Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Lớp 12 Tài liệu ôn thi thpt quốc gia môn ngữ văn 2016 cực hay (phần 4 - kịch - nghị luậ...

Tài liệu Tài liệu ôn thi thpt quốc gia môn ngữ văn 2016 cực hay (phần 4 - kịch - nghị luận - chính luận giai đoạn 1930 - 1945)

.PDF
37
149
67

Mô tả:

Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn 2016 cực hay (Phần 4 - Kịch - nghị luận - chính luận giai đoạn 1930 - 1945)
1 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA - HOÀI THANH (tiết 1) Lời vào bài: Có thể trước khi đến với bài học ngày hôm nay, cái tên Hoài Thanh đối với nhiều em đã rất quen thuộc. Học văn, có lẽ ai cũng có trong hành trang của mình những lời bình duyên dáng của ông. Ví như với câu thơ của Xuân Diệu: Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu Lả lả cành hoang, nắng trở chiều ông viết: “... cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Câu thơ chỉ mất đi một tí rõ ràng để được thêm rất nhiều thơ mộng...”. Khó có thể kể hết được những lời bình hay của Hoài Thanh mà chúng ta đã được thưởng thức trong hành trình đi tìm kiếm vẻ đẹp của văn chương. Trong khuôn khổ giờ học hôm nay, chúng ta cùng đến với một tiểu luận của ông. Từ đó, các em có thể hình dung phần nào diện mạo, dáng hình của nhà phê bình nổi tiếng này. Tiểu luận có nhan đề là: Một thời đại trong thi ca (Trích) Hoài Thanh Có những nhà văn đa tài, sáng tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhưng với Hoài Thanh, trước sau ông chỉ đi về trên một thể loại: phê bình văn học. Mà chức năng của văn phê bình là thẩm bình, đánh giá và lý giải về các hiện tượng văn học. Đặc điểm cơ bản nhất: là một dạng văn nghị luận, đối tượng là sản phẩm nghệ thuật. Do đó, văn phê bình vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật. Đọc – hiểu một tác phẩm phê bình, chúng ta phải rất chú ý đến đặc điểm này. I. Tìm hiểu chung 1) Tác giả (1909 -1982) - Hoài Thanh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại. Cả cuộc đời ông là chuỗi dài những cuộc tìm kiếm đầy thích thú, mê say cái hay và vẻ đẹp của văn chương. Như một nhà địa chất cần mẫn, yêu nghề, Hoài Thanh đã phát hiện được không ít vàng ngọc của thơ ẩn trong lớp cát bụi của thời gian hay trong các mạch chìm nổi của cuộc đời. - Sự nghiệp phê bình của ông khá đồ sộ, nhưng tiêu biểu nhất phải kể đến là công trình Tuyển tập đầu tiên về Thơ mới: cuốn Thi nhân Việt Nam (1942). Cho đến nay, công trình này vẫn khẳng định được tác động sâu rộng của nó với đời sống văn học. Từ trước tới nay, ít có công trình nghị luận văn chương nào được tái bản nhiều lần như vậy (Tính đến năm 2008, nó đã được in lại tới 34 lần). - Ông là người ý thức sâu sắc về công việc của nhà phê bình. Ông đã từng phát biểu:“Tìm cái đẹp trong tự nhiên là nghệ thuật. Tìm cái đẹp trong nghệ thuật là phê bình” và chọn cho mình lối phê bình “Lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. - Ông đã in dấu được phong cách riêng của mình trên từng trang viết. Đó là lối phê bình thiên về thưởng thức và ghi nhận ấn tượng, với giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế mà tài hoa, hóm hỉnh. Điều đó có lẽ được thể hiện đầy đủ và sinh động hơn cả trong “áng văn phê bình bất hủ” (Nguyễn Đăng Mạnh) mà chúng ta sẽ tìm hiểu ngay sau đây. 2) Đoạn trích a) Xuất xứ và vị trí MO O N.VN http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI - Bài tiểu luận thuộc phần đầu của tuyển thơ Thi nhân Việt Nam, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho độc giả đón nhận tuyển thơ này. - Đoạn trích thuộc phần cuối bài tiểu luận. Nó đã thâu tóm vấn đề cốt tuỷ nhất là Tinh thần thơ mới và kết tinh tất cả những tinh hoa của ngòi bút phê bình này. b) Nội dung và bố cục - Nội dung: Vấn đề “Tinh thần thơ mới”. - Bố cục: 2 phần + Phần 1: Nguyên tắc để xác định Tinh thần thơ mới + Phần 2: Thâu tóm Tinh thần thơ mới trong khuôn khổ “chữ tôi” và sự vận động của thơ mới xung quanh cái “tôi” và bi kịch của nó Có thể nói, thơ mới là một hiện tượng hấp dẫn nhưng phức tạp. Đánh giá về nó đã có bao công trình đồ sộ, công phu, nhưng cho đến nay chưa có ai vượt được Hoài Thanh về sự khúc chiết, giản dị mà tinh tế, tài hoa. Để hiểu rõ hơn, chúng ta đi vào đọc hiểu văn bản cụ thể . II. Đọc – hiểu văn bản: Đứng trước một văn bản nghị luận nói chung, chúng ta có thể tìm hiểu theo hai cách: + Theo mạch lập luận của tác giả (lối cắt ngang) + Theo đặc trưng của thể loại văn nghị luận: cách lập luận, hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng (lối bổ dọc). Ở đây, chúng ta chọn cách tìm hiểu theo mạch lập luận của tác giả để dễ theo dõi. 1. Nguyên tắc để xác định Tinh thần thơ mới - Mục đích của việc nêu lên nguyên tắc này là Để giới hạn và thống nhất về đối tượng phê bình. - Việc này rất cần thiết. Nếu không giới hạn và thống nhất được đối tượng phê bình, có thể sẽ có hiện tượng: + Người bênh thơ cũ: chỉ đề cập đến tinh hoa của mấy nghìn năm văn học + Người bênh thơ mới: chỉ nhắc đến những bài thơ Đường luật vô vị, nhạt nhẽo, “những cặn bã của một lối thơ đã đến lúc tàn”. * Như thế, cuộc tranh luận sẽ thiếu tính khoa học và không đi đến đâu cả. Vậy đây là công việc rất cần thiết và quan trọng, là nền tảng khoa học cho tác phẩm. Nhà phê bình không nêu lên nguyên tắc ngay. Ông đã trình bày theo trật tự: - Bắt đầu từ việc trích dẫn thơ. + Hai câu của Xuân Diệu: nặng tính ước lệ, cổ điển + Hai câu của một nhà thơ cũ nổi tiếng: giọng điệu trẻ trung, hiện đại. - Tiếp theo là quá trình lập luận: + Mỗi nhà thơ nổi danh đều có thể có những câu thơ hay nhưng không tiêu biểu + Mỗi thời đại đều có những bài thơ dở, những tác giả kém cỏi, bất tài + Đã không tiêu biểu thì không thể đại diện cho thời đại, đã tầm thường, lố lăng thì không có tinh thần để mà tìm hiểu - Cuối cùng: Nêu lên hai nguyên tắc cần triệt để tuân theo về đối tượng phê bình + Căn cứ vào cái hay + Căn cứ vào đại thể - Nhận xét về cách lập luận của tác giả: + Nhà phê bình không áp đặt suy nghĩ chủ quan của mình. Ông đã chọn cách lập luận theo lối quy nạp để thuyết phục người đọc bằng luận chứng tiêu biểu, luận cứ xác đáng và luận điểm rõ ràng. Do đó, vấn đề được trình bày giản dị, sinh động mà biện chứng, khách quan. 2. Tinh thần thơ mới: cái tôi MO O N.VN http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI - Nhận xét về cách dùng từ “Tinh thần thơ mới”. Thực chất của việc xác định tinh thần thơ mới là gì? Tinh thần (hay linh hồn) cùng với hình xác là hai phương diện trong sự tồn tại của một cá thể. Để nhận biết và đánh giá, người ta có thể căn cứ vào hình xác bên ngoài, nhưng có thể căn cứ vào tinh thần bên trong của nó. Cách dùng từ này cho thấy quan niệm biện chứng của tác giả về đối tượng, lối nói gợi cảm mà chính xác của ông. Thực chất, việc xác định tinh thần thơ mới là xác định bản chất, đặc trưng của nó. Việc xác định đặc trưng của thơ mới – “một thời đại trong thơ ca”, “một cuộc cách mạng trong thơ ca” - là công việc lớn lao, phức tạp, khó khăn. Một thời đại kéo dài 10 năm, hàng nghìn bài thơ, hàng trăm tác giả, phân hoá theo hàng chục trường phái khác nhau. Vấn đề Tinh thần, bản chất...mang tính trừu tượng, khó hình dung. Nó ngang tầm với một đề tài khoa học lớn. Vấn đề lớn lao, phức tạp ấy đã được tác giả thâu tóm bằng cách đối sánh thơ mới và thơ cũ ở phương diện chủ thể sáng tạo. Cách nói: Vừa hàm súc, vừa ấn tượng, vừa lạ lại vừa hay. Lạ vì từ xưa tới nay chưa ai thâu tóm vấn đề ngắn gọn mà giản đơn như thế. Hay vì nó đã bắt trúng mạch hai dòng chảy thi ca của hai thời đại này. - Cách khẳng định vấn đề: hai cách: Hoặc là chứng minh cái tôi chỉ có ở thơ nay. Hoặc chứng minh cái tôi không có ở thơ xưa. Tác giả đã chọn cách thứ hai. + Trên đại thể: Xã hội Việt Nam xưa không có cái tôi. Cá nhân, bản sắc cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả. Cách nói giàu hình ảnh, giúp người đọc hình dung ý thức cá nhân trong thơ xưa mờ nhạt như thế nào. + Cá biệt: Vẫn có những bậc kỳ tài ghi hình ảnh của họ vào trong thơ. Nhưng đó không phải là cái tôi với ý nghĩa tuyệt đối của nó. - Giọng điệu tranh biện như đang đối thoại cùng người đọc, lôi kéo sự nhập cuộc của họ. Cách dùng từ xưng hô đặc biệt: dùng từ “họ” để chỉ những bậc kỳ tài của thơ cũ. Từ họ được lặp lại với mật độ dày đặc (10 lần trên 9 dòng văn) không chỉ là đại từ thay thế, tạo tính liên kết mà còn phản ánh sự khác biệt cũng như khoảng cách giữa người thời đại sau (nhà phê bình) với người thời đại trước (các thi nhân thơ cũ). Hệ thống ngôn từ có tính chất biểu cảm, chứa đựng một cách nhìn chưa từng có về những Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương.... Cũng như hầu hết mọi người, nhà phê bình nhìn về họ với đôi mắt kính nể (vì tài năng của họ), nhưng khác mọi người, ông còn nhìn họ với đôi mắt thương cảm (vì sự nhút nhát của họ). Đây không phải là thái độ phạm thượng, vì bao bọc câu chữ là niềm cảm thông sâu xa với những bậc kỳ tài đã nhìn thấy giới hạn của thời đại, đã cố gắng vượt qua nhưng không thể có sự vươn mình trọn vẹn. Nhận xét: Với lập luận chặt chẽ, sắc sảo, cách nói giàu hình ảnh, cảm xúc, giọng điệu tranh biện sôi nổi mà tha thiết, ngôn từ gần với cách nói hàng ngày, giản dị, hóm hỉnh mà chứa đựng một trí tuệ sáng suốt, một học vấn uyên bác, một tâm hồn giàu rung cảm, đây là áng văn vừa có tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Phẩm chất khoa học bộc lộ ở những luận điểm mới mẻ, sâu sắc, phản ánh được bản chất của sự vật, được luận giải một cách chặt chẽ khúc chiết, có tính thuyết phục cao. Còn phẩm chất nghệ thuật được bộc lộ ở những cảm xúc thẩm mĩ tinh tế, hoá thân thành giọng điệu riêng của tác giả, thành hình ảnh diễn đạt, thành lối dẫn dắt, thành thứ ngôn ngữ vừa chính xác, hàm súc vừa uyển chuyển gợi cảm. Cả hai bình diện khoa học và nghệ thuật cùng hoà hợp với nhau nhuần nhuyễn và sống động. Không phải ngòi bút phê bình nào cũng đạt được sự nhuần nhuyễn như vậy. MO O N.VN http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA - HOÀI THANH (tiết 2) Giờ trước, chúng ta đã tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm, nguyên tắc xác định tinh thần thơ mới sự xuất hiện của cái Tôi và phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó. Vậy, cái tôi ấy có đặc điểm như thế nào? Bi kịch của nó ra sao? Giờ học này, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu những nội dung này trên cơ sở tiếp nối hệ thống kiến thức của giờ học trước: I. Tìm hiểu chung II. Đọc hiểu văn bản 1. Nguyên tắc xác định tinh thần thơ mới. 2. Tinh thần thơ mới: cái tôi- Sự vận động của thơ mới xung quanh cái “tôi” và bi kịch của nó 2.1. Tinh thần thơ mới: cái Tôi (so sánh với cái Ta) + Nội dung của chữ "Tôi" là ý thức cá nhân cá thể trong đời sống tinh thần con người. + Nội dung của chữ "Ta" là phần ý thức cộng đồng (chữ dùng của Hoài Thanh là "đoàn thể") trong đời sống tinh thần của con người - Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại trong mỗi người. Ở thời trước, cái Ta lấn át hoàn toàn, cái Tôi không có cơ hội để nảy nở. Còn thời đại này, cái Tôi trỗi dậy giành quyền sống. Phong trào Thơ mới nảy sinh từ sự trỗi dậy của cái Tôi đó. Tác giả nhìn nhận, đánh giá đối tượng không phải bằng con mắt giản đơn, tĩnh tại, ở đây, nhà phê bình đã giúp ta chú ý đến sự xuất hiện làm xôn xao dư luận của chữ tôi cá nhân, khắc hoạ sự vận động của một sinh thể đẹp đẽ nhưng rất mong manh trên hành trình chiếm lĩnh vị trí của nó trong đời sống văn học. 2.2. Sự vận động của cái tôi thơ mới + Ban đầu: “Ngày thứ nhất”: Xuất hiện với vẻ ngoài khác lạ, dáng điệu bỡ ngỡ. Mọi người đón nhận với thái độ khó chịu, xét nét đầy ác cảm. Ta có thể liên tưởng đến tình cảnh của một người khách không mời, có người cho rằng đó là cảnh ngộ của một cô dâu mới. Lại có ý kiến cho rằng đó là tình cảnh của kẻ ngụ cư. + Về sau: “Ngày một ngày hai”, cái tôi đã được quen dần. Mọi người có một thái độ khác: nhìn bằng đôi mắt thương cảm và có sự đồng cảm. Nhà phê bình đã giúp chúng ta hình dung về chữ tôi trong thơ mới như bằng lối nói hình tượng đặc sắc: chữ tôi như một con người có diện mạo, cảnh ngộ, số phận, cũng phải chịu áp lực của dư luận như một con người. Nhưng bi kịch của nó không chỉ là thế. Thậm chí, ngay cả khi thái độ của mọi người đã thân thiện hơn, bi kịch của nó cũng không vì thế mà giảm bớt. 2.3. Bi kịch của cái tôi: đáng thương, tội nghiệp. - Đáng thương vì nó nhỏ bé và cô đơn. Tội nghiệp vì nó mang thể trạng yếu đuối và có cuộc sống bế tắc. Những câu văn sau đây có thể giúp ta hình dung về điều đó: - Tâm hồn của họ chỉ vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi. Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Chữ ta với họ to rộng quá. So sánh mang tính hình tượng, trong sự đối lập chữ tôi với chữ ta để thấy vóc hình nhỏ bé, lại bị ràng buộc chật chội nên tù túng, bế tắc. Phải chăng, đó cũng là một thứ giường chiếu hẹp của những cuộc đời con mà ta được gợi liên tưởng từ đoạn thơ của nhà thơ Chế Lan Viên: “...Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp MO O N.VN http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI Giấc mơ con đè nát cuộc đời con Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn...” - Vẻ tội nghiệp của cái tôi còn được gợi ra qua so sánh: cùng viết về cái nghèo, nếu Nguyễn Công Trứ cười cợt với cảnh nghèo, Xuân Diệu lại rên rỉ khóc than. Qua đó, có thể thấy thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cốt cách hiên ngang thuở trước; họ yếu đuối đến khổ sở, thảm hại. Đến đây, ta chợt nhớ đến những lời tự bạch, tự thương của những cái tôi trong thơ mới: họ thấy mình như con nai bị chiều đánh lưới, không biết đi đâu đứng sầu bóng tối; họ thấy mình như ở giữa tinh cầu giá lạnh; một vì sao trơ trọi cuối trời xa; thấy mình là hoa trong rừng thẳm nở trong vô tình; mình khờ khạo lắm ngu ngơ quá…Rõ ràng, so với những vần thơ khí cốt cách của Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, cái tôi thơ mới tội nghiệp hơn hẳn. Có ý kiến cho rằng: trích thơ Nguyễn Công Trứ ở đây không thật hợp, vì cảnh nghèo của Nguyễn Công Trứ là cái nghèo có phần nhếch nhác, tiếng cười ở đây mang sắc thái chua chát. Nên trích thơ Nguyễn Khuyến, vì cảnh nghèo trong thơ ông đẹp và sang, tiếng cười của ông hóm nhẹ, thanh thản. Nhưng thực ra, không phải bao giờ Nguyễn Khuyến cũng có thể vui trước cảnh nghèo như vậy. Một số bài cũng cay đắng và chua chát không kém. - Trở lại với sự so sánh Nguyễn Công Trứ với Xuân Diệu, như thế không phải Hoài Thanh hạ thấp thơ mới, mà là một cách bênh vực có tình của tác giả. Bởi lẽ con người ấy là sản phẩm của thời đại, là tiếng nói của thời đại. Ta có thể nhận thấy rất rõ điều này qua cách xưng hô của tác giả ở phần tiếp theo, nói về các hướng lớn của Thơ mới khi đào sâu vào cái Tôi (hay là những biểu hiện của cái tôi thơ mới: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn, trở về hồn ta cùng Huy Cận...” + Từ “ta” ở đây không giống với từ “ta” khi nói về tinh thần thơ cũ. Cách xưng hô của tác giả đã thay đổi: từ TA và HỌ sang CHÚNG TA, TA. Chữ “HỌ” hoàn toàn biến mất, ở đây là chữ TA nặng trĩu ý thức cá nhân của các nhà thơ mới, trong đó có tác giả. Dường như khoảng cách giữa nhà phê bình với các thi nhân thơ mới đã bị xoá bỏ hoàn toàn. Từ việc lấy hồn ta để hiểu hồn người, nhà phê bình đã đồng cảm, hoá thân vào người, nói về nỗi niềm, tình cảnh của người cũng là của chính mình. “Nếu các nhà thơ trong phong trào Thơ mới là Bá Nha thì họ đã có một Tử Kỳ chính là Hoài Thanh” (Ngô Văn Phú). Là con đẻ của một thời đại trong thi ca, sống hết mình với lịch sử dân tộc, ông không thể bặm miệng (lời Hoài Thanh) mà không trải hết mọi vui buồn trên trang giấy. Điều đó làm nên một hình tượng cái tôi khá hấp dẫn trong những trang văn. Nhận xét về đoạn văn: - Đặc sắc của đoạn này là những khái quát rất chính xác, súc tích, lại được viết bằng một lối văn giàu nhịp điệu khiến cho văn phê bình mang đậm chất thơ. + Về ý tứ: chủ đề bao trùm là nỗ lực đào sâu vào ý thức cá nhân của Thơ mới. Chủ đề được triển khai thành hai phần chính: một là, khái quát về hướng tìm tòi và hệ quả chung; hai là, điểm qua những gương mặt điển hình cùng những lãnh địa cá nhân điển hình của Thơ mới để thấy được sự phân hoá đa dạng cùng sự quẩn quanh bế tắc của ý thức cá nhân. + Về văn phong: có dạng ngôn từ phi khái niệm (không phải là những khái niệm trừu tượng) dung dị dễ hiểu mà vẫn súc tích, diễn đạt được bản chất của đối tượng. + Cách cấu tứ: tạo ra hình ảnh một độc giả cứ theo chân của những nhà thơ tiêu biểu bước vào cõi thơ riêng của mỗi vị. MO O N.VN http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI + Đặc biệt, nhịp điệu của đoạn văn hết sức dồi dào. Những câu văn dài, gồm nhiều vế nhịp nhàng, có sự đắp đổi luân phiên về bằng trắc, tạo giọng điệu du dương, tha thiết như tác giả đang nói về chính mình. Hệ thống các vế câu có cùng cấu trúc ngữ pháp, với chủ thể được lặp lại liên tiếp, kết hợp hệ thống cụm từ chỉ cảm xúc, cảm giác, tâm trạng..., diễn tả sự khao khát, đắm say dạt dào của chủ thể sáng tạo trong nỗ lực tự giải thoát và của nhà phê bình trong sự nhập cuộc. Hệ thống từ ngữ giàu hình ảnh, kết hợp với một loạt tên tuổi các thi nhân thơ mới đã diễn tả hàm súc, chính xác sự phân hoá của thơ mới gắn với những phong cách và tên tuổi tiêu biểu. Nhà nghiên cứu phê bình Lê Bá Hán có nhận xét : “Anh có thể nắm bắt bén nhạy cái “thần” của một tác giả, khái quát được khá tập trung phần tinh túy nhất của một hồn thơ. Có khi, chỉ với vài từ hoặc một câu ngắn gọn, Hoài Thanh đã diễn đạt được cái cốt cách của một “nhà”. - Đây quả là những câu văn đầy chất trí tuệ và cảm xúc. Nhạc tính của nó không chỉ ở sự du dương trầm bổng của âm điệu mà còn ở sự sôi nổi tha thiết của tâm hồn. Những câu văn được chia thành nhiều vế đối thanh, đối ý, đối lời, đối nhịp, tạo nên tầng tầng lớp lớp những hình ảnh “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Cảm xúc cứ căng tràn để rồi lại chùng xuống thẫn thờ ở câu cuối đoạn. Đây là đoạn văn thể hiện rõ nhất chất thơ trong văn phê bình của Hoài Thanh. Nó đã giúp người đọc cùng đồng cảm, thương cảm cho bi kịch của cái Tôi thơ mới. - Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra điểm thiếu hụt trong ý thức của cái Tôi. “Thời trước, dầu bị oan khuất như Cao Bá Nhạ, dầu bị khinh bỉ như cô phụ trên bến Tầm Dương, vẫn còn có thể nương tựa vào một cái gì không di dịch. Ngày nay lớp thành kiến phủ trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hòe phủ trên thi tứ. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều : một điều cần hơn trăm nghìn điều khác : một lòng tin đầy đủ”. Bằng sự giản dị và cô đọng trong bút pháp mà vẫn không làm mất đi sự mềm mại, quyến rũ của nghệ thuật văn chương với những câu văn thật trang nhã, đầy chất thơ, tác giả cũng chỉ ra điểm thiếu hụt trong ý thức của cái Tôi một cách nghệ thuật. MO O N.VN - Tuy nhiên cái tôi thơ mới không chỉ tội nghiệp, đáng thương, nhà phê bình không chỉ nhìn nó không chỉ với đôi mắt tràn đầy thương cảm. Nhan đề “Một thời đại trong thi ca” đã phần nào hé mở cho chúng ta câu trả lời cho giải pháp của bi kịch. 2.4. Giải pháp cho bi kịch: dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt...Trên cơ sở giá trị truyện Kiều, tác giả đã khái quát về vấn đề dân tộc. Theo tác giả, khi gửi tình yêu nước vào tình yêu tiếng Việt thì trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng, thấy tinh thần nói giống chỉ có biến thiên chứ không thay đổi. Dân tộc, ngôn ngữ không bị mất đi. Tìm về tiếng Việt, họ vin vào những gì bất diệt, cần tìm về dĩ vãng đủ để đảm bảo cho ngày mai. Lòng yêu nước có thể biểu hiện phong phú đa dạng, trong lao động, trong chiến đấu, yêu giang san, tự hào trước nền văn hóa dân tộc. Ở đây, lòng yêu nước biểu hiện qua tình yêu ngôn ngữ...Nhìn chung, lòng yêu nước trong văn học lãng mạn được thể hiện gián tiếp, thầm kín, không trực tiếp, sôi nổi, mạnh mẽ như trong văn học cách mạng. 3. Những thành công về nghệ thuật của bài tiểu luận 3.1. Kết cấu chặt chẽ, lập luận khoa học. 3.2. Trình tự lập luận: nêu những biểu hiện khái quát, sau đó, đi vào những dẫn chứng cụ thể. Ví dụ, đoạn văn nhận định về sự bế tắc của cái tôi. Đời chúng ta...khái quát, sau đó chỉ ra biểu hiện cụ thể của từng nhà thơ, làm sáng tỏ bằng những dẫn chứng...ngay trong nhận định về từng nhà thơ cũng khái quát... 3.3. Sự cảm nhận tinh tế bằng văn chương giàu chất nghệ thuật, giàu chất thơ... + Lời văn giàu cảm xúc, viết văn nghị luận bằng giọng của người trong cuộc, chia sẻ, đồng cảm. Lấy hồn tôi để hiểu hồn người. http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI + Lời văn giàu hình ảnh: những khái niệm được diễn đạt bằng hình ảnh dễ hiểu. Ở người nghệ sĩ Hoài Thanh, sự tinh tế, sâu sắc trong phong cách phê bình lại được chắp cánh bởi tư duy hình tượng, bởi những liên tưởng sinh động. Có cảm giác trong tay ông, cây đũa thần – phê bình chạm tới đâu là ở đấy tất cả sống dậy, có hồn, khơi gợi tưởng tượng và cảm xúc. Một khái niệm trừu tượng như thơ ca, dưới ngòi bút Hoài Thanh cũng trở nên sống động: “thơ phải là một tia sáng nối cõi thực và cõi mộng, mặt đất với các vì sao”. + Lời văn giàu nhịp điệu, cách ngắt nhịp câu tạo nên sự cân xứng, nhịp nhàng. III. Kết luận - “Một thời đại trong thi ca” là cuốn sách góp phần quyết định tạo nên tên tuổi Hoài Thanh. Nếu những bài thẩm bình của Hoài Thanh với từng nhà thơ được coi là những bài thơ thì bài tổng kết phong trào Thơ Mới mang tên Một thời đại trong thi ca thực sự là một bản trường ca, “khúc tuyệt xướng” về Thơ Mới. “Đọc Thi nhân Việt Nam, trước hết ta gặp một nhà thơ ở giữa các nhà thơ” (Hoàng Trinh). Hoài Thanh đã xây nên “lâu đài kiến trúc hài hòa, đầy chất thơ” (Đỗ Đức Hiểu). Thi nhân Việt Nam là “một công trình của thế kỉ” (Nguyễn Văn Hạnh). “Rồi người đời sẽ quên dần và quên hết các chức tước, các trọng trách mà ông giữ, để chỉ còn và còn mãi mãi tác giả Thi nhân Việt Nam (Phong Lê). Vâng, chỉ qua phần hướng dẫn đọc hiểu phần cuối bài tiểu luận này thôi, phần nào ta đã thấy được quan niệm đúng đắn của tác giả trong việc định nghĩa Thơ mới xung quanh vấn đề cốt yếu là tinh thần Thơ mới, cách luận giải sắc sảo, cách diễn đạt tài hoa, hóm hỉnh, đầy sức thuyết phục của tác giả. MO O N.VN http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA - HOÀI THANH (tiết 3) Nhà văn Nga K.Pautôpxki có câu nói nổi tiếng : “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường vào xứ sở của cái đẹp” – Với bài tiểu luận này, phải chăng Hoài Thanh cũng đã dẫn ta trở về với vẻ đẹp của cuộc sống, vẻ đẹp của tâm hồn, cái đẹp trong nội dung miêu tả, cái đẹp ở phương thức biểu hiện của những tác phẩm đã làm nên Một thời đại trong thi ca. Để khắc sâu kiến thức trọng tâm này, chúng ta hãy cùng thực hiện một số bài luyện tập: Câu hỏi 1. Vẻ đẹp của văn nghị luận trước hết ở hệ thống lập luận. Anh/chị hãy xác định luận điểm, luận cứ và cách thức lập luận của văn bản, cách dẫn dắt mạch văn của tác giả? - Luận điểm bao trùm cả đoạn trích này là vấn đề Tinh thần Thơ mới. Nó được triển khai thành ba luận cứ: 1 - Giới thuyết nguyên tắc để xác định tinh thần của hai thời đại thơ : + không căn cứ vào cục bộ và cái dở + mà phải căn cứ vào đại thể và vào cái hay. 2 - Xác định tinh thần Thơ mới là chữ "Tôi", tinh thần thơ xưa là chữ "Ta" : + giới thuyết chung về điểm giống và khác của chữ "Ta" và chữ "Tôi" + Xác định bản chất Ta là ý thức đoàn thể, Tôi là ý thức cá nhân. + Điểm qua về sự xuất hiện của chữ Tôi và phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó. 3- Nhìn nhận sự vận động của Thơ mới xung quanh cái Tôi và bi kịch của nó : + Chỉ ra tính chất tội nghiệp của cái Tôi trong thời đại mình. + Các hướng lớn của Thơ mới đào sâu vào cái Tôi. + Điểm thiếu hụt trong ý thức của cái Tôi. + Bi kịch thời đại cái Tôi và giải pháp cho bi kịch bằng lòng yêu Tiếng Việt. - Cách thức lập luận: từ cụ thể đến khái quát (phần 1); từ những biểu hiện khái quát, đi vào những dẫn chứng cụ thể (phần 2). - Cách dẫn dắt mạch văn rất tự nhiên, linh hoạt và độc đáo. Tác giả không dùng lý để dẫn dắt ý, mà dùng tình để dẫn dắt ý. Mạch văn dược dẫn dắt không phải bằng ngôn ngữ khái niệm với những phương tiện liên kết của lôgic hình thức, nặng tính tư biện ta vẫn quen gặp trong các bài phê bình văn học nghiêng về khoa học thuần tuý. Trái lại, ông dẫn dắt ý chủ yếu bằng ngôn ngữ đời sống, nương theo mạch liên kết của cảm xúc thẩm mĩ. Có thể tìm hiểu cách chuyển từ những ý lớn sang ý lớn, và từ những ý nhỏ sang ý nhỏ, với hệ thống các phương tiện liên kết biến hoá mà tự nhiên như thế nào. - Diễn đạt bằng hình ảnh, bằng thứ ngôn ngữ ít mang tính khái niệm, bằng ấn tượng với cảm giác, cảm xúc rất tinh tế uyển chuyển. Câu hỏi 2. Tinh thần Thơ mới là chữ "Tôi", tinh thần thơ xưa là chữ "Ta". Vậy, nội dung của chữ Tôi và chữ Ta là gì? - Nội dung của chữ "Tôi" là ý thức cá nhân cá thể trong đời sống tinh thần con người. - Nội dung của chữ "Ta" là phần ý thức cộng đồng (chữ dùng của Hoài Thanh là "đoàn thể") trong đời sống tinh thần của con người MO O N.VN http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI - Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại trong mỗi người. Ở thời trước, cái Ta lấn át hoàn toàn, cái Tôi không có cơ để nảy nở. Còn thời đại này, cái Tôi trỗi dậy giành quyền sống. Phong trào Thơ mới nảy sinh từ sự trỗi dậy của cái Tôi đó. Câu hỏi 3. Hãy phân tích để làm nổi bật những đặc sắc trong đoạn văn: "Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận" . - Đặc sắc của đoạn này là những khái quát chính xác, súc tích, lại được viết bằng một lối văn giàu nhịp điệu khiến cho văn phê bình mang đậm chất thơ. - Có thể phân tích trên hai bình diện : + Về ý tứ: chủ đề bao trùm là nỗ lực đào sâu vào ý thức cá nhân của Thơ mới. Chủ đề được triển khai thành hai phần chính: một là, khái quát về hướng tìm tòi và hệ quả chung; hai là, điểm qua những gương mặt điển hình cùng những lãnh địa cá nhân điển hình của Thơ mới để thấy được sự phân hoá đa dạng cùng sự quẩn quanh bế tắc của ý thức cá nhân. + Về văn phong: chú ý đến dạng ngôn từ phi khái niệm (không phải là những khái niệm trừu tượng) dung dị dễ hiểu mà vẫn súc tích, diễn đạt được bản chất của đối tượng. Chú ý đến cách cấu tứ: tạo ra hình ảnh một độc giả cứ theo chân của những nhà thơ tiêu biểu bước vào cõi thơ riêng của mỗi vị. Đặc biệt chú ý đến nhịp điệu hết sức dồi dào của đoạn thơ này. Câu hỏi 4. Lòng yêu nước của các nhà Thơ mới và của tác giả Thi nhân Việt nam thể hiện tập trung nhất ở điểm nào ? - Lòng yêu tổ quốc của con người có những biểu hiện vô cùng phong phú. Có lòng yêu nước gắn liền với đấu tranh. Có lòng yêu nước gắn liền với lao đông sản xuất. Lại có lòng yêu nước biểu hiện ở sự thiết tha với những giá trị văn hoá, ở nỗ lực sáng tạo ra những giá trị văn hoá. - Lòng yêu nước của các nhà Thơ mới nghiêng về dạng thứ ba. Tình yêu của họ thể hiện tập trung nhất ở lòng yêu tiếng Việt và nên thơ ca dân tộc, ở niềm say mê sáng tạo ra những giá trị văn hoá, trước hết là thơ ca. Họ muốn làm cho tiếng nói của nòi giống đẹp hơn, giàu hơn, càng ngày càng trường tồn bất diệt. Đó cũng là một lòng yêu nước rất đáng trân trọng và ghi nhận. Câu hỏi 5. So sánh văn phong của Hoài Thanh trong đoạn trích trên đây với văn phong của Thế Lữ trong bài "Tựa" viết cho tập Thơ thơ của Xuân Diệu. - Mục đích: bài tập này giúp cho những bạn yêu văn chương có dịp tìm hiểu sâu sắc những vẻ đẹp thật phong phú và độc đáo của mỗi dạng văn phê bình văn học khác nhau, đồng thời giúp ta rèn luyện kĩ năng so sánh trong nghiên cứu văn học. - Nội dung: trên cơ sở nhận ra những điểm gần gũi (về thể phê bình văn học, đối tượng chung đều là thơ, lối viết đều nghiêng về ấn tượng, cảm xúc, đậm chất nghệ sĩ…), cần tìm ra những điểm khác biệt, độc đáo của mỗi lối viết ( một đằng là công trình tổng kết cả một phong trào, một đằng là bài tựa cho một tập thơ của một tác giả ; một đằng nghiêng về những khái quát, lý giải, một đằng nghiêng về những cảm thụ, thưởng ngoạn, dựng chân dung v.v..) Câu hỏi 6: “Người ta phân biệt thơ mới, thơ cũ không ở phần xác mà ở phần hồn. Đó là sự xuất hiện của cái tôi cá nhân thể hiện rất phong phú trên thi đàn, nhưng chung quy lại, ấy là cái tôi nhìn đời bằng cặp mắt tươi trẻ xanh non và cái tôi cô đơn trước vũ trụ, cuộc đời” (Sgk Ngữ văn 11, chương trình Nâng cao) Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Dựa vào một số bài thơ mới đã học, hãy làm rõ nhận định trên. 1. Giải thích nhận định: MO O N.VN http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI Thơ Mới khác biệt thơ cũ ở phần xác (hình thức): phá bỏ ước lệ, khuôn mẫu gò bó cứng nhắc trong thơ xưa để thể hiện mọi cảm xúc, biến thái tinh vi phức tạp nhất của tâm hồn. Điều quan trọng hơn là ở phần hồn (nội dung)- tinh thần Thơ mới “ngày trước là chữ ta, bây giờ là chữ tôi”. + Con người cá nhân trong thơ xưa phải ẩn mình sau cái Ta của cộng đồng, có những tài năng muốn vượt thoát…nhưng chưa bao giờ dám phô diễn cái tôi. + Đến thời hiện đại, cùng với sự chuyển mình của ý thức xã hội, ý thức cá nhân bùng phát mạnh mẽ thành nguồn cảm hứng chủ đạo. + Cái tôi trong thơ thể hiện rất phong phú trên thi đàn, nhưng chung quy nó là cái tôi nhìn đời bằng cặp mắt tươi trẻ xanh non và cái tôi cô đơn trước vũ trụ, cuộc sống. + Nhận định này rất đúng với các nhà thơ mới. Nhưng cũng cần thấy sự phân cực không phải bao giờ cũng rõ ràng, ở một số nhà thơ có sự kết hợp. 2. Phân tích, chứng minh: A. Cái tôi nhìn đời bằng cặp mắt tươi trẻ xanh non - Với cái tôi nhìn đời bằng cặp mắt tươi trẻ xanh non nên Xuân Diệu mới thấy: + Phát hiện ra bức tranh trần thế là một mâm cỗ thịnh soạn với vô số thực đơn: gần gũi thân quen như nắng gió hoa lá…tràn đầy sức sống, tươi đẹp, đầy niềm vui như đồng nội xanh rì, cảnh tơ phơ phất, thần vui gõ ửa…tình tứ quyến rũ như ong bướm, tuần tháng mật, cặp môi gần… + Thay đổi cách nhìn về chuẩn mực cái đẹp (nhìn qua lăng kính tình yêu) + Bộc lộ những ham muốn khác thường đoạt quyền tạo hóa… + Cảm nhận thế giới bằng mọi giác quan… - Ta cũng bắt gặp cái tôi ấy trong thơ Hàn. Vẻ đẹp trần thế thôn Vĩ qua hồi tưởng thật: + Đẹp tinh khôi, thanh khiết, sống động: nắng mới, vườn mướt, xanh như ngọc. + Hữu tình: lá trúc che ngang mặt chữ điền… B. Cái tôi cô đơn trước vũ trụ, cuộc đời. - Mặc dù với Xuân Diệu, cái tôi chủ đạo là cái tôi nhìn đời bằng cặp mắt tươi trẻ xanh non, thiết tha giao cảm với đời, khát khao hưởng thụ nhưng người đọc vẫn nhận ra cái buồn cố hữu mang đặc trưng thơ mới. + Buồn vì sự hữu han của đời người… + Buồn vì quy luật cuộc đời có sinh có tử, có tàn phai (một loạt động từ thể hiện sự tiêu tan, mất mát) + Cũng như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, sau cái tôi say mê với cuộc sống thôn dã là cái buồn chia lìa, hụt hẫng, nuối tiếc…càng về cuối, nỗi buồn càng đong đầy bởi ảo ảnh nhạt nhòa ngoài tầm tay với…Kết thúc là câu hỏi nhưng thực chất là tiếng than…Cái buồn của Hàn Mặc Tử còn thể hiện qua dòng hồi tưởng đứt nối chập chờn vô định. - Trong ba nhà thơ, cái tôi cô đơn nhất không ai khac là Huy Cận + Cảm thức trong thơ Huy Cận là cảm thức về thân phận con người trước vũ trụ lớn lao: + Tràng giang có hai đối cực: cái lớn lao rợn ngợp mênh mông vô tận…biểu tượng cho cuộc đời, dòng đời; cái nhỏ bé lạc loài … biểu tượng cho kiếp người lạc lõng cô đơn bơ vơ… + Cuộc đời và con người mất liên lạc: thuyền về nước lại, nắng xuống trời lên, + Không tín hiệu: không tiếng, không cầu, không đò… + Huy Cận tìm ra đối cực để diễn tả nỗi buồn, sự mất phương hướng của con người trước cảnh nước mất nhà tan… Đánh giá: Sự ra đời của thơ mới, sự xuất hiện của cái tôi là bước chuyển mình của văn học… MO O N.VN http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH (tiết 1) MỞ: Việt Nam, dải đất mảnh mai gầy guộc nằm bên bờ biển Đông suốt lịch sử 4000 năm luôn phải gồng mình lên để sớm chắn bão giông chiều ngăn nắng lửa; gần hai ngàn năm phải chống ngoại bang xâm lược, đô hộ, đồng hoá; độc lập, tự do cho dân tộc, chủ quyền quốc gia đã trở thành lẽ sống còn truyền từ đời này sang đời khác. Hơn 1000 năm trước, khi quân xâm lược Tống (Trung Quốc) kéo sang giày xéo bờ cõi, chúng ta đã tuyên bố "Sông núi nước Nam vua Nam ở ". Hơn năm trăm năm sau, sau thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ nhà Minh, trong bài Cáo bình Ngô, chúng ta lại một lần nữa tuyên bố nền độc lập trong không khí hào sảng: "Như nước Đại Việt ta ... hùng cứ một phương ". Vẫn với một tinh thần ấy và hơn cả như thế, Tuyên ngôn độc lập của Bác đã trở thành đỉnh mốc đánh dấu bước phát triển lớn nhất trong lịch sử phát triển quốc gia dân tộc. I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả 2. Tác phẩm 2.1. Hoàn cảnh ra đời của bản tuyên ngôn - Ngày 19/8/45 chính quyền về tay nhân dân. - Ngày 26/8 tại Hàng Ngang – Hà Nội người soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập. - Ngày 2/9/45 tại quảng trường Ba Đình, người thay mặt chính phủ đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước VNDCCH. 2.2. Đối tượng và mục đích sáng tác của bản tuyên ngôn MO O N.VN . Đối tượng: + Tuyên ngôn độc lập huớng tới không chỉ đồng bào trong cả nuớc. + Nhân dân trên thế giới, trước hết là nhân dân tiến bộ ở Pháp và Mỹ. + Đặc biệt là các lực lượng thù địch và cơ hội quốc tế đang mang dã tâm một lần nữa nô dịch đất nước ta. Mục đích: + Khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam. + Bao hàm một cuộc tranh luận ngầm nhằm bác bỏ luận điệu xảo trá của kẻ thù truớc dư luận thế giới. Lời văn: - Ngày 19 tháng 8 năm 1945, chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang, Người biên soạn bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2.9.1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào: “Hôm nay sáng mồng 2 tháng 9/ Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình/ Muôn triệu tim chờ, chim cũng nín/ Bỗng vang lên tiếng hát ân tình/ Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh/ Người đứng trên đài, lặng phút giây/ Trông đàn con đó, vẫy hai tay/ Cao cao vầng trán, ngời đôi mắt/ Độc lập bây giờ mới thấy đây”. Cả đất nước ngây ngất trong niềm hạnh phúc được sống http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI trong kỉ nguyên mới, chấm dứt bao năm sống trong nô lệ tủi nhục dưới ách thống trị của thực dân phong kiến. - Tuyên ngôn độc lập được viết trong một hoàn cảnh đặc biệt khác thường: đất nước đã giành đuợc độc lập nhưng bọn đế quốc thực dân - đặc biệt là thực dân Pháp đang lăm le quay trở lại nhằm nô dịch đất nước ta một lần nữa. Nấp sau quân Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật: tiến vào từ phía Bắc là quân đội Tưởng Giới Thạch, sau lưng là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, sau lưng là quân viễn chinh Pháp. Chúng nhân danh phe Đồng minh với chiêu bài: lấy lại mảnh đất bảo hộ đã bị bọn Phát xít Nhật chiếm đóng trong chiến tranh. Chúng ta phải chống thực dân Pháp - một thành viên chủ chốt của phe Đồng minh nhưng lại nhất thiết không thể chống Đồng minh. Đây là một vấn đề trọng yếu và cũng vô cùng tinh tế, đòi hỏi sự khôn khéo, sáng suốt và bản lĩnh của người lãnh đạo. 2.5. Bố cục - Đoạn 1: Từ đầu đến “đó là lẽ phải không ai có thể chối cãi được” cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn. - Đoạn 2: Tiếp đó đến “Dân tộc đó phải được độc lập”- Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khẳng định thực tế lịch sử là nhân dân ta kiên trì đấu tranh và nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước VNDCCH. - Đoạn 3: Còn lại: Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. II. Đọc hiểu văn bản 1. Cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn - Bác dẫn hai bản tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ (1776); Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp (1791) -> Hai bản tuyên ngôn được cả thế giới thừa nhận nội dung phù hợp với mơ ước và quyền lợi của con người. Đó là chân lí không ai có thể chối cãi. Việc trích dẫn ấy có giá trị sâu sắc. Bác tỏ ra trân trọng những danh ngôn bất hủ để chặn đứng âm mưu trở lại xâm lược nước ta của thực dân Pháp. - Người trích dẫn lời bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ: “Tất cả mọi người…hạnh phúc”. Bác rất linh hoạt khi kết hợp với ý kiến của mình “suy rộng ra câu ấy có nghĩa là” từ khẳng định quyền con người, Bác đã chuyển nhanh sang quyền của các dân tộc “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, daâ tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” - Người trích dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp: “Người ta sinh ra….quyền lợi”. Người khẳng định: “ đó là lẽ phải không ai có thể chối cãi được”. Bác xoáy sâu vào quyền bình đẳng mọi mặt của con người. Con người hiểu theo nghĩa không phân biệt chủng tộc, màu da, tổ quốc. Con người nhân loại . Vậy có lí do gì Pháp xâm lược Việt Nam? - Bác dẫn lời cha ông họ. Ông cha họ đã từng khẳng định, từng tuyên ngôn hùng hồn đanh thép. Có lẽ nào chúng lại vô tình đi ngược lại và phản bội lời lẽ của ông cha chúng? Đây chính là phương pháp luận của Bác, là nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” khôn khéo và tế nhị. MO O N.VN Lời văn: Phần mở đầu bản tuyên ngôn có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu cho phong cách chính luận HCM. Tác giả đã khẳng định độc lập dân tộc trên cơ sở những lí lẽ không thể chối cãi. - Ngay từ những dòng đầu tiên, Hồ Chí Minh nêu lên những chân lý vĩnh cửu về quyền tự do của dân tộc, quyền sống của mỗi con người đã được thừa nhận qua nhiều thời kỳ lịch sử ở ngay chính những quốc gia mà bấy giờ chính quyền của họ đang đi ngược lại nguyên tắc đó. Bác đã dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn, đã được thừa nhận của nhân loại, để làm cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của VN. Cách lập luận của tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI + Cách lập luận ấy khôn khéo bởi vì: @ Thu hút sự chú ý của dư luận. Dẫn Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ, Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp chính là biểu hiện của sự mở ra, hoà vào đời sống cộng đồng thế giới của dân tộc. Chỉ mới đây thôi, dân tộc còn nô lệ, đất nước còn chưa có tên riêng (mang tên xứ An Nam thuộc Pháp), xã hội còn là xã hội phong kiến thuộc địa cũ kĩ, tù đọng. Hôm nay chúng ta đã là nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đứng giữa nhân loại trên thế giới. Những nội dung, khí phách như thế đã cất lên, vang động khắp hoàn cầu. @ Gợi lại cho người Mĩ và người Pháp nhớ lại những hoàn cảnh tương tự như Việt Nam. Cách đó 200 năm, người Mĩ cũng bị áp bức, bị làm nhục như Việt Nam, cũng bị những người Âu châu sang khai thác. Câu nói nổi tiếng của thủ tướng Anh Uy-liêm: “Hễ Mĩ làm ra dù một sợi len, một miếng sắt móng ngựa là bản chức sẽ cho lĩnh sang đóng đầy xứ ngay lập tức”. 1775, dưới sự lãnh đạo của người anh hùng Oa sinh tơn, lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống đế quốc Anh đã thống trị họ từ đầu thế kỉ XVII. 4-7-1776, họ tuyên bố Độc lạp và thành lập Liên bang Bắc Mĩ Hoa kì (quen gọi là nước Mĩ). 15 năm sau bản tuyên ngôn của Mĩ là tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp không chịu được cảnh phải cõng trên lưng, đội trên đầu quyền lực tối cao của chế độ quân chủ, trong đó luật pháp là do ý thích của nhà vua đặt ra. Như vậy mấy trăm năm trước người Pháp lật đổ chế độ quân chủ, người Mĩ đánh đuổi thực dân, mấy trăm năm sau, người Việt cùng một lúc đánh đổ cả chế độ phong kiến và chế độ thực dân, cùng chung khát vọng độc lập tự do như người Mĩ người Pháp... Vừa nhắc nhớ, vừa có ý đặt ngang hàng cuộc cách mạng tháng Tám của ta với hai cuộc cách mạng của Pháp và Mỹ. Quả thật hai cuộc cách mạng nói trên mở ra một giai đoạn mới trong sự phát triển của lịch sử xã hội loài người thì cuộc cách mạng tháng Tám của ta cũng mở ra một kỷ nguyên mới. Đó là kỷ nguyên dành độc lập dân tộc ở các nuớc thuộc địa, là kỷ nguyên sụp đổ của chủ nghĩa thực dân. Với những trích dẫn hai câu nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, Hồ Chí Minh muốn khẳng định chân lí lịch sử và niềm tự hào dân tộc, khẳng định tầm vóc thời đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. MO O N.VN @ Người đã thể hiện sự tôn trọng những danh ngôn bất hủ đã được cả thế giới thừa nhận, những chân lý dù đó là của Mỹ hay của Pháp. Ở đây không hề có sự lầm lẫn giữa nhân dân Mỹ, dân tộc Pháp với bọn xâm lược Mỹ, Pháp. @ Từ quyền bình đẳng và tự do của con người mà tác giả suy rộng ra về quyền bình đẳng tự do của các dân tộc trên thế giới. Đây là một cách vân dụng khéo léo và đầy sáng tạo nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ trong lập luận. Tư tưởng về ''Quyền của các dân tộc '' là một đóng góp lớn của TNĐL: ''cống hiến nổi tiếng của cụ HCM vào kho tàng tinh hoa tư tưởng nhân loại. Bởi vì tư tưởng này là sự nâng cao giá trị, tầm vóc nhân bản của tư tưởng, của nguyên tắc về quyền của con người '' (Giáo sư Singô Sibita). Nghĩa là con người phải biết vươn tới quyền lợi của cộng đồng. Mặt khác, tư tưởng nguyên tắc ''Quyền của các dân tộc '' còn là cơ sở để nhân loại thấy rằng giai cấp tư sản trong khi nêu cao nhân quyền, dân quyền lại mở rộng quyền xâm phạm tàn bạo, bóc lột dã man các dân tộc khác. Đó là vô nhân đạo và phi nghĩa. Thế là từ phạm trù nhân quyền - nền móng tư tưởng của cách mạng tư sản - Bác đã chuyển sang phạm trù chống thực dân - nền móng của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào rồi sẽ trở thành một trong ba dòng thác cách mạng trên thế giới. Chỉ trong một câu văn ngắn gọn, ta vẫn nhận ra một Hồ Chí Minh như nguời giương cao bó đuốc sáng ngời của tư tưởng giải phóng dân tộc. @ Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn vừa nhằm đề cao những giá trị hiển nhiên của tư tưởng nhân đạo và văn minh của nhân loại, vừa tạo tiền đề cho lập luận sẽ nêu ở mệnh đề tiếp theo. http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI + Khôn khéo nhưng vẫn kiên quyết: Bác đã dùng lời lẽ bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để phủ nhận chính âm mưu xâm lược của hai cường quốc này. Qua thủ pháp nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”, dường như tác giả đã ngầm cảnh cáo nếu Pháp xâm lược Việt Nam thì chính họ đã phản bội lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ đã đúc kết thành chân lý ghi trong bản tuyên ngôn. Họ sẽ vấy bẩn lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái mà cha ông họ từng giương cao. Kết tiết 1: Tuyên ngôn độc lập là đỉnh cao của văn học yêu nước, đỉnh cao của văn chính luận. Trong cả cuộc đời làm văn viết văn của Bác thì hai lần nguời cảm thấy sung sướng và sảng khoái nhất khi đặt bút viết đó là lần viết “Bản án chế độ thực dân Pháp” để lại bản cáo trạng đanh thép kết tội chúng” và lần viết Tuyên ngôn độc lập để tuyên bố cáo chung chế độ thực dân ấy. Tác phẩm đã xây dựng được một kết cấu chặt chẽ, lí lẽ hùng hồn, lập luận đanh thép, lời văn hàm súc, trong sáng. Nếu người Mĩ tự hào vì có bản tuyên ngôn độc lập 1776, người Pháp có Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 thì dân tộc Việt Nam có quyền kiêu hãnh vì có Tuyên ngôn độc lập, tác phẩm kết tinh tâm hồn, ý chí, khát vọng của con người Việt Nam. - Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, TNĐL đã đưa ra căn cứ, lí lẽ xác đáng cho lập luận. Quá trình dẫn dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ, thể hiện độ nhạy bén chính trị, sự sắc sảo trí tuệ cao độ. Với đoạn mở đầu, tác giả đã tạo cơ sở lý luận vững chắc để triển khai lập luận ở phần sau. - Chúng ta đã từng biết đến chất trí tuệ sắc sảo của Nguyễn Ái Quốc qua truyện Những trò lố hay Va ren và Phan Bội Châu hiện đại bằng tiếng Pháp, chất cổ điển hài hòa với tinh thần hiện đại của HCM qua Nhật kí trong tù bằng chữ Hán, thì đến với Tuyên ngôn độc lập, ta còn biết đến một áng văn chính luận mẫu mực giàu tính luận chiến của nhà Cách mạng HCM. Đây cũng là tác phẩm mà HCM cảm thấy hài lòng nhất trong cuộc đời viết văn, làm báo dày dạn kinh nghiệm của mình. MO O N.VN http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH (tiết 2) 2. Bác vạch tội cũng là tranh luận ngầm với thực dân Pháp. - Bác hạ từ “ thế mà”, hai từ ấy như đảo ngược lại hoàn toàn, phủ nhận hoàn toàn thái độ của thực dân Pháp. Nghĩa là chúng đã phản bội lại lời lẽ của cha ông chúng. - Từ đây bản tuyên ngôn đã đưa ra những chứng cứ sự thật. Thực chất, Bác đã ngầm tranh luận với Pháp và công bố trước dư luận. + Chúng kể công ''bảo hộ '' Việt Nam nhưng thực chất là chúng đã dâng Đông dương hai lần cho Nhật . + Chúng kể công ''khai hoá'' Việt Nam nhưng thực chất là chúng bóc lột, áp bức đẩy dân tộc ta tới nguy cơ diệt chủng trong nạn đói 1945 . + Chúng nhân danh Đồng minh trở lại Việt Nam >< thực chất chúng phản bội Đồng minh, đầu hàng Nhật, khủng bố Việt minh là lực lượng đứng trong phe Đồng minh đánh Nhật . + Chúng nêu lên những ràng buộc về mặt pháp lí của Việt Nam với Pháp bởi những hiệp ước này khác thì bản tuyên ngôn khẳng định từ 1940, Việt Nam là thuộc địa của Nhật và Việt minh đã giành lại chủ quyền cho dân tộc mình từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Như thế mọi ràng buộc có tính pháp lí trên đã bị huỷ bỏ . -> Lời lẽ của Bác cụ thể, dẫn chứng rõ ràng, văn viết có hình ảnh (tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong các biển máu), tác động mạnh mẽ tới người đọc, người nghe. - Bác tuyên bố thoát li hẳn mọi quan hệ thực dân với Pháp. + Xoá bỏ mọi hiệp ước mà Pháp đã kí ở VN. + Khai sinh ra nước VNDCCH. + Thể hiện quyết tâm chống mọi âm mưu của thực dân Pháp. + Bày tỏ niềm tin với Đồng minh. Lời văn: MO O N.VN Lòng yêu nước, nguyện vọng độc lập dân tộc của nhân dân ta đuợc khẳng định chắc chắn trên cơ sở thực tiễn. Tác phẩm là cuộc tranh luận ngầm về chủ nhân đích thực của đất nước Việt Nam, phủ nhận quyền của Pháp, khẳng định quyền tự do của Việt Nam. Nghệ thuật lập luận trong cuộc “tranh luận ngầm” nhằm bác bỏ những luận địệu xảo trá của thực dân, đế quốc đã được thể hiện sáng rõ: a) Bản Tuyên ngôn đã dựng lên bản cáo trạng đanh thép về tội ác của thực dân Pháp. + Nếu Pháp nêu chiêu bài có công khai hoá đối với Việt Nam, Việt Nam vốn là thuộc địa của Pháp thì bản Tuyên ngôn vạch rõ: Pháp chính là kẻ xâm lược, gây bao tội ác, và đã bán đứng Vn cho Nhật. Bản Tuyên ngôn tố cáo một cách toàn diện tội ác này về chính trị, kinh tế. Về chính trị: Chúng tuyệt đối không cho dân tộc ta chút quyền tự do dân chủ nào, chúng chia nuớc ta thành ba kỳ với ba chế độ khác nhau. Mục đích là chia rẽ tình đoàn kết dân tộc, ngăn cản sự nghiệp thống nhất đất nuớc của nhân dân ta. Chúng đàn áp những nguời yêu nuớc thương nòi, tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng thực hiện chính sách ngu dân, lập nhà tù nhiều hơn truờng học. Chúng đầu độc nhân dân ta bằng ruợu cồn và thuốc phiện để ta suy kiệt giống nòi. Về kinh tế: Chúng cuớp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, bóc lột sức lao động, chúng thực hiện chính sách thuế hà khắc, vô nhân đạo khiến mọi tầng lớp nhân dân không ngóc đầu lên đuợc. Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp và phát xít Nhật là đã gây ra thảm hoạ nạn đói năm 1945 khiến hai triệu nguời chết đói. (Thơ Tố Hữu: Con đói lả ôm chân mẹ khóc/ Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi/ http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI Kiếp người cơm vãi cơm rơi/ biết đâu nẻo đất phương trời mà đi. Hay “Nửa đêm thuế thúc trống dồn/ Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy) + Để phủ nhận chiêu bài của Pháp rêu rao rằng Pháp có công đứng về phe Đồng minh chống phát xít bảo vệ Việt Nam, tác giả đã tố cáo tội ác của Pháp là đã đầu hàng Nhật một cách nhục nhã, bán rẻ nuớc ta cho Nhật Bản. Tuyên ngôn chỉ rõ: chỉ trong vòng 5 năm mà đã hai lần Pháp quỳ gối mở cửa nuớc ta rước Nhật. Tố cáo hành động này của Pháp, một lần nữa bản tuyên ngôn đã phủ nhận quyền của Pháp đối với Việt Nam. - Trong phần thứ hai của Tuyên ngôn độc lập, đoạn tố cáo tội ác về chính trị và về kinh tế của thực dân Pháp trong hơn 80 năm đô hộ Việt Nam đuợc viết ngắn gọn, cô đúc, trong khi đoạn văn nói về việc Pháp bán nuớc ta cho Nhật, về việc ta giành lại nuớc từ tay Nhật lại được viết khá tỉ mỉ, kỹ càng. Vì sao vậy ? - Vì vào lúc ấy, trước công luận trong nước ta và trên thế giới, tội ác của bọn thực dân ở thuộc địa đã là một thực tế quá hiển nhiên. Trong khuôn khổ một bản Tuyên ngôn - một loại hình văn bản rất cần sức mạnh của sự nén dồn, cô đúc, những tội ác này hoàn toàn có thể nêu dưới dạng những lời kết án gọn gàng, đanh thép. - Nhưng những điều Bác nói đến trong đoạn văn sau lại khác. Bác Hồ đã sáng suốt lường trước được rằng, sẽ không ít nguời vô tình hoặc hữu ý cho rằng chúng ta giành độc lập từ tay thực dân Pháp. Thiếu một chút sáng suốt, một chút khôn khéo ở đây, ta dễ có thể bị quy là chống lại một thành viên chủ chốt của đồng minh, chống lại những điều ước cho những nước thắng trận có quyền thu lại những mảnh đất cũ của mình. - Một điều có tầm quan trọng sống còn đối với nền độc lập của đất nước như thế, không thể nào coi nhẹ. Nên dù là Tuyên ngôn, Bác Hồ vẫn phải dụng công phân giải, bằng hàng loạt câu văn chia thành các vế phân biệt với nhau, với sự nhấn rất mạnh trong ngữ điệu. Ví như: “Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” đuợc ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nuớc ta hai lần cho Nhật”. MO O N.VN “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nuớc ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa”. “Sự thật là dân ta đã lấy lại nuớc Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Đó là những câu văn mang ý nghĩa sinh tử trong một bản tuyên ngôn. - Về nghệ thuật: Đoạn văn tố cáo tội ác thực dân Pháp là một điển hình mẫu mực về văn chương chính luận. Những dẫn chứng đưa ra đều có sự chọn lọc. Đặc biệt lời văn vừa súc tích vừa truyền cảm. Bác không viết “chúng đàn áp các cuộc khởi nghĩa của ta một cách dã man” mà viết: “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu”. Hành động đàn áp đã được diễn đạt bằng hình tuợng “tắm”. Mức độ dã man đã được hình tượng hoá thành “bể máu”. Cách diễn đạt hình tượng này vừa lột trần đuợc bộ mặt quỷ sứ khát máu nguời của bọn thực dân, vừa diễn tả được nỗi đau thê thảm của nhân dân ta, những nguời dân vô tội đang quằn quại trong “vòng tử địa” (Đuờng Kách mệnh). Đúng là tư tưởng chính trị đã đuợc thể hiện bằng một câu văn miêu tả tuyệt vời có sức lay động mạnh mẽ cả nhận thức và tình cảm của người đọc. 3. Bản tuyên ngôn thể hiện quyết tâm lớn. - Khép lại bản tuyên ngôn Bác trịnh trọng tuyên bố: “ Nước VN có quyền …ấy”đoạn văn ngắn, lời gọn và ý sâu. - Độc lập dân tộc còn đuợc khẳng định trên cơ sở thực tiễn về phía Việt Nam. Ở đây, Tuyên ngôn đã khẳng định “Việt Nam có quyền và thực tế đã là một nước giành được tự do độc lập”. + Thực tế Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập bởi vì chính nhân dân Việt Nam chứ không phải ai đã đứng về phe đồng minh chống phát xít: “Một dân tộc đã gan góc chống ách đô hộ của thực dân Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít Nhật suốt mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải đuợc độc lập”. Trong một đoạn văn ngắn hai lần xuất hiện từ gan góc, bốn lần dùng từ dân tộc. Hai đoạn văn của bản Tuyên ngôn lặp lại như hai http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI nhát dao chém xuống mỗi lúc một mạnh hơn. Nguời đòi quyền cho dân tộc nên 20 lần nhắc tới chữ quyền trong những câu văn hào hùng đanh thép. + Không những khẳng định quyền mà bản Tuyên ngôn còn khẳng định thực tế Việt Nam đã giành được độc lập. Cách lập luận của tác giả ở đây cũng thật chặt chẽ, sắc sảo. Bác chỉ rõ Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp vì Pháp đã bán rẻ Việt Nam cho Nhật. Nước ta cũng không còn là thuộc địa của Nhật vì sau khi Nhật đầu hàng đồng minh thì nhân dân ta đã giành lại nước từ tay Nhật. Hơn nữa Việt Nam đã có Chính phủ lâm thời đại diện chân chính cho nhân dân Việt Nam. Để khẳng định sự thật này, Nguời viết Tuyên ngôn độc lập láy đi láy lại hai lần chữ “sự thật”. “Sự thật là, sự thật là” và cuối cùng thì “Nuớc Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Đây là những điệp khúc tiếp nối nhau tăng thêm âm huởng hùng biện của bản tuyên ngôn. + Một câu hỏi đặt ra đối với dư luận quốc tế lúc bấy giờ là “dân tộc VN có khả năng làm chủ vận mệnh của mình hay không? HCM đã đưa ra những lí lẽ sắc bén để khẳng định: Nếu TD Pháp phản bội đồng mình, dâng Đông Dương hai lần cho Nhật thì thì dân tộc VN đã anh dũng chống Nhật, giành lại độc lập. Nếu thực dân Pháp tàn bạo, vô nhân đạo trong hành động thẳng tay khủng bố Việt Minh, giết tù chính trị trước khi bỏ chạy, thì nhân dân VN vẫn giữ thái độ khoan hồng, nhân đạo. Một dân tộc bất khuất, kiên cường và nhân nghĩa như thế hoàn toàn xứng đáng và đầy đủ khả năng để có thể bảo vệ quyền tự quyết của mình. + Người khẳng định: “ Nước VN có quyền”, “và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Bác vừa khẳng định vừa tuyên bố công khai. Mấy tiếng “có quyền”, và “sự thật” mạnh mẽ rắn chắc như chân lí. + Người bày tỏ quyết tâm: “Toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Bác vừa thể hiện quyết tâm lớn lại vừa như kêu gọi đồng bào cả nước đồng lòng, chung sức để giữ gìn độc lập, tự do đã giành được. - Vị trí của những câu kết “Chúng tôi tin rằng các nuớc Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu kim sơn, quyết không thể công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam. MO O N.VN Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống Phát xít mấy năm, dân tộc đó phải đuợc tự do! Dân tộc đó phải đuợc độc lập!” - Những câu văn được diễn đạt giống như định luật, định lí với đầy đủ giả thiết và kết luận. Một cách đặt câu như thế giúp rất nhiều cho câu văn và cho sự lập luận trở nên đanh thép, hùng hồn, không thể nào bác bỏ. - Nếu cần phải tìm trong bản Tuyên ngôn này một câu văn chứa đựng đầy đủ hơn cả nội dung của toàn tác phẩm thì cần phải chọn câu: “Nước Việt Nam có quyền huởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự độc lập”. - Như vậy, phần kết thúc bản tuyên ngôn, tác giả tiếp tục khẳng định lòng yêu nước, nguyện vọng độc lập dân tộc của nhân dân ta vừa trên cơ sở công lý vừa trên cơ sở thực tiễn. Về mặt công lý, nếu họ đã công nhận quyền độc lập dân tộc tự quyết tại hai hội nghị: Tê hê răng (1943) và Cựu Kim Sơn (1945) thì họ nhất định sẽ phải công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta sẽ phát huy truyền thống yêu nước bất khuất để giữ vững quyền tự do độc lập ấy: “Toàn thể dân tộc Việt Nam… quyền tự do độc lập ấy”. - Bản Tuyên ngôn đã kết thúc bằng câu văn khẳng định lòng yêu nước giống như một lời thề quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đặt trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam, Tuyên ngôn độc lập là đỉnh cao của văn học yêu nước. Từ “Nam quốc sơn hà”, “Bình ngô đại cáo” đến Tuyên ngôn độc lập là những chặng đường khác nhau của cùng một chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH (tiết 3) III. Kết luận 1. Giá trị của bản tuyên ngôn - Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, chính trị hết sức quan trọng và có ý nghĩa vô cùng to lớn: + Văn kiện ấy đã trang trọng tuyên ngôn về nền độc lập của tổ quốc Việt Nam sau ngót trăm năm phải sống dưới xiềng xích thực dân. + Văn kiện ấy còn tuyên bố sự cáo chung của chế độ quân chủ đã tồn tại mấy mươi thế kỉ. + Văn kiện ấy còn là phát súng mở màn cho phong trào đấu tranh giải phóng ở các nước thuộc địa trên toàn thế giới. - Tuyên ngôn Độc lập là một bài văn chính luận mẫu mực: văn phong khúc chiết, ngắn gọn, lập luận chặt chẽ đanh thép, lời lẽ hùng hồn và đầy sức thuyết phục. 2. Nghệ thuật - Là áng văn chính luận mẫu mực. - Lập luận chặt chẽ thống nhất trong toàn bài. - Cách sử dụng từ ngữ phù hợp, văn giàu hình ảnh, khắc sâu ấn tượng, kết hợp cảm xúc… 2.1. Bản Tuyên ngôn độc lập có kết cấu chặt chẽ lập luận đanh thép Tác phẩm gồm 3 phần có mối quan hệ hữu cơ bổ sung cho nhau: + Phần 1 nêu cơ sở pháp lý, đặt cơ sở lý luận: + Phần 2 soi sáng chứng minh bằng thực tiễn: + Phần cuối rút ra kết luận. Các phần lại liên hệ với nhau bằng những liên từ, những cụm quan hệ từ chặt chẽ như những mắt xích. - Phần thứ nhất - phần nêu chân lí – đã nêu được nguyên lí làm cơ sở cho bản tuyên ngôn, đó là “quyền được hưởng độc lập, tự do, bình đẳng, hạnh phúc” của mọi dân tộc trên thế giới”, kết thúc ở câu: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi đuợc”. MO O N.VN + Kết thúc phần đầu chuyển sang phần hai, tác giả sử dụng liên từ “Thế mà” như để báo truớc những hành động Pháp đuợc dẫn ra tiếp theo sẽ trái hẳn lẽ phải và nhân đạo, chứng tỏ rằng chúng đã phản bội chính ngay những điều đuợc nêu lên trong các bản Tuyên ngôn của chúng + Kết thúc phần II chuyển sang phần 3 tác giả sử dụng cụm liên từ “bởi thế cho nên” như để khẳng định hai phần trên là nguyên nhân còn phần cuối là kết quả. Đã coi quyền tự do, bình đẳng giữa các dân tộc là lẽ phải không thể chối cãi, đã coi việc chúng ta giành lại được đất nuớc từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp là thực tế không thể nào bác bỏ, thì việc chúng ta thoát li hẳn các mối quan hệ thực dân với Pháp để trở thành một nước tự do độc lập phải là một sự đương nhiên, chính đại quang minh như trời đất, sáng tỏ như nhật nguyệt. Rõ ràng, Tuyên ngôn độc lập là một chỉnh thể thống nhất, với các yếu tố quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau. Cách lập luận của tác giả là dùng lời lẽ của đối phuơng để bác bỏ đối phương và luôn có sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. 2.2. Giọng văn thay đổi linh hoạt phù hợp với đối tuợng và nội dung - Nói với công luận quốc tế thì giọng văn uyên bác, thể hiện một trí tuệ sắc sảo, dẫn những lời tuyên ngôn nổi tiếng làm cơ sở cho lập luận. - Viết với đồng bào cả nước thì lời văn tình cảm thiết tha. Về điều này Chế Lan Viên đã nhận xét thật chính xác: “Vì nói với đồng bào lời văn của bản Tuyên ngôn xiết bao xúc động…sau 13 chữ “quyền” là 14 câu, câu nào cũng có chữ “chúng” mở đầu nặng như búa tạ: “Chúng tuyệt đối không cho”, “chúng thi hành những luật pháp dã man”, “chúng cuớp không ruộng đất” và mỗi chữ chúng ấy http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98 KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI nhuư xiết xuống chữ “ta” làm xúc động lòng ngời: “chúng cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta, tuyệt đối không cho nhân dân ta chút quyền tự do dân chủ nào”. - Khi khẳng định độc lập, tự do thì lời văn trang trọng thiêng liêng. “Chúng tôi trịnh trọng tuyên bố” - Khi tố cáo tội ác kẻ thù thì giọng văn bi thiết. - Khi nêu cao truyền thống yêu nuớc thì giọng văn hào hùng sảng khoái. 2.3. Ngôn ngữ vừa chính xác vừa gợi cảm, truyền cảm. Vì là văn kiện chính trị nên mỗi chữ mỗi lời cần phải chính xác tuyệt đối. Vì là tác phẩm văn học nên mỗi chữ mỗi lời lại có sức mạnh gợi cảm truyền cảm lớn lao. - Khi tác giả viết: “chúng tuyệt đối không cho dân ta chút quyền tự do dân chủ nào” thì hai chữ “tuyệt đối” vừa nhấn mạnh vừa làm chính xác thêm ý văn. Chỉ bằng chín chữ : “Pháp chạy, Nhật hàng, Vua Bảo Đại thoái vị” mà câu văn đã khái quát đuợc những sự kiên chính trị, những biến cố quan trọng nhất của lịch sử lúc bấy giờ. Những sự kiện này đặt liên tiếp cạnh nhau trong câu văn ngắn gọn đem đến sự cảm nhận về sự thất bại thảm hại, nhanh chóng của kẻ thù và khí thế thần tốc của cách mạng tháng Tám. Những tư tuởng chính trị đuợc diễn đạt bằng những hình tượng vừa gợi cảm vừa truyền cảm: tác giả không viết: Pháp đầu hàng Nhật một cách nhục nhã mà viết “thực dân Pháp quỳ gối mở cửa nước ta ruớc Nhật”. Câu văn hình tuợng đã diễn tả được thái độ hèn nhát và tự ti nô lệ của Pháp trước Nhật. ĐỀ LUYỆN TẬP ĐỀ 1: - "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu nói ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói" Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” - "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy". a, Hai đoạn trích trên thuộc tác phẩm nào? Vị trí của đoạn trích trong tác phẩm? Tác giả nào? Tác phẩm được soạn thảo năm nào và được công bố ở đâu? b, Hãy phân tích ngắn gọn nội dung, ý nghĩa và văn phong hai đoạn trích trên. Gợi ý: I. Hai đoạn trích trên trong tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập” - Đoạn trích thứ nhất là phần mở đầu tuyên ngôn, đoạn trích thứ hai là đoạn kết. - Tác giả: Hồ Chí Minh. - Tác phẩm được soạn thảo vào năm 1945, ở căn gác số 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội. - Ngày 02/09/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào. II. Nội dung, ý nghĩa MO O N.VN http://moon.vn - hotline: 04.32.99.98.98
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan