với ánh sáng, nó thay màu nhiều lần trong một ngày như MOON.V N http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI hoa phù dung và đôi khi màu nước không biết từ đâu mà có, không giống với màu trời. Đó là một nét động trong cái tĩnh của thành phố...” (Sử thi buồn). Là biểu tượng cho lẽ vô thường, nên dòng sông cũng đồng thời là biểu tượng cho đời người. Người Trung Hoa cũng cho rằng 64 quẻ trong Kinh dịch, quẻ kí tế (đã qua sông) lại ở trước quẻ vị tế (chưa qua sông) mang một ý nghĩa thật sâu xa về cuộc đời, nói lên cuộc hành hương vô tận của con người trong thời gian, vũ trụ. Đúng là trong mỗi con người cũng có những dòng sông, là “những dòng máu, vận hành trong lẽ tuần hoàn của vũ trụ và chuyên chở biết bao điều huyền nhiệm của cuộc sống”. Ngược lại, mỗi dòng sông cũng gói trong lòng nó biết bao thân phận đời người. Tiếp nhận sông Hương từ phương diện triết học, Hoàng Phủ Ngọc Tường cho ta thấy rõ hơn sự ám ảnh về nỗi bất lực của kiếp người hữu hạn trước dòng trôi vô thủy vô chung của thời gian. Nhìn dòng Hương trôi chảy, ông nhớ đến xưa kia: “Có một người Hi Lạp tên là Hêraclit đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh!”. Thời gian với những quy luật nghiệt ngã của mất - còn luôn là nỗi trăn trở của loài người. Sông đây đã chảy, đang chảy và vẫn sẽ luôn chảy nhưng bờ sông bồi lở, vật đổi sao dời, đời dâu bể và cái gì còn, cái gì mất? Đọc tác phẩm Thiên văn của Nguyễn Huy Thiệp, ta cũng thấy bi kịch đau đớn này: Này nhé: này là dòng sông/ Định mệnh cứ cuồn cuộn chảy/ Bồi và lở. Thấu hiểu hơn ai hết, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhập thế, sống hết mình, hòa cái tôi của mình vào dòng chảy cuộc sống để nâng niu trân trọng những giá trị đang hiện hữu. Mà có lẽ cũng vì thế, ông mới yêu quý tha thiết “điệu chảy lặng lờ” như “điệu slow tình cảm” của sông Hương khi nó ngang qua thành phố... MOON.V N http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI AI Đà ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG - HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (tiết 2) Mở: Với HPNT, viết ký là viết tiếp trang văn của sự sống, là trái tim còn đập và cuộc đời còn niềm vui, viết bằng tất cả huyết lệ của một đời và bằng trái tim ấp ủ thắm đỏ tình yêu con người, yêu Tổ quốc… TIẾT 2 2. Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử, với cuộc đời và thi ca 2.1. Trong mối quan hệ với lịch sử - Điểm lại dấu ấn dòng sông trong lịch sử dân tộc: thế kỉ XV ở “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, thế kỉ XVIII qua chiến thắng của anh hùng Nguyễn Huệ, thế kỉ XIX với máu của các cuộc khởi nghĩa, đi vào thời đại của cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển. Sông Hương đã tham gia, trải nghiệm cùng những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc. - Khái quát: Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở vè với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Nếu như ở đoạn 1 và 2, sông Hương được cảm nhận chủ yếu trên bề rộng của không gian địa lí với những liên tưởng độc đáo thì ở đoạn này, sông Hương được bố cục theo chiều sâu của lịch sử. Nó ghi dấu những chiến công, lặng khóc cho những hi sinh âm thầm, vùng lên quật khởi… giống như một tấm gương soi vào lịch sử. Sông Hương như biết bao chiến sĩ vô danh trên dải đất này. Sinh ra không phải cầm súng cầm mác nhưng kẻ thù buộc ta phải đấu tranh. Khi bình yên, họ lại trở về với cuộc sống bình thường, trở về bản tính tự nhiên muôn thuở, như sông Hương “làm một người con gái dịu dàng của đất nước”. 2.2. Trong mối quan hệ với thi ca - Có một dòng sông thi ca về sông Hương mà nước luôn đổi màu (thơ Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà huyện Thanh Quan, Tố Hữu).- Nhà thơ hỏi với trời, với đất: Ai đã đặt tên cho dòng sông? Đối tượng hỏi: đất, trời. Nội dung hỏi: ai đã đặt tên cho dòng sông? câu hỏi dường như không thể có một lời đáp cụ thể. Mục đích: Không phải để hỏi nguồn gốc của một danh xưng địa lý thông thường mà là một sự nhấn mạnh, ẩn chứa niềm tự hào sâu sắc về dòng sông quê hương, gợi mở cho người đọc những hướng trả lời khác nhau bằng trải nghỉệm văn hóa của bản thân. Tên riêng của một dòng sông có thể do một cá nhân nào đó đặt ra, qua năm tháng, danh xưng của tác giả bị mai một, nó trở thành tài sản chung của cộng đồng. Tuy nhiên, cái tên đích thực của dòng sông phải là danh từ gắn với biểu tượng văn hóa, tinh thần, chiều sâu lịch sử của một dân tộc. Ở khía cạnh này, chính những người dân bình thường – những người sáng tạo ra văn hóa, văn học, lịch sử là những người “đã đặt tên cho dòng sông” - Một vài đặc sắc nghệ thuật + Ngôn ngữ: phong phú, giàu hình ảnh, gợi cảm. + Hình ảnh: so sánh độc đáo bằng liên tưởng lãng mạn, đậm chất trữ tình. + Thủ pháp: nhân hóa. Sông Hương được cảm nhận như một sinh thể sống động, là người con gái dịu dàng đằm thắm với tất cả các cung bậc cảm xúc, thuận lợi để đan cài những suy tưởng về văn hóa, lịch sử, về truyền thống con người và đất nước Việt Nam. 3. Cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường: Uyên bác (kiến thức về lịch sử, địa lí, văn hóa…). Tinh tế, tài hoa (cảm nhận những khía cạnh khuất lấp của con sông: nét hoang dại…; ngôn so sánh độc đáo, ngôn từ phong phú gợi cảm…). Giàu trí tưởng tượng, lãng mạn, bay bổng (tưởng tượng hành trình tìm về cố đô như hành trình tìm về với “người tình mong đợi”…). Gắn bó máu thịt và tự hào với cảnh vật và con người Huế (những suy tưởng, đối sánh khi đứng trước sông Nê-va…). 3.1. Một cái tôi dạt dào cảm xúc - Đó là cái tôi người trí thức yêu nước vừa bước ra từ trong khói lửa chiến tranh nên có một tư thế tự do, tự tin và tự hào để mà nhìn vào mối quan hệ và dòng chảy MOON.V N http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI của lịch sử dân tộc để khẳng định sức sống, sức mạnh của nó. Đó cũng là cái tôi - một người nghệ sỹ giàu rung động và rất lãng mạn khi chọn cho mình một điểm nhìn thật đặc biệt về con sông. 3.2. Một cái tôi nghiêm túc cẩn trọng trong tìm kiếm và phát hiện + Kiến thức: phong phú và có chiều sâu. Nhà văn đã cung cấp cho bạn đọc một lượng thông tin đa dạng để hiểu sâu hơn về dòng sông Hương và thiên nhiên con người xứ Huế. Những kiến thức tổng hợp nhiều mặt về con sông Hương từ địa lý, lịch sử, văn hoá, văn chương và đời sống, tự nhiên và khảo cổ, cái hiện sinh và những gì thuộc về xa xưa. Ví dụ địa lý: chảy từ rừng già, giữa lòng Trường Sơn, êm đềm trong thành phố rồi chia tay Huế ở thị trần Bao Vinh...Về lịch sử các triều đại, về văn hóa âm nhạc, thi ca... Đọc bài viết có thể thấy công phu nghiên cứu, tìm hiểu của nhà văn thật đáng nể: vừa quan sát để thấy được từng nét diện mạo của con sông trong từng khoảng không gian cụ thể, vừa nghiên cứu để thấy mối liên hệ giữa đặc điểm địa lý với đặc điểm dòng chảy của con sông, vừa tìm hiểu con sông trong từng thời kỳ lịch sử, vừa thâm nhập thực tế để nhận biết một cách cụ thể những nếp sinh hoạt, những cách thức lao động, những hương vị riêng của cỏ cây, hoa trái, đất đai, vừa đọc tư liệu, sách vở để hình dung ra quá khứ một thời vang bóng trong những dấu tích còn lại của thành quách, đình đền. Trong khối lượng kiến thức được huy động, đáng kể nhất là kiến thức địa lý, lịch sử và văn hoá. Các mặt kiến thức này không tách rời nhau, không độc lập tồn tại mà hoà quyện, hỗ trợ nhau tạo thành một điểm tựa vững chắc cho ngòi bút nhà văn khi miêu tả con sông của xứ Huế. + Ý thức: Cả bài tuỳ bút là cuộc hành trình hào hứng và cẩn trọng, say sưa và rất nghiêm túc để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" Đây là câu hỏi ngỡ như bâng quơ của một nhà thơ nào đó khi đến với Huế song cũng là một câu hỏi đầy ngụ ý của chính Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hỏi như một cách để xác lập mối quan hệ giữa dòng sông với con người, giữa cái tên của dòng sông với cách nhìn, cách nghĩ và những cảm nhận của con người về nó. ý thức về điều này nên trong khi tìm hiểu về sông nhà văn cũng rất công phu tìm hiểu về cuộc sống và con người bên dòng sông ấy. Nghĩa là con sông đã được đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với con người. Trong mối liên hệ ấy, sông đã được soi ngắm từ nhiều góc độ, thời gian và không gian, văn hoá và lịch sử, sinh hoạt và phong tục, đời sống sinh hoạt và thế giới tinh thần…Và trong quá trình tìm hiểu "Ai đã đặt tên cho dòng sông?", Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ mình không chỉ là một cái tôi giàu hiểu biết, ham tìm hiểu mà còn là một cái tôi rất mực tinh tường và vô cùng sâu sắc trong những khám phá, tìm hiểu những chiều sâu văn hoá tinh thần, tâm hồn của sông Hương cũng là của con người xứ Huế. + Năng lực thâm nhập thực tế: Đọc bài tuỳ bút cũng rất dễ để thấy rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường rất hay đi…Song nhà văn lại cũng ý thức sâu sắc rằng “Nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành của nó, người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó”. Vì thế nhà văn đã thực hiện một cuộc hành trình theo suốt chiều dài của con sông từ nơi khởi nguồn giữa lòng Trường Sơn với rừng già, ghềnh thác, vực xoáy để rồi chuyển dòng liên tục mà hoà mình với cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại và bắt đầu hành trình tìm kiếm thành phố tương lai của nó. Và bởi cũng đã từng biết đến sông Xen của Pari, sông Đanuyp của Buđapet, sông Nêva của Nga mà Hoàng Phủ Ngọc Tường có thể nhận ra nét riêng của Sông Hương trong nhịp điệu, trong sắc thái văn hoá và trong quan hệ của nó với thành phố của mình. Trong những chuyến đi dọc sông Hương, chuyến đi về làng Thành Trung có một vai trò quan trọng đặc biệt bởi nó cho nhà văn không chỉ những thông tin, dấu vết về một khu thành cổ, một vùng đất chiến lược thuở xa xưa mà còn là một cơ hội để nhận rõ bản lĩnh Việt sâu sắc, một sức sống Việt thật mãnh liệt, một tâm hồn Việt thật giàu có phong phú, một khí đất thật hùng hậu và hương đất thật nồng nàn…+ Đi suốt dọc sông Hương để trải nghiệm bao nhiêu cảm xúc, cảm giác để hiểu thấu bao nhiêu giá trị, nhận ra bao nhiêu vẻ đẹp của địa lí và văn hoá, đời sống và lịch sử, cuối cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm được câu trả lời cho câu hỏi khắc khoải vẫn luôn vang vọng trong suốt bài tuỳ bút: “Con người đã đặt tên cho dòng sông như nhà thơ chọn bút hiệu cho mình, gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp văn hoá và lịch sử”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về sông Hương không chỉ bằng cảm nhận và hiểu biết về dòng sông mà còn bằng cảm nhận và hiểu biết về con người Huế để từ đó mà thấy một cách sâu sắc và thấm thía rằng, không chỉ đặc điểm địa lý mà quá trình MOON.V N http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI lịch sử cùng với diện mạo văn hoá do con người tạo nên đã hình thành cho sông Hương một diện mạo, dáng vẻ và cả một tâm hồn. 3.3. Một cái tôi tài hoa và vô cùng lãng mạn + Trí tưởng tượng mạnh mẽ và phong phú: nhà văn không thuần tuý chỉ ghi chép một cách chính xác khách quan mà còn biết tạo cho mình rất nhiều cơ hội để tưởng tượng: Viết về con sông lại bắt đầu từ việc đọc Kiều để cảm nhận văn chương hoà quyện với cảm nhận về con sông xứ Huế. Và phút nhận ra cuộc gặp gỡ giữa âm hưởng sâu thẳm của Huế với cảnh sắc thiên nhiên qua ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du trên mỗi trang Kiều cũng chính là lúc nhà văn tưởng tượng về mối quan hệ giữa sông Hương và thành phố của nó là mối quan hệ của một cặp tình nhân lý tưởng. Cũng trong trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn, sông Hương khi là một dòng nhạc đa âm sắc (bản trường ca rầm rộ của rừng già, điệu slow của tình cảm, bản đàn lúc đêm khuya với tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo), khi là một con người giàu nữ tính và có đủ sức mạnh để trưởng thành dần trong cuộc hành trình (cô gái Digan phóng khoáng và man dại giữa rừng Trường Sơn, người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở với sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ giữa chốn kinh thành, người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, người con gái biết nghe lời tổ quốc hiến đời mình, người con dịu dàng của đất nước…). Trong cuộc hành trình dù không ít những gian truân và cũng không hề ngắn ngủi ấy, phẩm chất nữ tính của sông Hương khiến nó luôn tự bộ lộ mình là một người con gái rất mực đa tình... + Vốn chữ nghĩa và sức sáng tạo: sự hoà quyện lý tưởng giữa chất nhạc, chất hoạ và chất thơ trong chữ nghĩa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. “Mùa thu tôi ngồi đọc Kiều dưới mái rêu phong của chiếc cổng vòm quay mái ra sông ăn trái hồng ngọt và thanh đến độ tưởng như mỗi miếng vừa ngậm vào nửa chừng đã tan ra thành dư vang của một tiếng chim”. Chỉ có ăn một trái hồng thôi mà thấy đủ cả hương vị, thanh sắc của đất trời, huống hồ là khi đối diện với với một con sông của một miền đất mà mình yêu mến, tự hào và gắn bó. Dường như có bao nhiêu góc nhìn, điểm nhìn về con sông thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được huy động để diễn tả cho thật riêng, thật sắc, thật tinh góc nhìn, điểm nhìn ấy: cần đặt con sông trong không gian địa lí thì nó là “một bản trường ca của rừng già …” Cần đặt con sông trong tổng thể những sắc màu văn hoá thì nó trở thành một “vang bóng trong thời gian hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều”, lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”, điệu chảy lặng lờ như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy. Cần đặt sông Hương trong dòng chảy lịch sử thì sông Hương lại là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử viết giữa màu cỏ lá xanh biếc ”, khi “tự biến đời mình thành một chiến công ”, khi lại trở về “làm một người con gái dịu dàng của đất nước ”. Đây không phải thứ chữ nghĩa mà ta quen gặp trong văn xuôi thông thường. Lối chữ nghĩa giàu hình ảnh và thấm đượm cảm xúc đó là kiểu chữ nghĩa thường chỉ thấy nhiều trong thi ca, nó khiến người đọc không chỉ tiếp nhận được những thông tin cần thiết mà còn có thêm hứng thú và nguồn mĩ cảm dồi dào. Chất thơ tỏa ra từ hình ảnh đẹp, gợi cảm, từ câu chữ lóng lánh huyên thoại, từ vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của tâm hồn con người, từ cách tác giả điểm xuyết ca dao, Kiều, thơ Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Tố Hữu...Chất thơ còn tỏa ra ở nhan đề bài kí... MOON.V N 3.4. Đánh giá: Với vốn cảm xúc, kho kiến thức dồi dào, trí tưởng tượng phong phú và sự trải nghiệm thực tế lại cộng thêm vốn chữ nghĩa rất đẹp, rất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thực sự mê hoặc được người đọc để hoàn toàn chủ động trong việc dẫn dắt chúng ta đi theo nhà văn để hào hứng thưởng thức vẻ đẹp của một dòng sông như một người con gái có nhan sắc, có tâm hồn, có sức sống và cũng đầy sức mạnh để đi hết cuộc hành trình, sống trọn vẹn đời sống và khẳng định mạnh mẽ bản lĩnh và lý tưởng của nó. III. Kết luận: Không biết tự bao giờ, sông Hương đã trở thành đối tượng thẩm mĩ khơi nguồn cảm hứng dạt dào cho các thế hệ thi nhân. Ta đã từng biết đến dòng sông êm trong thơ Tố Hữu, dòng sông trắng lá cây xanh trong thơ Tản Đà, con sông nửa thực nửa mơ trong thơ Nguyễn Trọng Tạo. http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan