Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Tiểu học Skkn dạy thể dục lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực học sinh...

Tài liệu Skkn dạy thể dục lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực học sinh

.DOC
34
64
97

Mô tả:

Như chúng ta đã biết sức khỏe – trí tuệ là những thứ quí giá nhất của mỗi con người. Tập thể dục thể thao (TDTT) góp phần tích cực nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần, nâng cao năng suất lao động và sức chiến đấu của mỗi con người. Trong sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng mục tiêu phát triển con người toàn diện, khẳng định tầm quan trọng “Phát triển Giáo dục và Đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là điều kiện phát huy nguồn nhân lực”. Vì vậy mà mục tiêu giáo dục được đặt ra là “Giáo dục toàn diện nhân cách con người lao động chủ động, sáng tạo”. Trong đó mục tiêu giáo dục tiểu học là “Hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở…”. Như vậy, môn thể dục ở tiểu học đóng một vai trò không nhỏ trong việc hoàn thành mục tiêu giáo dục tiểu học. Để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ của môn thể dục ở tiểu học thì “Bài thể dục phát triển chung” đóng vai trò khá quan trọng, giúp phát triển thể lực, tạo hứng thú cho các em, hình thành những kỹ năng vận động và có sự tác động trực tiếp tích cực đến việc rèn luyện sức khỏe và ý chí phẩm chất đạo đức của các em. Để học sinh yêu thích và học tốt “Bài thể dục phát triển chung”, với vai trò là người giáo viên dạy chuyên thể dục tôi luôn băn khoăn suy nghĩ nhằm tìm ra biện pháp hợp lý nhất tạo hứng thú cho các em trong học tập và rèn luyện, giúp các em chủ động, tích cực trong học tập. Vì vậy năm học này tôi quyết định lựa chọn đề tài “Một số biện pháp dạy thể dục lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực học sinh dạng bài “Bài thể dục phát triển chung” làm đề tài nghiên cứu, với mong muốn được chia sẻ với các bạn đồng nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong trường tiểu học Nghĩa Dân nói riêng và ngành giáo dục tiểu học nói riêng.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KIM ĐỘNG TRƯỜNG TIỂU HỌC NGHĨA DÂN ------------------------***---------------------- MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY THỂ DỤC LỚP 4 THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH DẠNG BÀI “BÀI THỂ DỤC PHÁT TRIỂN CHUNG” LĨNH VỰC : THỂ DỤC TÁC GIẢ : CAO THỊ KIM HƯỜNG CHỨC VỤ : GIÁO VIÊN TÀI LIỆU ĐÍNH KÈM : ĐĨA CD NGHĨA DÂN, THÁNG 01 NĂM 2020 1 SƠ LƯỢC LÍ LỊCH CÁ NHÂN Họ và tên tác giả: Cao Thị Kim Hường Ngày, tháng, năm sinh: 11/10/1982 Chức vụ: Giáo viên Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm Thể dục thể thao Năm nhập ngành: 2004 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nghĩa Dân Tên sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp dạy thể dục lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực học sinh dạng bài “Bài thể dục phát triển chung” Lĩnh vực nghiên cứu: Thể dục Thời gian nghiên cứu: Năm học 2018-2019 Thời gian thực nghiệm: Năm học 2019-2020 MỤC LỤC Nội dung Trang PHẦN I. MỞ ĐẦU 3 1. Đặt vấn đề 3 1.1. Thực trạng của vấn đề 3 1.2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới 3 1.3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3 1.3.1 .Đối tượng nghiên cứu 3 1.3.2 Khách thể nghiên cứu 3 1.4 .Nhiệm vụ nghiên cứu 3 2. Phương pháp tiến hành 4 2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn có định hướng cho việc 4 nghiên cứu tìm giải pháp của đề tài 2.1.1. Thế nào là dạy học theo định hướng phát triển năng lực 4 học sinh? 2.1.2. Những năng lực cần được phát triển cho học sinh tiểu 5 học trong dạy học giáo dục thể chất 2.1.3. Đặc điểm tâm lý học sinh lớp 4 trong dạy học thể dục 2.1.4. Mục tiêu dạy học môn thể dục lớp 4 2.1.5. Nội dung chương trình môn thể dục lớp 4 2.1.7. Thực trạng việc dạy và học môn Thể dục nói chung và 5 6 6 7 dạy “Bài thể dục phát triển chung”nói riêng ở trường TH Nghĩa Dân 2.2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo giải pháp 2.2.1. Phương pháp nghiên cứu: 2.2.2. Thời gian tạo ra giải pháp PHẦN II. NỘI DUNG 1. Mục tiêu của đề tài 2. Một số biện pháp tổ chức tốt các hoạt động dạy học môn 8 8 9 10 10 10 thể dục lớp 4 dạng “Bài thể dục phát triển chung” theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở trường tiểu học Nghĩa Dân 2.1. Biện pháp 1: Xoá bỏ quan niệm về môn học phụ trong 10 GV và HS 2.2. Biện pháp 2: Đổi mới PPDH theo hướng phát triển 13 năng lực HS. 2.3. Biện pháp 3: Tạo môi trường học tập thân thiện, vui 17 tươi 3. Thực nghiệm sư phạm 19 3.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm 3.2. Nội dung thực nghiệm sư phạm 3.3. Tổ chức thực nghiệm sư phạm 3.4.Đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm PHẦN III. KẾT LUẬN 1. Những nhận định chung 2. Những bài học rút ra cho bản thân và đồng nghiệp sau quá trình nghiên cứu và thực hiện 3. Một số ý kiến đề xuất 3.1. Đối với phòng GD&ĐT Kim Động 3.2. Đối với Hiệu trưởng trường Tiểu học Nghĩa Dân 3.3.Đối với giáo viên PHỤ LỤC 19 19 20 20 22 22 22 23 23 23 23 26 Phần I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề 1.1. Thực trạng của vấn đề: Như chúng ta đã biết sức khỏe – trí tuệ là những thứ quí giá nhất của mỗi con người. Tập thể dục thể thao (TDTT) góp phần tích cực nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần, nâng cao năng suất lao động và sức chiến đấu của mỗi con người. Trong sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng mục tiêu phát triển con người toàn diện, khẳng định tầm quan trọng “Phát triển Giáo dục và Đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là điều kiện phát huy nguồn nhân lực”. Vì vậy mà mục tiêu giáo dục được đặt ra là “Giáo dục toàn diện nhân cách con người lao động chủ động, sáng tạo”. Trong đó mục tiêu giáo dục tiểu học là “Hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở…”. Như vậy, môn thể dục ở tiểu học đóng một vai trò không nhỏ trong việc hoàn thành mục tiêu giáo dục tiểu học. Để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ của môn thể dục ở tiểu học thì “Bài thể dục phát triển chung” đóng vai trò khá quan trọng, giúp phát triển thể lực, tạo hứng thú cho các em, hình thành những kỹ năng vận động và có sự tác động trực tiếp tích cực đến việc rèn luyện sức khỏe và ý chí phẩm chất đạo đức của các em. Để học sinh yêu thích và học tốt “Bài thể dục phát triển chung”, với vai trò là người giáo viên dạy chuyên thể dục tôi luôn băn khoăn suy nghĩ nhằm tìm ra biện pháp hợp lý nhất tạo hứng thú cho các em trong học tập và rèn luyện, giúp các em chủ động, tích cực trong học tập. Vì vậy năm học này tôi quyết định lựa chọn đề tài “Một số biện pháp dạy thể dục lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực học sinh dạng bài “Bài thể dục phát triển chung” làm đề tài nghiên cứu, với mong muốn được chia sẻ với các bạn đồng nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong trường tiểu học Nghĩa Dân nói riêng và ngành giáo dục tiểu học nói riêng. 3 1.2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn của dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS trong dạy học Thể dục dạng bài “Bài thể dục phát triển chung” lớp 4 ở trường tiểu học Nghĩa Dân, đề xuất một số biện pháp tổ chức tốt các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS với mong muốn góp phần nâng cao trình độ của bản thân, nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn hội nhập. Đồng thời qua đây, tôi mong muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi của đồng nghiệp để đề tài thực sự khả thi, có giá trị trong hoạt động dạy và học ở các trường tiểu học. 1.3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu: 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp dạy học môn thể dục lớp 4 dạng bài “Bài thể dục phát triển chung” theo định hướng phát triển năng lực HS. 1.3.2. Khách thể nghiên cứu: GV và HS lớp 4 trường tiểu học Nghĩa Dân. 1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận về dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS tiểu học và tâm lý của HS lớp 4 trong học Thể dục. - Tìm hiểu thực trạng việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS trong dạy thể dục lớp 4 ở trường tiểu học Nghĩa Dân. - Đề xuất một số biện pháp dạy học môn thể dục lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực HS dạng bài “Bài thể dục phát triển chung” ở trường Tiểu học Nghĩa Dân. - Thực nghiệm sư phạm để đánh giá kết quả nghiên cứu và rút ra các bài học kinh nghiệm để dạy học môn Thể dục lớp 4 theo định hướng PTNLHS. 2. Phương pháp tiến hành 2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên cứu tìm giải pháp của đề tài 2.1.1. Thế nào là dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS? Các nhà lí luận và phương pháp học cho rằng: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS là một xu hướng giáo dục tiên tiến trên thế giới. Trong đó, 4 mục tiêu giáo dục không dừng lại ở những kiến thức và kĩ năng mà đặc biệt chú trọng đến năng lực HS – khả năng thực hiện thành công các hoạt động trong các bối cảnh thực tiễn cuộc sống trên cơ sở vận dụng không chỉ kiến thức, kĩ năng mà còn bày tỏ cả thái độ, tình cảm và những phẩm chất tâm lí. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS “chú trọng việc hình thành cho HS năng lực nhận thức, năng lực tự học, các kĩ năng giải quyết vấn đề, HS được học, được làm quen cách hòa nhập, cách thích ứng với môi trường và cộng đồng trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Từ đó, HS sẽ hình thành những năng lực cơ bản đầu tiên. Theo định hướng của UNESCO: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định và học cùng chung sống”. 2.1.2. Những năng lực cần được phát triển cho học sinh tiểu học trong dạy học giáo dục thể chất Mỗi môn học ở Tiểu học góp phần hình thành và phát triển những năng lực chung cơ bản cho các em đồng thời góp phần phát triển những năng lực đặc thù riêng. Môn Thể dục ở Tiểu học góp phần phát triển năng lực chăm sóc sức khỏe, năng lực vận động cơ bản, năng lực hoạt động thể dục thể thao. Đồng thời môn Thể dục giúp HS phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực vận động cơ bản. 2.1.3. Đặc điểm tâm lý HS lớp 4 trong học Thể dục HS lớp 4 (9 – 10 tuổi), là lứa tuổi đang có nhiều chuyển biến về tâm – sinh lí và tư duy. Hành động của các em chuyển dần từ thụ động, giản đơn sang trạng thái tương đối chủ động và linh hoạt. Lứa tuổi này, bước đầu các em đã có khả năng phân tích và tổng hợp đơn giản, biết tự điều chỉnh những hoạt động của bản thân nhưng ở mức độ không cao. HS đã có ý thức và khả năng tự quản tương đối tốt, biết phối hợp và giúp đỡ nhau trong học tập và rèn luyện, nhưng còn kém linh hoạt với những thay đổi trong sinh hoạt tập luyện. Vì vậy các em thường bị động, kém tự tin hoặc phản ứng chậm. Để có được những hiểu biết, kiến thức , các em rất thích được tham gia vào quá trình tìm tòi, sáng tạo. Quá trình hưng phấn chiếm ưu thế, vì vậy các em rất hiếu động. Các em thường ham chơi, ưa hoạt động, thích bắt chước và cố gắng làm 5 theo đúng động tác, điệu bộ, hành vi của GV. Ở lớp 4, HS đã có thể thực hiện được một số kĩ năng vận động cơ bản ở mức khá thành thạo, có khả năng phối hợp vận động tương đối tốt; mức độ phức tạp của động tác kĩ thuật và biên độ hoạt động của các động tác được các em thể hiện cao hơn so với các lớp dưới. Tuy nhiên những kĩ năng đó còn ở mức độ thấp, mang nặng tính tự nhiên và chưa bền vững. 2.1.4. Mục tiêu dạy học môn Thể dục ở lớp 4 - Góp phần bảo vệ, tăng cường sức khoẻ, phát triển các tố chất thể lực, tiếp tục hình thành thói quen thường xuyên luyện tập TDTT cho HS. - Trang bị cho HS một số hiểu biết và những kĩ năng cơ bản về Đội hình đội ngũ, Thể dục rèn luyện tư thế và kĩ năng vận động cơ bản, Trò chơi vận động và môn tự chọn; củng cố làm giàu thêm vốn kĩ năng vận động cơ bản cần thiết thường gặp trong đời sống như đi, chạy, nhảy, ném, … phù hợp với khả năng, trình độ và đặc điểm tâm lí lứa tuổi, giới tính của các em. - Góp phần giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh, hình thành nhân cách con người mới, - Tạo điều kiện cho HS vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã học để tự tập luyện và vui chơi hằng ngày. 2.1.5. Nội dung chương trình môn Thể dục lớp 4 Chương trình môn Thể dục lớp 4 gồm 70 tiết, mỗi tuần HS được học 2 tiết. Trong đó học kỳ I là 18 tuần dạy 36 tiết, học kỳ II là 17 tuần dạy 34 tiết, bao gồm 5 mạch kiến thức cơ bản: Nội dung 1: Đội hình đội ngũ Nội dung 2: Bài thể dục phát triển chung Nội dung 3: Bài tập rèn luyện tư thế và kĩ năng vận động cơ bản: Nội dung 4: Trò chơi vận động: Nội dung 5: Môn tự chọn: Trong 5 nội dung trên, “Bài thể dục phát triển chung” được dạy trong 14 tiết từ tuần 8 đến hết tuần 15 gồm các bài từ Bài 16 đến bài 30. Nội dung gồm 8 động tác cơ bản: Vươn thở; Tay; Chân; Lưng - bụng; Phối hợp; Thăng bằng; Nhảy và Điều hoà. 6 Yêu cầu của nội dung này là: - Biết và thực hiện cơ bản đúng từng động tác (đúng nhịp, đúng phương hướng, biên độ). - Biết vận dụng để tự tập hàng ngày. 2.1.7. Thực trạng việc dạy và học môn Thể dục nói chung và dạy “Bài thể dục phát triển chung” nói riêng ở trường TH Nghĩa dân Trong nhiều năm trước đây, trường tiểu học Nghĩa Dân là trường có nhiều lớp, không có giáo viên dạy chuyên thể dục mà GV dạy văn hoá dạy tổng thể tất cả các môn. Hơn nữa cơ sở vật chất chưa đảm bảo, trường không có sân tập đảm bảo quy định, HS phải tập trên sân bê tông, do vậy HS không được tập luyện thường xuyên và kĩ thuật tập luyện còn nhiều hạn chế. Hơn nữa với quan niệm môn Thể dục là môn phụ nên GV dạy qua loa cho đủ tiết, cho hết chương trình, GV chưa chú ý đến việc đổi mới phương pháp dạy học, chưa quan tâm rèn rũa HS, dẫn đến chất lượng học tập môn thể dục trong nhà trường chưa cao. Để có kết quả cụ thẻ, tôi tiến hành khảo sát “Bài thể dục phát triển chung” l ớp 4A cu ối năm h ọc 2018-2019. Kết quả như sau: Kết quả HS tập đúng động tác HS tập chưa đúng động tác Số HS Thực hiện đúng Thực hiện đúng Chưa nhớ từng Nhầm lẫn được nhịp, phương nhịp nhưng chưa nhịp của động động tác khảo hướng, biên độ thực hiện đúng tác sát động tác phương hướng, 32 SL 5 % 16 biên độ động tác SL % 23 72 SL 2 % 6 SL 2 các % 6 Qua kết quả khảo sát và quá trình theo dõi tôi thấy, đối với “Bài thể dục phát triển chung” hầu hết các em nhớ tên động tác, tập đúng các thao tác nhưng về kĩ thuật còn rất nhiều thiếu sót. Cụ thể: Thứ nhất: Không thực hiện đúng phương hướng, biên độ động tác, các động tác tay giơ cao các em không đưa tay lên hết biên độ hoặc co tay, cúi đầu. 7 Thứ hai: Không thực hiện các động tác hít vào và thở ra hoặc không thực hiện đúng theo nhịp hô. Ví dụ như động tác vươn thở và điều hoà và động tác nhảy, các em tập như các động tác khác. Thứ ba: Không biết cách chuyển trọng tâm ở động tác toàn thân. Thứ tư: Không thẳng chân khi gập bụng hoặc đá chân. Nói tóm lại, các em tập đúng các thao tác, các nhịp của động tác nhưng kĩ thuật thì chưa đảm bảo. * Nguyên nhân của những hạn chế trên: + Về phía GV: - GV dạy thể dục không phải là GV chuyên, GV không được đào tạo, bồi dưỡng những kĩ năng cơ bản của thể dục. - Khi dạy, GV đã quen thuộc với PPDH truyền thống, hơn nữa với tâm lý sợ HS không biết tập, không tập đúng các động tác nên GV vẫn làm thay, nói thay HS rất nhiều. Với mỗi nội dung kiến thức, GV đều làm mẫu, giảng giải, hướng dẫn HS làm theo. Hầu hết GV chưa mạnh dạn để cho HS tự làm, tự trải nghiệm, tự khám phá tìm tòi kiến thức. - Tâm lý GV chưa coi trọng môn Thể dục nên chưa tập trung rèn luyện cho các em mà chỉ dạy cho đủ tiết, đủ chương trình. + Về phía HS: - HS chỉ biết tập đúng các thao tác chứ chưa hiểu thế nào là đúng kĩ thuật. - Tâm lý hiếu động, các em chỉ thích chơi trò chơi nên các em tập các động tác nhanh chóng để được chơi trò chơi. 2.2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo giải pháp 2.2.1. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích tổng hợp và hệ thống hoá các tài liệu, văn bản có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, phỏng vấn, quan sát thực tiễn, đánh giá thực trạng tổ chức dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS trong dạy học môn Thể dục lớp 4 dạng bài Bài thể dục phát triển chung. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm sư phạm để 8 đánh giá tính hiệu quả và khả thi của các nội dung được đề xuất. 2.2.2. Thời gian tạo ra giải pháp Năm học 2018-2019: Nghiên cứu lý luận, quan sát thực trạng và hệ thống những tồn tại hạn chế của GV và HS trong quá trình tổ chức dạy học Thể dục lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực HS. Năm học 2019-2020: Đề xuất và áp dụng các biện pháp vào thực tế dạy học Thể dục lớp 4A trường tiểu học Nghĩa Dân và viết báo cáo sáng kiến. PHẦN II. NỘI DUNG 1. Mục tiêu của đề tài 9 Trên cơ sở nghiên cứu những tài liệu liên quan đến dạy học theo định hướng PTNL; Tìm hiểu tâm lý HS lớp 4 trong học tập môn Thể dục dạng bài “Bài thể dục phát triển chung”; Tìm hiểu thực trạng dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS trong dạy học môn Thể dục lớp 4 ở trường tiểu học Nghĩa Dân đề xuất những biện pháp tổ chức tốt hoạt động DH theo định hướng PTNLHS nhằm góp phần nâng cao năng lực giáo viên, bồi dưỡng cho GV một số kĩ năng cần thiết trong dạy học đồng thời phát triển một số năng lực cần thiết cho HSTH và nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới trong giai đoạn hiện nay. 2. Một số biện pháp tổ chức tốt các hoạt động dạy học môn Thể dục lớp 4 dạng “Bài thể dục phát triển chung” theo định hướng phát triển năng lực HS ở trường Tiểu học Nghĩa Dân 2.1. Biện pháp 1: Xoá bỏ quan niệm về môn học phụ trong GV và HS Lâu nay hầu hết ở các trường Tiểu học GV chỉ chú trọng dạy 2 môn Tiếng Việt và Toán mà không quan tâm lắm đến các môn học khác, đặc biệt là môn Thể dục. Hơn nữa do bậc Tiểu học nhiều trường không có GV dạy chuyên Thể dục, mà GV chủ nhiệm dạy tổng thể các môn học. Do vậy khi lên lớp, GV chỉ tập trung đầu tư thời gian cho 2 môn Toán và Tiếng Việt mà cắt xén chương trình hoặc dạy dồn dạy ghém các môn học khác cho có bài, chứ ít GV dạy đủ chương trình, đảm bảo thời gian cho tiết học chứ chưa nói đến việc đổi mới PPDH, tạo hứng thú cho HS. Mặt khác, HS cũng chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn Thể dục trong việc hình thành và phát triển toàn diện cho các em, nên các em cũng lơ là, không tập trung trong học tập Thể dục. Vì vậy để đảm bảo mục tiêu phát triển toàn diện thì GV và HS trước hết phải hiểu được vị trí, tầm quan trọng của môn Thể dục trong giáo dục nhà trường. Môn Thể dục tập trung phát triển các năng lực chăm sóc sức khỏe, vận động cơ bản và thể dục thể thao, nhằm phát triển các tố chất thể lực của HS; giúp HS phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần; có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động có sức khỏe, có văn hóa, cần cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu 10 của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới. Cái quý nhất của mỗi con người là sức khỏe và trí tuệ. Có sức khỏe tốt sẽ tạo điều kiện cho trí tuệ phát triển được tốt hơn và ngược lại. TDTT giúp chúng ta có được sức khỏe tốt, từ đó có thể học tập tốt, tham gia các hoạt động của nhà trường và xã hội đạt hiệu quả cao. Khi tham gia các hoạt động TDTT đòi hỏi HS phải có tính kỷ luật cao, tinh thần và trách nhiệm trước tập thể, tác phong nhanh nhẹn, sự cố gắng, tính thật thà, trung thực. Chính vì vậy TDTT góp phần giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách HS. Luyện tập TDTT thường xuyên có kế hoạch giúp các em có một nếp sống lành mạnh, vui tươi, học tập và làm việc khoa học. Tập luyện TDTT thường xuyên, đúng phương pháp khoa học sẽ làm cho cơ thể phát triển, thể hiện ở sức nhanh, sức bền độ đàn hồi và linh hoạt của cơ tăng lên, làm tăng hệ thống miễn dịch, tốt cho tim,… Đối với lứa tuổi HSTH đặc biệt là học sinh lớp 4 các em đang ở giai đoạn phát triển về chiều cao, cân nặng nếu được kết hợp với tập luyện đúng phương pháp sẽ phát triển một cách toàn diện về thể chất và con người. Mục tiêu của giáo dục hiện nay là giúp HS phát triển toàn diện, thì môn Thể dục là môn học cốt lõi trong lĩnh vực giáo dục thể chất cho các em. Lĩnh vực giáo dục thể chất nhằm giáo dục HS có cuộc sống khoẻ mạnh cả về thể lực và tinh thần, hình thành văn hoá thể chất thông qua việc trang bị cho HS những kiến thức về sức khoẻ và quản lý sức khoẻ, biết thường xuyên tập luyện phù hợp với bản thân, biết cách thích ứng với các điều kiện sống, lạc quan và chia sẻ với mọi người. TDTT có vai trò quan trọng trong sự phát triển toàn diện con người cũng như toàn xã hội. Ngày 27/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục. Sau khi giành được độc lập cho dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tầm nhìn chiến lược về tương lai của đất nước Việt Nam. Người cho biết, một dân tộc muốn có được sự ổn định, phát triển và thịnh vượng thì phải dựa trên nhiều yếu tố. Trong đó nền tảng sức khỏe của toàn dân là điều kiện tiên quyết không thể thiếu. 11 Bên cạnh đó, Luật Thể dục, thể thao được công bố năm 2006 đã quy định rõ về thể dục và thể thao trong nhà trường. Theo đó, Thể dục là môn học chính khóa thuộc chương trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thông qua các bài tập và trò chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Luật cũng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với thể dục và thể thao trong nhà trường; trách nhiệm của nhà trường với công tác thể dục và thể thao. Đáng lưu ý, Nhà nước có chính sách dành đất đai, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục thể chất và thể thao, bảo đảm đủ GV, giảng viên thể dục thể thao cho các bậc học. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT phối hợp với Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục thể thao xây dựng CT GDTC, đào tạo, bồi dưỡng GV, giảng viên thể dục thể thao, hướng dẫn nội dung hoạt động thể thao ngoại khóa trong và ngoài nhà trường. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc xây dựng cơ sở vật chất… UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm quy hoạch đất đai, xây dựng cơ sở vật chất, nhà tập đa năng, bảo đảm trang thiết bị, dụng cụ thể thao… Hơn nữa, trong chương trình giáo dục thể chất hiện hành, cũng như ở chương trình mới, môn Giáo dục thể chất là môn học bắt buộc, được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 12. Ở các lớp học, bậc học cao hơn, môn Thể dục (hiện hành), môn Giáo dục thể chất mới tiếp tục là chương trình học bắt buộc trong các trường từ Trung cấp, đến Cao đẳng (CĐ), Đại học (ĐH) trên toàn quốc. Trong khi đó, nhiều môn học khác chỉ được học ở một số lớp học, cấp học nhất định, chứ không được học một cách có hệ thống từ tiểu học, THCS, THPT đến các trường trung cấp, CĐ và ĐH. Như vậy, GDTC là môn học được sự quan tâm toàn diện của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, cũng như các cấp, các ngành. Như thế đủ biết vai trò, tầm quan trọng, giá trị, sự ảnh hưởng và lan tỏa của môn Thể dục (hiện hành), môn GDTC trong Chương trình GD mới đến sự phát triển toàn diện cho học sinh lớn như thế nào. Vì vậy, đối với môn Thể dục lớp 4, nhất là “Bài thể dục phát triển chung”: 12 - GV phải dạy đúng, dạy đủ số tiết, đảm bảo nội dung theo phân phối chương trình, đảm bảo thời gian quy định. - Thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học tạo hứng thú cho HS. - Học sinh phải tham gia đầy đủ các buổi học, không tự ý bỏ giờ, bỏ tiết. - Thực hiện trang phục và các khẩu lệnh theo đúng yêu cầu của GV. - Trong giờ học, HS phải tập trung chú ý, hợp tác với bạn bè và GV để hoàn thành mục tiêu bài học. 2.2. Biện pháp 2: Đổi mới PPDH theo hướng phát triển năng lực HS. Khi dạy học “Bài thể dục phát triển chung” GV thường sử dụng các PPDH truyền thống như: Phương pháp làm mẫu, phương pháp thuyết trình giảng giải và phương pháp luyện tập. Quy trình để dạy 1 động tác mới của “Bài thể dục phát triển chung” GV thường làm như sau: Bước 1: GV nêu tên động tác (Có thể giới thiệu nhanh động tác đó qua tranh ảnh). Bước 2: GV làm mẫu (lần 1) hoàn chỉnh động tác, sau đó vừa làm mẫu (lần 2), vừa phân tích động tác rồi cho HS tập theo. Cũng có thể GV vừa làm mẫu, vừa phân tích từng nhịp của động tác kết hợp cho HS tập theo. Đối với động tác có cử động đơn giản thì GV đứng quay mặt về phía HS vừa phân tích nhịp, vừa làm mẫu từng nhịp và cho HS tập theo. Đối với động tác có cử động phức tạp thì GV đứng quay lưng về phía HS (tập cùng chiều), vừa phân tích nhịp, vừa làm mẫu chậm để HS tập theo vài lần, sau đó mới quay mặt về phía HS. Bước 3: Cho HS tập luyện theo tổ, GV quan sát, sửa lỗi cho HS. Bước 4: Lớp tập trung, từng tổ biểu diễn trước lớp. HS ôn tập cả lớp một vài lần trước khi chuyển sang hoạt động khác. Với PPDH như trên dễ gây cho HS tâm lý nhàm chán và tập theo kiểu chống đối. HS tập theo GV kiểu bắt chước chứ thực sự các em chưa nắm chắc từng thao tác kĩ thuật hay biên độ từng nhịp của động tác. Vì vậy đổi mới PPDH, tạo hứng thú cho học sinh là rất quan trọng và cần thiết. GV cần đối mới PPDH theo hướng 13 phát triển năng lực HS, khiến HS chủ động, tích cực khám phá và tiếp thu kiến thức, HS yêu thích và tập các động tác của “Bài thể dục phát triển chung” một cách nhiệt tình, tích cực. Quy trình dạy “Bài thể dục phát triển chung” lớp 4 mà tôi đã dạy như sau: Bước 1: Sau hoạt động khởi động, GV giới thiệu động tác, cho HS quan sát tranh (hoă ̣c quan sát động tác mẫu của GV), yêu cầu HS đọc tài liê ̣u hoă ̣c dựa vào câu hỏi gợi ý của GV, thảo luâ ̣n nhóm, phân tích kĩ thuật của động tác. Bước 2: HS tập mẫu, lớp thảo luận, phân tích, thống nhất thao tác kĩ thuật từng nhịp của động tác, GV chốt kiến thức. Bước 3: HS tập luyện theo tổ, GV theo dõi, uốn nắn. Bước 4: Lớp tập trung, từng tổ biểu diễn trước lớp, nhận xét đánh giá. Bước 5: Lớp ôn tập lại một vài lần trước khi chuyển sang hoạt động mới. Ví dụ: Khi dạy “động tác chân” ở bài 17 “Động tác chân – Trò chơi Nhanh lên bạn ơi”, tôi thực hiện như sau: Sau phần mở đầu, ôn các động tác đã học, GV giới thiệu động tác mới và tiến hành thực hiện các bước cơ bản sau: Bước 1: - GV tập mẫu 1 lượt, yêu cầu HS quan sát. - Yêu cầu HS thảo luận theo nhóm nội dung phiếu học tập sau: PHIẾU HỌC TẬP THEO NHÓM Quan sát cô giáo tập mẫu kết hợp quan sát tranh, nêu kĩ thuật từng nhịp của động tác (Thời gian thảo luận 5 phút). 14 Nhịp 1: …………………………………………………………………….. Nhịp 2: …………………………………………………………………….. Nhịp 3: …………………………………………………………………….. Nhịp 4: …………………………………………………………………….. Nhịp 5: …………………………………………………………………….. Nhịp 6: …………………………………………………………………….. Nhịp 7: …………………………………………………………………….. Nhịp 8: …………………………………………………………………….. Trong quá trình HS thảo luận, tôi đến từng nhóm kiểm tra, giúp đỡ các em. Bước 2: - Lớp tập trung, yêu cầu 1 HS đại diện cho 1 nhóm lên tập mẫu và nêu thao tác kĩ thuật từng nhịp của động tác. - Lớp thảo luận, phân tích, thống nhất thao tác kĩ thuật từng nhịp của động tác. - GV chốt thao tác, kĩ thuật từng nhịp của động tác. GV có thể giải thích kĩ thuật cụ thể hơn giúp HS nắm chắc hơn kĩ thuật từng nhịp của động tác. + Nhịp 1: Từ tư thế cơ bản (Tư thế nghiêm, chân đứng hình chữ V, mắt nhìn thẳng) , đá chân trái ra trước lên cao, đồng thời hai tay dang ngang bàn tay úp. + Nhịp 2: Hạ chân trái về trước đồng thời khuỵu gối, chân phải thẳng và kiễng gót, hai tay đưa ra trước, bàn tay sấp, mắt nhìn thẳng. 15 + Nhịp 3: Chân trái đạp mạnh lên thành tư thế đứng trên chân phải, chân trái và hai tay thực hiện như nhịp 1 (chân trái ra trước lên cao, đồng thời hai tay dang ngang bàn tay úp). + Nhịp 4: Về tư thế cơ bản (TTCB). + Nhịp 5,6,7,8 như nhịp 1,2,3,4 nhưng đổi chân. - GV hoặc TBHT hô cho cả lớp tập lại 1,2 lượt, GV quan sát uốn nắn, sửa sai cho các em. Bước 3: - Yêu cầu HS tập luyện theo tổ, nhóm. - GV theo dõi, uốn nắn, sửa sai. Bước 4: - Lớp tập trung, từng tổ biểu diễn trước lớp. - GV và cả lớp theo dõi, nhận xét, đánh giá. Bước 5: - Lớp ôn tập lại một vài lần trước khi chuyển sang hoạt động mới. - GV nhắc nhở HS về nhà cùng tập với người thân. Với quy trình dạy như trên, HS được tự mình khám phá từng thao tác, biên độ từng nhịp của động tác (bước 1), HS hiểu được kĩ thuật từng động tác, đó chính là HS thực hiện các hoạt động tìm tòi, khám phá từ đó hình thành và phát triển năng lực tự chủ và tự học cho các em. Các em được luyện tập, được thi đua trong quá trình luyện tập (bước 3, bước 4). Khi HS thường xuyên được thực hiện các bài thực hành, các hoạt động thi đua giữa các tổ có tính đồng đội, đặc biệt, khi thực hiện các nhiệm vụ học tập này, HS cần được trao đổi, trình bày, chia sẻ và phối hợp với đồng đội thực hiện ý tưởng thì đây là những cơ hội để HS có thể hình thành và phát triển năng lực hợp tác và giao tiếp. Thông qua các hoạt động luyện tập, HS vận dụng kiến thức để phát hiện vấn đề và đề xuất cách giải quyết, biết cách lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch để giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. Vận dụng phương pháp học tập và hình thức làm việc theo nhóm, giúp HS phát hiện và giải quyết vấn đề một cách khách quan, 16 trung thực trên cơ sở phân tích khoa học từ đó giúp các em hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề. Như vậy, với PPDH như trên, giúp HS hình thành và phát triển nhưng năng lực cơ bản đặc thù và cần thiết của con người thời đại mới. 2.3. Biện pháp 3: Tạo môi trường học tập thân thiện, vui tươi Yêu cầu cơ bản của PPDH mới là phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, rèn luyện năng lực tự học, tự tập luyện cho học sinh, giúp các em có cơ hội phát triển năng lực thể chất. Để thực hiện được yêu cầu này, GV đóng vai trò thiết kế, tổ chức, cố vấn, trọng tài, hướng dẫn hoạt động tập luyện cho HS, tạo môi trường học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích HS tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, tự mình trải nghiệm, tự phát hiện bản thân và phát triển. GV sử dụng đa dạng các phương pháp nhằm tích cực hoá các hoạt động của HS một cách hợp lý, kết hợp các loại dụng cụ, trang thiết bị phù hợp với điều kiện thực tế địa phương, chú trọng sử dụng hiệu quả các thành tựu của công nghệ thông tin, phương tiện nghe nhìn thông qua các tranh ảnh kỹ thuật, video clip... để tạo nên giờ học sinh động, hấp dẫn và hiệu quả. Trong giờ học Thể dục, GV có thể sử dụng kiến thức một số môn học khác để nội dung luyện tập không bị đơn điệu. Tiết học thể dục dành cho HS tiểu học không đòi hỏi những kĩ năng phức tạp, nhưng thay đổi không khí học tập là tiền đề tạo sự phấn khởi vui tươi nhiều hơn. Vì một tiết học không nhàm chán thì tiết học đó phải thể hiện được tinh thần thể dục, thể hiện được tính sáng tạo của người dạy. Vì vậy, khi dạy thể dục ngoài việc kế thừa những PPDH truyền thống và đưa vào những PPDH mới truyền động lực cho HS và những GV khác mà theo quan điểm của tôi, GV thể dục phải năng lực sư phạm thật tốt, nhạy bén không phụ thuộc chủ yếu vào sách giáo khoa, chủ động thiết kế bài giảng với các hoạt động vừa học vừa chơi mà không ảnh hưởng đến chất lượng. GV có thể lồng ghép vào bài học những hoạt động mang tính sáng tạo cao, tạo thêm nhiều động lực cho cả thầy và trò trong quá trình học tập. 17 Do vậy, trong mỗi tiết dạy, tôi tranh thủ thời gian nghỉ thả lỏng để vận dụng vào đó các trò chơi vận động vui tươi như: Cóc kiện trời, nhảy lướt sóng, kết bạn, … Cũng có khi GV và HS cùng đọc những bài thơ có vần điệu phối hợp với những động tác thể dục. Hay cũng có khi lồng ghép nhạc điệu của những bài hát hay nhạc không lời phù hợp với từng động tác tạo không khí sôi động cho HS. Không khí lớp học vui tươi, sôi nổi thoát khỏi những giờ học khuôn mẫu như trước đây, HS vừa có thể nhịp nhàng tập luyện vừa nâng cao ý thức đóng góp hoàn thiện tiết học theo hướng đổi mới. Ví dụ: Trong khi cho HS ôn tập lại động mỗi động tác của bài thể dục phát triển chung, để tránh sự nhàm chán vì phải đếm đi đếm lại các nhịp từ 1 đến 8, tôi cho HS vừa tập vừa hát các bài hát có giai điệu nhịp đếm như bài: Bà ơi bà, cháu yêu bà lắm! 1-2-3-4;5-6-7-8; Tóc bà trắng, bạc trắng như mây, 2-2-3-4;5-6-7-8; Cháu yêu bà, cháu nắm bàn tay, 3-2-3-4; 5-6-7-8; Cháu vâng lời, cháu biết bà vui. 4-2-3-4; 5-6-7-8. Hay bài: Cả nhà thương nhau Ba thương con ,vì con giống mẹ. 1-2-3-4;5-6-7-8; Mẹ thương con,vì con giống ba. 2-2-3-4;5-6-7-8; Cả nhà ta, cùng yêu thương nhau. 3-2-3-4; 5-6-7-8; Xa là nhớ, gần nhau là cười. 4-2-3-4; 5-6-7-8; Hoặc có thể là bài đồng dao do cô và trò sáng tác. Vì vậy mà không khí giờ học rất vui nhộn, HS thoái mái sáng tạo mà vẫn đảm bảo mục tiêu giờ học. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan