Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu ôn thi thpt môn ngữ văn phần 1

.PDF
241
43
90

Mô tả:

PGS. TS. Lê Huy Bắc (biên soạn), TS. Phan Huy Dũng PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp, TS. Đào Thị Thu Hằng PGS.TS.^ Q u a n g Hưng, Th.s. Nguyễn Thị Tuyết Nhung 1 TS. Nguyễn ^ ^ ^ h ư ợ n g , TS. Chu Văn Sơn, GS.TS. Trần Đ ă n t '' • w - é m (' ^ 0 fề ứ ' / Dành cho HS lớp 12 chương trình chuẩn vờ nông cao • • • ^ ^TOPiiniii tỉỊ ngại^h i i l NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI PGS.TS. Lê Huy Bắc (biên soạn), TS. Phan Huy Dũng PGS.TS. Nguyẻn Đăng Điệp, TS. Đào Thị Thu Hằng PGS.TS. Lê Quang Hưng, Th.s. Nguyễn Thị Tuyết Nhung TS. Nguyễn Văn Phượng, TS. Chu Văn Son, GS.TS. Trần Đăng Suyền NGỬ VĂN (TÁI BẢN LẦN THỨ 3, có CH ỈN H ư, Bổ SU N G ) v ' Biên soạn theo sát chương trình và sách giáo khoa phân ban mới của Bộ GD&ĐT. Dành cho HS lớp 12 chương trình chuẩn và nâng cao. n NHÀ XUẤT BẢN BẠI HỌC QUỖC GIA HÀ NỘI NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 16 Hàng Chuối - Hai Bà Trưng - Hà Nội ĐT (04) 39714896; (04) 39714897. Fax: (04) 39714899 C h ịu tr á c h ^ h iệ m x u ấ t bản : Giám đốc - Tổng biên tập TS. PHAM THI TRÂM Biên tập nội dung NHƯ Ý Sửa bài LÊ HOÀ Chế bản CÔNG TI AN PHA VN Trình bày bìa SƠN KỲ Đối tác liên kết xuất bản CÔNG TI AN PHA VN r V -i-- SÁCH LIÊN KẾT NGỮ VĂN ÔN THI TỐT NGHIỆP VÀ TUYEN SINH QUỐC GIA Mã số: 2L-480ĐH2013 In 1.000 cuôn, khổ 16 X 24 cm tại Công ti TNIIH In Bao bì Hưng Phú Số xuất bản: 1352-2013/CXB/07-210/ĐHQGIIN Quyết định xuất bản số: 454LK-XH/QĐ - NXBĐHQGHN Tn xong và nộp lưu chiểu quý I nàm 2014. LỜI NÓI ĐẦU Nhằm dáp ứng cách ra dề mở như chủ trương của Bộ Giáo dục uà Đào tạo hiện nay, chúng tôi biên soạn “Ngữ văn ôn thi tốt nghiệp THPT & tuyển sinh ĐH - CĐ”. Sách dược biên soạn theo chương trình tích hợp của sách giáo khoa hiện hành, bao gồm các tác phẩm uán thơ dược giáng dạy trong chương trinh, dặc biệt là những tác phẩm thường xuyên dược /ốy làm dề bài cho các ki thi tuỵển dại học, cao dẳng uà tốt nghiệp phổ thông trung học, tập trung chú yếu trong hai lớp cuối cấp là lớp 11 và lớp 12. Mặt khác, cuốn sách này ra dời còn nhằm giúp học sinh, giáo viên, những người yêu thích văn học tham khảo, nâng cao trình dộ chugền môn. Để bao quát các lĩnh vực kiểm tra, thi các cấp môn Ngữ văn (bao gồm văn học Việt Nam uà vôn học nước ngoài), tập làm văn và tiếng Việt, những người biên soạn tập trung vào hai mảng chính: võn học Việt Nam, văn học nước ngoài. Kiến thức và k ĩ năng làm văn và tiếng Việt dược kiểm tra, dánh giá qua các bài luận cụ thể. Do uậy, chúng tôi không tách hai phần này ra thành những mâng riêng biệt. Để hoàn thành cuốn sách, chúng tôi chủ trương kế thừa các thành tựu của các nhà nghiên cứu di trước, các chuỵên gia trong lĩnh vực nghiên cứu phê bình văn học, cũng như áp dụng các thành tựu nghiên cứu thơ văn hiện dại vào phân tích, bình giảng các tác phẩm theo những dặc trưng thể loại, nhằm chỉ ra dược những nét cá biệt, dộc dáo của tác phẩm và khái quát dược phong cách dặc trưng của từng tác giá. Khác với các sách ôn thi có mặt trên thị trường, cuốn sách nòy không di vào từng dạng dề bài cụ thể, không hướng dẫn phân tích dề lập dàn ỷ,... mà tập trung vào các vấn dề nội dung, hình thức nổi trội, tiêu biểu của tác phẩm và diễn dạt thành bài viết hoàn chỉnh. Do uậy, khi sử dụng sách này, học sinh không chỉ học dược các luận diểm của tác phẩm mà còn biết cách triển khai, cách viết một bài văn nghị luận vân học có sức thugết phục cao. Do chương trình ôn thi tú tài, cao dẳng, dại học chủ yếu tập trung vào các văn bản trong sách Ngữ văn 11, Ngữ văn 12 uà tập trung vào máng vàn học hiện dại từ 1932 dến hết thế kỉ XX, nên sách dược cấu trúc theo dơn vị bài, tuân thủ theo trật tự của hai bộ sách giáo khoa cùa hai khối lớp trên. Đê’ tiện theo dõi, chúng tôi sắp xếp các tác phẩm theo hai phần: phẩn thơ và văn xuôi. Mỗi đơn uị bài, sau phần Kiến thức b ổ trỢ (thường được hỏi trong các đề thi) là phần Tiếp căn tác phẩm chúng tôi tuụển chọn một hoặc một nhóm bài trình bày những giá trí nôi dung, nghệ th u ật đặc sắc n h ấ t của văn bản theo m ô t (hoặc nhiều) cách tiếp cận khác nhau. Qua đó hướng dẫn học sinh cách tiếp cận uà nám được cách chọn phân tích những tín hiệu nghệ thuật thẩm m ĩ đặc sắc của uăn bản, giái quỵết tốt nììững nội dung dược dặt ra trong các đề thi. Biên soạn cuốn sách này, chúng tôi không có tham vọng gì hơn ngoài việc dề xuất một khả năng tổng hợp các kiến thức cơ bản của học sinh để khai thác văn bản một cách sáng tạo và hữu hiệu. Hi vọng với nỗ lực này, cuốn sách sẽ hữu ích đối với học sinh, sinh viên, giáo viên - những người sử dụng sách. Mặc dù dã rất cố gắng, nhưng chắc chắn “Ngữ văn ôn thi tốt nghiệp THPT & tuyển sinh ĐH - CĐ” khó tránh khỏi những sai sót nhất dịnh. Mong các anh (chị) học sinh, sinh viên cùng các thầỵ, cô giáo trong quá trình sử dụng góp ý dể sách hoàn thiện hơn khi có diều kiện tái bản. Hà Nội, ngày 5 tháng 12 nám 2008 PGS. TS. LÊ. H U Y BẮC VĂN HỌC VIỆT NAM ■ ■ ^ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP H Ồ C H Í M IN H A. KIẾN THỨC BỔ TRỢ I- Khái niệm vãn chính luộn Vàn chính luận là thể văn mà người viết dùng lí lẽ (giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận,...) dùng lập luận và dẫn chứng để bàn luận một vấn đề nào đó của xã hội nhằm làm sáng tỏ điều mình muốn nói. Vàn chính luận cũng sử dụng đầy đủ mọi sắc thái cảm húYig nhưtrữtìnii, mỉa mai, ca ngợi, đả kích,... Văn chính luận hấp dẫn người đọc bằng iối tư duy lógíc, trí tuệ; lối văn thièn về hùng biện, có lúc dõng dạc, có lúc thiết tha để lay động lòng người. Văn chính luận bao giờ cũng uoi hỏi người viết đưa ra ý kiến chủ quan của riêng mình. Vì vậy, khi viết, tác giả bao giờ cũng phải vận dụng phạm vi tri thức sách vở, lẫn tri thức cuộc sống tự nhiên, xã hội rất lớn, thường xưng tõi (hoặc chúng tôi, chúng ta) để đối thoại, trao đổi nhằm đưa ra kết luận thoả đáng, có sức thuyết phục người đọc. II- Phong cách nghệ thuột Hố Oií Minh Phong cách nghệ thuật Hổ Chí Minh độc đáo mà đa dạng. Nhìn chung, ở mỗi thể loại văn học. Hố Chí Minh đều tạo được những nét phong oách riêng, độc đáo, hấp dẫn và có giá ừị bề'i vững. Vàn chinh luận: bộc lộ tư duy sắc sảo, qiau tri thức văn hoá; !í luận gắn với thực tiễn; giàu tính luậh chiến; vận ùuiig có hiệu quả tihiều phương ihức biểu hiện. Tniyện ki: chủ úỏng và sảng lạu trung bút phap; bộc lộ rõ chất trí tuệ và tính hiện dại. Thơ ca: có phong cách đa dạng. Khi là ntiững bài cổ thi hàm súc, uyên thâm, sử dụng nhiều điển tích điển cố, đạt chuẩn mục cao vé nghệ thuật. Khi là những bài thơ hiện đại, khai thác những vấn đề thiết thực cụ thể đối với đời sống con người, vận dụng linh hoạt nhiều thể thơ, phục vụ trực tiếp, hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng. Nhìn một cách bao quát có thể thấy: dù viết về đề tài gi, thể loại vá ngôn ngữ nào, tác phẩm của Hồ Chí Minh bao giờ cũng ngắn gọn, giản dị, trong sáng, mọi ý iưỏng và hình tượng đều thể hiện chất thép, tinti thán lạc quatì cách niạng cao độ, tấm lòng nhân đạo lớn lao, đểu vận động hướng lới cách mạng, ánti sáng, niếm vui và sự sống. B. TIẾP CẬN TÁC PHẨM I- Tuyên ngôn Độc lập - áng hùng vãn Sở dĩ Tuyên ngôn Độc lập được xem là áng văn chính luận mẫu mực vào hàng ‘Ihiên cổ hùng văn” vì bản tuyên ngôn này ra đời vào thời điểm trọng đại, chấm dứt ách thống trị gần 100 năm của thực dân Pháp và thay thế vĩnh viễn nền quân chủ bằng nền dân chủ. Xét về mọi khía cạnh, Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng là bản tuyên ngôn có giá trị muôn đời của dân tộc Việt Nam. 1. Cảm hứng sử thi mãnh liệt Với tư cách là một áng văn nghị luận xã hội, Tuyên ngôn Độc lập vẫn tuân thủ lối hành văn: sử dụng lí lẽ lập luận và dẫn chứng. Lí lẽ mang lại sự kết dính các luận điểm, dẫn chứng tạo độ tin cậy cho lí lẽ. Tuy nhiên không phải nắm được điều này thì tác phẩm nghị luận có thể dễ dàng được thực hiện. Yếu tô' quan trọng hàng đầu của văn nghị luận là cảm hứng nghị luận, cảm hứng này được tạo dựng từ chính cảm xúc cá nhân trước vấn đề mình nghị luận. Mặt khác, cảm hứng ấy còn được gây dựng trên cảm hứng chung của cộng đồng. Nếu thiếu một trong hai, áng văn nghị luận đó khó có thể thành công được. Tuyên ngôn Độc lập ra đời vào đúng thời khắc lịch sử trọng đại. Hùng khí của dân tộc gặp hùng tâm của người chấp bút, của cảm xúc vô biên trong tâm hồn vị lãnh tụ vĩ đại, nên âm hưởng, dư âm của tuyên ngôn sẽ luôn giữ được vẻ hào sảng của một khời khắc, một giai đoạn hào hùng gần như một đi không i:rỏ lại của dân tộc. 2. Dần chứng xóc thực Một nền tảng tri thức rộng cũng là nhân tố quyết định đến sự thành công của tác phẩm nghị luận. Bôn ba khắp bốn bể chân trời, Hồ Chí Minh đã tích luỹ được kho kiến thức vô cùng phong phú. Việc trích dẫn hai bản truyện ngôn của Pháp kẻ từng nhân danh “bảo hộ” thực chất là xâm lược, đặt ách đô hộ trên đất nưỏc ta - và Mĩ - nước đang có vai trò quan trọng trong lực lượng đồng minh chống phát xít, Hồ Chí Minh không chỉ dùng gậy ông đập lưng ông mà còn năng tầm cách mạng giải phóng dân tộc ta lên ngang tầm những cuộc cách mạng được xem là tiêu biểu cho mọi thời; nâng tầm vóc hành động của dân tộc ta lên tầm vóc của những sự thay đổi tích cực của nhân loại trên bước đường phát triển. Nhưng Hồ Chí Minh khổng chỉ viện dẫn từ sách vỏ, Người còn đưa ra rất nhiều bằng chứng xác thực lấy từ chính cuộc sống cơ hàn nhưng vô cùng bất khuất của dân tộc ta. Nhân danh “bảo hộ” nhưng thực chất thực dân Pháp đã hai lần bán nước ta cho Nhật. Nhân danh “ khai hoá” nhưng thực chất Pháp làm thui chột cả trí lực lẫn sức lực của người Việt để dễ bề cai trị. Nhân danh đồng minh nhưng thực chất Pháp đá phản bội lại đồng minh vì đã đầu hàng phát xít Nhật. Nhân danh quyền con lìgười nhưng Pháp lại đi giết tù chính trị của ta ỏ Yên Bái và Cao Bằng trước khi tháo chạy trước phát xít Nhật. Trên đây là những lập luận thuận chiều với nhiều chứng cớ không thể nào chối cải. Chưa đủ, Hồ Chí Minh còn sử dụng lối lập luận ngược chiều để vạch mặt sự nham hiểm, độc ác không thể nào dung thứ đôi với thực dân Pháp. Ấy là, mặc dù thực dân Pháp đôi xử với chúng ta tàn bạo, vò nhân đạo đến mức dã man, nhưng trái tim người Việt luôn nhân hậu, sẵn sàng mỏ lượng hiếu sinh cứu giúp người Pháp khi bị phát xít Nhật truy giết. Đưa ra bằng chứng này không chì nhằm để khẳng định người Việt Nam có truyền thống nhân đạo, mà cốt để xâu chuỗi mạch lập luận rằng một dân tộc chịu nhiều đau thương, một dân tộc ngoan cường, một dân tộc yêu chuông tự do và giàu lòng nhân ái thì tất yếu phải được sống cuộc sống tự chu, uộc lập như bao dân tộc khác. Lập luận của Tuyên ngôn Độc lập vô cùng độc đáo ở chỗ một mũi tên bắn trúng hai đích, nên ẩn ý của từ ngữ vó cùng sâu rộng. Điều đó chứng tỏ sức mạnh ngôn từ của dân tộc, tài nàng của người cầrn bút. 3. Đô1 tưọng phong phú Bất kì một vàn bản văn chương nào khi được viết ra cũng đều có sự tính toán khả nàng tác động đến còng chúng. Đặc biệt, vời văn nghị luận, người viết bao giờ cũng hướng mục đícti thuyết phục người nghe chú yếu bằng ngôn từ của trí tuệ, lí trí và của lập luận thì điều đó càng thêm phần quan trọng. Về tổng thể, Tuyên ngôn Độc lập hướng tới hai đối tượng; đổng bào trong nước và dân chúng thê giới, ở trong nước cũng như trên thê giới đều tồn tại hai đối tượng đối lập: ủng hộ và không ủng hộ. Vì thế, nhiệm vụ của Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định lòng tin cho những người ủng hộ và thuyết phục những người không ủng hộ. Vì thế, việc trích dẫn tuyên ngôn của nước Pháp và Mĩ, kết hợp với dẫn chứng từ thực tế trong nước; việc đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc song song với việc giải phóng nhân loại khỏi hoạ phát xít là cách vừa kêu gọi sự đồng lòng của quốc tế vừa tốn vinh dân tộc, khẳng định tư thế chính nghĩa, tiến bộ của dân tộc ta trên trường quốc tế. Cũng thế, việc đặt song song nhiệm vụ giải phóng dân tộc với nhiệrn vụ thiết lập nền dân chủ sẽ đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân. Như thế, đối ngoại và đối nội, đôi đường đều đúng đắn, đúng mực, quả là sự tinh toán diệu kì. Từ luận điểm cốt lõi, mỗi dân tộc đều có quyền được hưỏng độc lập, tự do, Hồ Chí Minh hướng đến kết luận: luận điểm này không bắt nguồn từ ý muốn của bất kì dân tộc nào mà từ chính tạo hoà, từ chính bản năng sống tốt đẹp của muôn người trên thê gian. Lập luận của tuyên ngôn không dưng lại ở chỗ chân lí do con người làm ra mà sâu xa hơn là ỏ chỗ chân lí do tạo hoá làm ra. Người viết quả là thiên tài. Tư nhiên sinh ra con người và chính tự nhiên mới là thế lực cuối cùng có quyền phán xét con người, còn con người vơi con người thì không có quyền phán xét và bắt buộc Iihóiii người này, cộng đồng này sống theo ý muốn của một nhóm, cộng đông nào dó. 4. Dự bóo thiên tài Ngay tại thời điểm Hồ Chí Minh trích tuyên ngôn của nước Mĩ, thì chắc hẳn Mĩ chưa có biểu hiện gì muốn xâm chiếm nước ta. Do vậy. mục đích của việc trích dẫn này chỉ với ý đồ muốn dựa vào một thế lực trung gian, một thế lực điển hình cho tư tưởng tiến bộ của thời đại, Mĩ lúc đó đang đứng trong lực lượng đồng minh phương Tây chống phát xít. Thế nhưng, giá trị của Tuyên ngôn Độc lập không chỉ dừng lại ở đó mà còn thể hiện được tính dự báo độc đáo của nó. Cụ thể là sau năm 1954, Mĩ lộ rõ ý đồ muốn thay thế vị trí của Pháp ở Việt Nam và càng nqày càng can thiệp sâu vào đời sống chính trị của người Việt và cuối cùng là đưa quân sang xâm lược. Một lần nữa, dân tộc Việt Nam lại đứng lên bảo vệ chủ quyền, bảo vệ nền độc lập, tự do cho Tổ quốc. Kết quả, như lời tiên tri của bản Tuyên ngôn Độc lập được viết ra trước đó gần ba mươi năm, năm 1973, đế quốc Mĩ thua trận, buộc phải rút quân ra khỏi cương thổ Việt Nam. Đương nhiên, tính dự báo này không chỉ dành riêng cho đế quốc Mĩ mà còn cho mọi thế lực hung tàn trên thế giới, nhữhg kẻ có âm mưu muốn biến nước ta thành thuộc địa hoặc dâ tâm muốn cướp nước ta thì chắc chắn chúng sẽ chịu cùng số phận. Dân tộc ta sẽ luôn giữ vũTig được nền độc lập cho muôn đời sau. 5. Liên kết vỗn hoó sôu rộng Không có môt quá khứ hào hùng của dân tôc, không có những thành tưu văn hoá kể từ bài thơ Thần tương truyền là của Lí Thường Kiệt hay Đại cào bình Ngô của Nguyễn Trãi thì ắt hẳn Tuyên ngôn Độc lập sẽ chưa có được sức mạnh, sức gắn kết văn hoá độc đảo đến như vậy. Từ việc chỉ giới hạn trong khuôn khổ một nước Việt Nam với cương thổ địa lí riêng luôn được khẳng định trong hai áng văn được xem là tuyên ngôn độc lập của dân tộc trước đó, Hồ Chí Minh đã mỏ rộng địa hạt quyền lực của dân tộc ra thế giới. Tiếng nói của Tuyên ngôn Độc lập là tiếng nói toàn cầu, tiếng nói không chỉ riêng cho dân tộc Việt Nam mà còn là tiếng nói tiêu biểu, tiếng nói chung cho mọi dân tộc bị áp bức. 6. Lộp luạn chót chẽ So sánh theo lối tương phản, đổng dạng hoặc ám dụ là thủ pháp righệ thuật được sử dụng chủ yếu trong Tuyên ngôn Độc lập. So sánh tuyên ngôn của Mĩ, của Pháp với Tuyên ngôn Độc lập của ta là cách tạo hiệu quả đồng dạng. Không chỉ dân tộc ta có quyền độc lập tự do như các dân tộc đó mà Tuyên ngôn Độc lập của ta cũng có giá trị tiệt như tuyên ngôn của họ. So sánh tương phản chủ yếu được dành cho thực dân Pháp. Người Pháp được hưởng những quyền lợi cụ thể từ tuyên ngốn dân quyền của họ, thế mà cũng với “ những quyền ấy” họ lại bắt người Việt Nam phải chịu cảnh nô lệ, tù đày, chết chóc. Cho nên “hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” . So sánh ám dụ cũng là một thế mạnh nữa của cách lập luận trong Tuyên ngôn Độc lập. Nhờ những ám dụ ngầm này (như giá trị nền độc lập của ta tương đổng với giá tri độc lập của Pháp, Mĩ,...) nên văn bản đã tạo được chất trí tuệ, hấp dẫn người đọc ở tầng sâu kiến thức của câu chữ, khiến mọi thế hệ, mọi trình độ đều phải khâm phục tầm văn noá uyên bác của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Biện pháp liệt kê tăng cấp được sử dụng rất hữu hiệu. Để phản bác luận điệu bảo hộ của Pháp, Hổ Chí Minh liệt kê ra đầy đủ các mặt cốt yếu mà Pháp nhân danh bảo hộ để biến người dân Việt thành nô lệ. Đó là: chính tri (chính sách chia để trị nhằm chống sự thống nhất, đoàn kết), giáo dục (nhà tù t)hiều hơn trường học nhằm làm suy nhược tinh thần), y tế (thuốc phiện, rượu cồn làm suy nhược thể trạng dân tôc), kinh tế (cưóp tài nguyên, không cho giai cấp tư sản bản địa trỗi dậy)... Tất cả đều nhằm làm suy thoái toàn diện đời sống người Việt. Cách lập luận này khiến tội ác của thực dân Pháp hiện lên tầng tầng lớp lớp và nỗi khổ đau, bi đát của dân tộc cũng “tàng cấp” hơn. Biện pháp lặp kết cấu cú pháp cũng được sử dụng. Tiêu biểu nhất là câu; “Một dàn tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít .mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” . 7. Lòi kcí ; ^ ,ị Tuyên ngôn Độc lập mỏ ra một kỉ ngúyốn mới cho dân tộc Việt Nam. Bằng lời văn sắc sảo, đầy chất trí tuệ, bằng nhiệt huyết cách mạng của một người yêu Tổ quốc cháy bỏng và bằng cả khí thế cách mạng của toàn thể dân tộc ngót một trăm năm kiên trì, bền gan chiến đấu với kẻ thù để đòi quyền độc lập, tự chủ, Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng là áng hùng vàn của dân tộc trên mọi nẻo đường chiến đấu và chiến thắng. Hơn sáu mươi năm trôi qua kể từ ngày Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình, khoảnh khắc lịch sử ấy vẫn còn nóng hổi trong từng lời văn, câu chữ. Với Tuyên ngôn Độc lập, dân tộc Việt Nam đã có được tiếng nói riêng, diện mạo riêng, có được nguồn động lực nội tại mạnh mẽ và bền vững trên hành trình độc lập, tự do, bình đẳng và bác ái. Hơn thế nữa, nhiều lần dân tộc ta đã trở thành biểu tượng của tinh thần tự do, độc lập, của ý chí tự quyền cao cả của nhân loại tiến bộ trên địa cầu. LÊ HUY BẮC CHIỀU TỐI H Ồ C H Í M IN H Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh được viết từ 29-8-1942 đến 10-9-1944, khi Người bị chính quyền Tưỏng Giới Thạch bắt giam vò cớ, đầy đoạ khắp các nhà lao tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong số 133 bài thơ của tập sách, Chiều tối được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách Đường luật hiện đại của Chủ tịch Hổ Chi Minh. Chiều tối được sáng tác theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Nguyên tác như sau: Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ, Cô vân mạn mạn độ thiên không. Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc, Bao túc ma hoàn lõ đi hồng. Bài thơ được xếp ở vị trí 31 trong Nhật kí trong tù. Ngay sau nó, bài thơ số 32 là bài “Đêm ngủ ở Long Tuyền” . Qua đó, ta có thể xác định được thời điểm ra đời của bài thơ là vào tháng 10 năm 1942, lúc Bác đang trên đường bị giải từ Thiên Bảo đến Long Tuyền. ^ : Không gian thơ là cảnh núi rừng heo hút, thời gian là vào buổi chiều tối. cảnh sắc gợi vẻ hoang vắng tịch liêu: Nhật mộ hương quan hà xứ thị {Què hương khuất bóng hoàng hôn, Thôi Hiệu), phong kín nỗi buồn chông chênh của người lữ thứ. Tâm hồn thi nhân nhạy cảm của Bác được lay động: Chim mỏi về rừng tìm chốn ngũ Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không. Hai câu thơ mang vẻ đẹp cổ điển: tác giả lấy điểm vẽ diện, lấy động tả tĩnh, lấy ít gợi nhiều. Chỉ cần đặt hai khách thể: chim bay, mây trôi trên nền trời bao la, người viết đã gợi lên cái hồn của cảnh vật, của ngày tàn, màn đêm buông xuống dần, tạo vật như đang chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi, sau một ngày chuyển di mệt mỏi... Mặc dù đã dịch rất đạt, nhưng Nam Trân vẫn chưa diễn tả được sắc thái “cô vân” (mây lẻ loi). Một cánh chim đơn lẻ, một chòm mây đơn lẻ trên nền trời chiều. Chim bay, mây trôi khiến cho bầu trời bao la hơn, bóng chiều êm ả, tĩnh lặng hơn. Cảnh chiều tối mang tính ước lệ, gợi nhớ về một cánh chim chiều trong thơ thi hào Nguyễn Du; “Chim hôm thoi thót về rừng” . Hai câu thơ có cấu trúc đăng đối, âm điệu chậm nhẹ, thoáng buồn: cảnh mặt đất, cảnh bầu trời, vật vò tri (mây), vật hữu tri (chim),... cái nhìn thi nhân trong thế bao quát, phóng tầm mắi đến diệu vời cảnh sắc. Người chiến sĩ cách mạng trong chốn lưu đày, xiểng xích vẫn dõi theo bầu trời tự do, dõi theo cảnh vật phiêu bồng với nỗi lòng man mác. Nét vẽ ngoại cảnh xuất thần đã thoáng hiện tâm cảnh. Phong thái của một chiến sĩ, thi sĩ trước vỏ đẹp của thiên nhiên, con người hiển lộ. 10 Áng mây cô đơn đ^ng trôi trên bầu trời là hình ảnh ẩn dụ thường thấy trong thơ cổ, gợi nên nỗi cỏ đơn, (có thể là gian khổ) của người lữ k lách trên dặm đường xa tắp. Ngôn ngữ thơ mang phong cách Đường thi hàm súc, tả cảnh ngụ tình, lãng đãng nhẹ nhàng mà trĩu nặng dư ba. Mới đọc qua, ta cứ ngỡ nhà thơ chỉ tập trung tả cảnh chiều tối thanh bình nơi xứ lạ. nhưng thực chất đấy còn là thoáng ước mơ thầm kín về một chốn dừng chân. Cái nhìn ỏ đây cũng khắc ghi dấu ấn hiện đại: trên đường đi, cảnh vật hiện lên, nhà thơ bắt gặp khung cảnh trữ tình thấm đượm cả nỗi niềm thi sĩ của cá nhân mình. Mượn cảnh ngụ tình là cách thơ xưa thường làm, nhưng miêu tả cảnh vật bằng sự chân xác, bình dị vốn có của nó lại là đặc trưng của bút pháp hiện đại. Dấu ấn cổ điển và hiện đại đã đan lồng trong cái nhìn cảnh vật vụt hiện, thoải mái và gợi vẻ hoài cổ của tàm trạng cô đơn. Khao khát chốn bình yên, khao khát bóng dáng con người để lắng dịu nỗi niềm trước trời chiều bảng lảng là târn trạng đến với bất kì lữ thứ nào. Đỗ Mục cũng đã từng khao khát đến được Hạnh hoa thôn đó sao? Tá vấn tửu gia hà xứ hữu ỵ Mục đổng giao chĩ hạnh hoa thôn. (Hỏi thăm quán rượu đâu là / Mục đồng trỏ lối Hạnh hoa thôn ngoài) “ ịỉỀNhưng ỏ đây, Hồ Chí Minh không phải là thi sĩ đi ngoạn cảnh, càng không phải là người bất đắc chí, không gặp thời, mà là tù nhân đang chịu cảnh xích xiềng. Một người tù mang tâm hồn thi sĩ, đúng hơn là một chiến sĩ mang tâm hồn thi sĩ. Hai râu thơ cuối, hình tượng thơ không còn là cảnh vật thiên nhiên mà là con người. Hình tượng cô gái được khắc hoạ bằng bút pháp hiện đại. Cô không khiến cho bầu không khí cô tịch kia thêm cô tịch như bút pháp thơ cô điển mà làm thay đổi triệt để không khí thơ, cảm hứng thơ, khiến nỗi cô đơn của đất trời trẽn kia thành hữu duyên hữu hình hữu ý. Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng. Thi nhân trực tiếp miêu tả cuộc sống con người. Yếu tố hiện đại được thể hiện qua việc chọn lựa hình tượng thơ: một cô gái. Cô gái này không phải là hình tưọng liễu yếu đào tơ như hình tượng thiếu nữ trong bài thơ Đề đô thành Nam Trang của Thôi Hộ: “Nhân diện đào hoa »ương ánh hồng” (Mặt người (thiếu nữ) và hoa đào chiếu ánh hồng cho nhau) mà là cô gái đang lao động. Hình lượng này vốn không phải là tín hiệu thẩm mĩ ưa thích của thơ cổ điển. Cái đẹp với Hổ Chí Minh là cái đẹp trong lao động, một cái đẹp khoẻ khoắn, đầy sức sống. 11 Thiếu nữ và lò than hồng là trung tâm của bức tranh lao động. Một nét vẽ trẻ trung, bình dị: thiếu nữ đang xay ngô. Khung cảnh yên bình cùng động tác quay vòng của cối xay và động tác lặp đi lặp lại của thiếu nữ được thể hiện qua việc láy cụm từ: Ba chữ “ma bao túc” ở cuối câu ba được láy lại “bao túc ma hoàn...” ở đầu câu bốn. Còng việc lao động cần mẫn của thiếu nữ xóm núi được cảm nhận và quý trọng. Bài thơ không có âm thanh. Cái tĩnh lặng trong thơ đã lên đến vô cùng. Vì lẽ này, Chiều tối được xem là bức tranh được vẽ bằng ngôn từ. Người xay ngô và động tác xay ngô được miêu tả từ một khoảng cách nhất định: khoảng cách của một tù nhân với cuộc sống bên ngoài bị tách li. Nhưng sự chia tách quái dị, phi lí đó không ngăn được tâm hồn của người chiến sĩ vốn luôn mong ước được giao cảm với cuộc đời. Bằng ánh nhìn, Hồ Chí Minh đã đưa lòng mình đến gần với bao cảnh đời lao động, trân trọng và tin yêu. Ngỏ xay xong thì lò than đã rực hổng, ấm áp. Bếp lửa không chỉ mang lại ánh sáng mà còn cả sự ấm áp. Khi màn đêm bao phủ, trong khung cảnh thiên nhiên xóm núi hẳn là heo hút, lò than đỏ rực mang lại sức sống, mang lại sinh khí xua tan bóng đêm lạnh của núi rừng. Hình ảnh thiếu nữ xay ngô và lò than rực hồng tượng trưng cho một mái ấm gia đinh, tương phản với cảnh đơn lẻ của thân phận tù đày xa xứ. Nhưng mục đích của nhà thơ là hướng về sự ấm áp đó chứ không phải khắc tạc nỗi cô đơn và gian khổ của bản thân. Điều này thể hiện tấm lòng nhân đạo bao la: thi nhân quên nỗi đau của bản thân để vui cùng niềm vui, hạiih phúc của con người nơi chốn quê thanh bình. Sự thanh bình và yên ả đó còn ẩn dụ cho mục tiêu phấn đấu của người chiến sĩ cách mạng cho quê hương mình. Hướng về một cảnh sinh hoạt đời thường, bình dị: thiếu nữ xay ngô, dõi nhìn bếp lửa, lò than rực hồng, trong khi chân tay mang nặng xích xiểng, bị giải đi trong chiều tối, thi nhân tìm thấy một tương lai sáng ngời hiện lên, nỗi cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo bị xua tan trưốc khung cảnh lao động, trước cuộc sống ấm cúng thường nhật ấy. Nét vẽ về thiếu nữ xay ngô và lò than rực hồng là nhũrng nét vẽ tươi tắn, trẻ trung. Bút pháp trữ tình của Hồ Chí Minh có sự hoà hợp giữa màu sắc cổ điển ước lệ, trang trọng - chủ yếu trong hai câu thơ đầu, với chất hiện đại, khoẻ khoắn, bình dị ỏ hai câu cuối. Chiều tối được sáng tác trong lúc chiều tà. Khung cảnh thơ sắp ngập chìm trong bóng núi về đêm, nhưng đâu đó, bếp lửa hồng đã được nhóm lên, xua đi cái lạnh lẽo, hiu hắt của núi rừng, trả lại cho cuộc sống nhịp điệu bình dị vốn có của nó. Một tương lai đang hé mỏ. Trong bóng đêm nhìn thấy ánh sáng ngày mai. Trong những giá trị cổ điển vĩnh hằng, tác giả kết nối thành công với những giá trị hiện đại. Bài thơ tựa nét hoạ tinh tế về cuộc sông con người và tâm hồn nghệ sĩ bao la của một chiến sĩ cách mạng đang trong cảnh lao lù. LÊ HUY BẮC 12 CẢNH KHUYA H ồ C H Í M IN H Nàm 1947, giữa lúc cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp đang diễn ra ác liệt, Hồ Chí Minh sáng tác cảnh khuya. Bài thơ được xem là nốt nhạc trong trẻo cất lên trong khói lửa chiến tranh, thể hiện tinh thần lạc quan và tình yêu thiên nhiên đất nước nồng thắm của một lãnh tụ thiên tài: Tiếng suối trong như tiếng hát xa, Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa. Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ, Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà. Bài thơ khẳng định vẻ đẹp của đất nước, tâm hồn thi sĩ của nhà cách mạng kiên cường của dân tộc. Được sáng tác theo thể thơ tứ tuyệt, cảnh khuya phảng phất sự trang nhã của hương vị Đường thi. Cảm xúc thơ được thể hiện chủ yếu dưâi cái nhìn của hội hoạ. Khung cảnh sáng tác thơ là vào một đêm khuya, nơi núi rừng, có tiếng suối, có cây rừng, có ánh trăng, những hình tượng rất quen thuộc của thơ xưa. Cảm nhận không gian được bắt đẩu bằng âm thanh, âm thanh từ xa vọng lại. Đấy là kiểu âm ttianh trang nhã, tinh khiết của núi rừng, được ví như là tiếng hát. Một khung cảnh thanh bình có chiều sâu; Tiếng suối trong như tiếng hát xa. Nhờ biện pháp nhân cách hoá này mà không gian thơ trỏ nên gần gũi, thân thuộc với con người. Phải tĩnh lặng tâm hồn, phải yêu thiên nhiên tha thiết thì mới có thể nghe được cái âm thanh trong vắt tựa tiếng hát kia. cần chú ý ỏ đây là tiếng hát xa, tiếng hát khẽ. Không gian phải thật tĩnh lặng, người nghe phải thật chăm chú thì mới có thể cảm nhận được âm thanh ấy. Một khung cảnh tuyệt vời được cảm nhận qua một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế. Nếu ở câu thơ đẩu, cảnh vật được chiêm ngắm từ xa. Người ngắm bao quát cả một vùng núi rừng rộng lớn. Từ không gian rộng mỏ ấy, cái nhìn của thi nhân hướng về cận cảnh. Không còn âm thanh nữa mà là màu sắc, hình khối: ánh trăng và bóng cổ thụ đan lồng vào nhau: Tràng lồng cổ thụ bóng lổng hoa. cảnh vật xoắn xuýt hữu tình, hoà trong âm thanh của tiếng suối xa gợi vẻ thanh bình, đầm ấm. 13 Hai câu thơ đấu vẽ nên bức tranh phong cảnh đẹp. Nói cách khác, trước cảnh đẹp ấy, tâm hồn con người dễ rung động, ngân lên nốt nhạc đồng cảm. Chủ thể trữ tình là người có tâm hồn nhạy cảm và tha thiết yêu mến thiên nhiên. Thiên nhiên đẹp là cái cớ để tâm hồn nghệ sĩ không ngủ; “Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ” . Đây là điều bình thường. Thi nhân hiện lên như là người nhàn rỗi, thưởng ngoạn cảnh đẹp của núi rừng.. Nhưng câu kết lại đưa người đọc sang địa hạt cảm xúc khác; “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà” . Đây không còn là người đơn iOuần ngắm cảnh. Và cái cảnh đẹp kia không phải ngay từ đầu đã hớp hồn nhà thơ. Nó không phải là duyên cớ để khiến nhà thơ knông ngủ. Cái sự trằn trọc, thao thức ấy có nguồn cơn từ chỗ khác. Đấy là nỗi lo cho dân nước. Chính nỗi lo này đã khiến Hồ Chí Minh không ngủ được. Để trong đêm không ngủ ấy, Người bắt gặp bức tranh khuya tuyệt đẹp. Tâm hồn nghệ sĩ của Người lên tiếng. Với Bác, nỗi lo cho dân, cho nước luôn thường trực và được ưu tiên hàng đầu. Việc làm thơ chĩ là tình cờ. Thế nhưng, cảnh khuya lại là một trong những thi phẩm nổi tiếng của dòng thơ kháng chiến. Mới hay, dù fthỉ là phút ngẫu hứng vụt hiện nhưng hồn thơ Bác nồng nàn, sâu thẳm biết bao. Bác từng tâm sự “Ngâm thơ ta vốn không ham” , mặc dù sở hữu một tâm hồn thi nhân nồng cháy, nhưng Bác vẫn ưu tiên cho những vấn đề bức thiết sống còn của dân tộc. Đấy chính là cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Tinh thần của người chiến sĩ trên tuyến đầu chống thù luôn thường trực trong Bác. Toàn bộ bài thơ là sự kết tinh tuyệt vời giữa hai hình tượng cao đẹp trong con người Bác: chiến sĩ và thi sĩ. Con người chiến sĩ trong Bác không làm thui chột con người nghệ sĩ. ở đáy có sự đan quyện hài hoà. Chất thép của người chiến sĩ được thể hiện ngay trong chất thơ mượt mà sâu lắng. Con người nghệ sĩ - chiến sĩ không thể tách rời nhau, đế cùng lắng nghe tiêng đời, tiếng rừng núi đang ngân lên giai điệu trữ tình, thiết tha. LÊ HUY BẮC 14 THƠ DUYÊN XUÂN DIỆU A. KIÊN THỨC BỔ TRỢ I - Tác giả: Xuân Diệu (25.4.1916 - 18.12.1985) tên thật là Ngô Xuân Diệu, quê cha ở làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, sinh ra ở vạn Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định (quê mẹ). Học xong tú tài, Xuân Diệu có thời gian làm tham tá thương chính ỏ Mỹ Tho (1940 - 1943), sau thôi việc ra Hà Nội viết văn, làm báo. ông là một thành viên của tổ chức Tự Lực văn đoàn. Sau năm 1945, Xuân Diệu là đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá I (1946-1960). Xuân Diệu có ttiơ đăng báo từ 1935, được chào đón như một đại diện tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới với các tập Thơ thơ (1938), Gủí hương cho gió (1945). Xuân Diệu là tác giả của tập truyện ngắn Phấn ịhông vàng (1939) khá đặc sắc. Sau 1945, ông vẫn tiếp tục sáng tác thớ, viết nhiều tiểu luận về thơ và tham gia hoạt động xã hội một cách tích cực, có uy tín và ảnh hưởng rộng rãi. Các tập thơ chính (sau hai tập trên): Ngọn quốc kì (1945), Hội nghị non sông (1946), Riêng chung (1960), Mủi Cà Mau - cầm tay (1962), Tô/ giàu đồi mắt (1970), Hồn tôi đôi cánh (1976), Thánh ca (1982).., Các tập bút kí, tiểu luận phê bình; Taíờng ca (1945), Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958), Và cây đòi mãi mãi xanh tươi (1971), Càc nhà thơ cổ điền Việt Nam (2 tập - 1981, 1982), Cõng việc làm thơ {^984)... Xuân Diệu là nhà thơ có sức sáng tạo dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lốn, nhiều mặt cho nền văn hoá, văn học dân tộc. ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt I (1996). II- Phong cách: Đọc thơ Xuân Diệu, ta có cảm giác thi nhân luôn ở trong trạng thái hưng phấn, trạng thái tràn đầy năng lượng sống. Hưng phấn khi nói về buổi hò hẹn đầu tiên: Trời xanh thế! Hàng cây thơ biết mấy! Vườn non sao! đường cỏ mộng bao nhiêu Hưng phấn khi giục giã người ta hưỏng thụ cuộc đời; Em vui đi, ràng nỏ ành trăng rằm, Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự, Mau lén chứ! Vội vàng lên với chứ! Em, em ơi! Tinh non sắp già rồi... Hưng phấn khi tự ngắm cái tôi cò ngạo của mình; Ta đứng đây, vĩnh viễn giữa mùa đông, Tuyết trên đầu vĩnh viễn choá từng không, Trán vĩnh viễn nặng mang sầu Trái Đất Ta là M ột là Riêng, là Thứ Nhất Không có chi bè bạn nổi cùng ta. 15 Và, “hưng phấn” cả trong lúc bộc lộ niềm... tuyệt vọng: Buổi chiều ra cửa sổ, Bóng chụp cả trời tôi! - Ôm mặt khóc rưng rức; Ra đi là hết rồi. Đã hưng phấn thì nhìn vào sự vật nào thi nhân cũng “đọc ra” một nỗi nôn nao, một sự cựa quậy đòi biểu lộ. Ánh trăng thu được tiếng nguyệt cầm đánh thức bỗng run lên khác thường: Mảy vắng, trời trong, đêm thủy tinh. Linh lung bóng sàng bỗng rung mình Đến lượt ánh trăng lại là tác nhân xui hoa nhài tự tìm cách gây chú ý bằng mùi hương của mình: ô / vắng lặng! Trong giờ mơ ngủ ấy, Bỗng hoa nhài thức dậy, sành từng đôi; Hoa nhài xanh, dưới ánh nguyệt tuôn trời, ánh nguyệt trắng trên hoa nhài đúc sữa. Ta đà thấy, giữa cái ham hố đòi yêu. đòi sống và sự lắng nghe tinh tế những tiêng nói lặng thầm trong lòng tạo vật có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Và chính chúng tạo nên cái cơ chế bên trong xui khiến nhà thơ tìm tòi những lối diễn tả khác lạ, một thời vẫn bị xem là Tày, nhưng bây giò đọc lại, ta lại thấy đó dường như là hình thức tốt nhất giúp nhà thơ lưư giữ được nhũfhg ấn tượng, những cảm nhận rất mới về sự sống. Thử tưởng tượng, nếu bỏ đi hoặc thay thế những từ, cụm từ, cách nói như hơn một, rũa, những luồng run rẩy... trong khổ thơ sau đây; Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh; Nhũĩig luồng run rẩy rung rinh lá... Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. Thì ta còn lại cái gì? - Chỉ một mùa thu đã đông cứng lại trong nhCmg đường nét ước lệ, chứ không phải là cái gì khác hơn, như sự cảm nhận không hề giống xưa về thời gian của một cái tôi cá nhân có tâm hồn rộng mỏ nhưng cũng dễ bị tổn thương một cách sâu sắc! III - Xuất xứ: Thơ duyên là tác phẩm rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu trước Cách mạng, chưa được đưa vào Thơ thơ (1938), Gũi hương cho gió (1945) nhưng đã được trích và bình phẩm đến hai lần trong Thi nhàn Việt Nam (1942) của Hoài Thanh và Hoài Chân. Sinh thời, Xuân Diệu rất lấy làm hãnh diện về nó và thường tự binh về Thơ duyên một cách say sưa trong những buổi đi nói chuyện thơ trước công chúng. Thủ bút của Xuân Diệu về Thơ duyên đã từng được in trang trọng trong một vài cuốn sách thuộc loại mỹ thuật phục vụ cho người chơi sách. Thơ duyên cùng với những cuốn sách đó xứng đáng trở thành một món quà tặng giàu ý nghĩa cho những đôi lứa yêu nhau, cho những độc giả yêu thơ nói chung. 16 B. TIẾP CẬN TÁC PHẨM t. “Thơ duyên”: sự “tác hợp” của “cơ trời” trong con mắt Xuân Diệu Tôi không nghĩ rằng từ duyên ở câu mở đầu bài thơ đă được dùng đắc (ía. Nó còn để lộ kĩ xảo và thu hẹp nghĩa từ duyên nơi đầu đề. Thực ra, trong cái tứ bao quát toàn bài, duyên đồng nghĩa với sự “tác hợp” của “cơ trời” cho đôi lứa - một sự ‘1ảc hợp” nhiệm màu thông qua không khí xe duyên bao trùm cả vũ trụ. Thơ duyên đúng là một bài thơ tình. Tình yêu ở đây sinh ra giữa đất trời và phát triển theo lẽ tương giao của vạn vật. Tất cả được tạo hoá xếp đặt trong một quan hệ tưởng vô tình mà hữu ý, tưởng hờ hững, vu vơ mà môi lái, ràng buộc. Đúng nửa số câu của bài thơ được dành để nói về thiên nhiên và nửa số câu còn lại được dùng để tả người và cách miêu tả thì luân phiên với từng đối tượng. Nhưng theo cách nhìn khác, thiên nhiên vẫn hiện diện liên tục trong bài thơ, làm bản nhạc đệm cho những bước chân tìm đến tình yêu. Tuy nhiên, sự hiện diện đó mỗi lúc một khác. Khi nhẹ êm len lỏi vào khoảng cách giữa những bước chân đi dạo ngập ngừng để gợi ý, dẫn dụ, rủ rê, khi trỗi dậy với những tiết tấu giục giã, thúc bách, đòi hỏi. Đúng là một cái “nền” tuyệt diệu, biết nói những lời cần thiết, đúng lúc và đầy sức nặng. Từ khúc dạo đầu, bản nhạc đệm đã trào lên những giai điệu hạnh phúc: Chiều mộng hoà thơ trên nhảnh duyên Cây me nu rít cặp chim chuyền Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền. Sao nhiều sự vật và lắm động tác thế! Tất cả đều tìm đến nhau và tìm đôi, ríu rít cả lên. Những đường biên giới cách ngăn bị xoá mờ. Chiều trở thành chiều mộng và nhánh là nhành duyên. Nhà thơ đã cố tình lướt qua nhũng sắc màu và dáng nét cụ thể của chúng cho âm hưỏng cuộc hoà thơ càng ngân nga. Câu thứ ba có ngữ pháp rất lạ. Cái gì đã Đổ trời xanh ngọc7 Chủ thể hành động ấy là ai? Thật khó giải thích. Chỉ biết rằng nếu câu thơ được viết lại cho đúng khuôn phép hơn, ví như Trời xanh đổ ngọc... thì có lẽ không còn gì. Chút thoáng ngợp trong cảm xúc mất đi và vẻ ăm ắp, no đầy, tự dưng nghiêng đổ của thiên nhiên cũng sẽ không được cảm nhận một cách sâu sắc. Đừng quá rạch ròi ỏ đây. Ngay tiếng huyền ở câu thứ tư không chắc là một thứ tiếng gì rõ rệt. Chẳng qua “vạn vật nức xuân tâm” bỗng dưng phát tiếng, thật mơ hổ mà như có giai điệu diu dặt, và có lẽ càng dìu dặt hơn trong vẻ mơ hổ ấy. Rõ là thiên nhiên đang gây áp lực cho con người theo kiểu riêng của nó. Ý niệm về hạnh phúc được khơi lên cứ không ngừng toả lan những vòng sóng nơi tâm hồn, khiến ta nhìn vào đâu cũng chạm phải nỗi rung động mới mẻ của chính mình: Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu Lả lả cành hoang, nắng trỏ chiều 17 So với mắy câu thơ đầu, cảnh vật ở đây được nhìn gần và đượm tính “ người” hơn. Các từ láy âm nhỏ nhỏ, xiêu xiêu, lả lả vừa mô phỏng tài tình các dáng điệu cùng những sắc thái chuyển động tinh vi của sự vật, vừa diễn tả rất đắt nỗi xao xuyến của lòng người khi lắng nghe những giao lưu bí ẩn trong trời đất. Có một thoáng nhìn hoang vắng phủ trùm lén cảnh vật lúc nắng trỏ chiều. Lạ, cũng trên con đítòng nhỏ nhỏ thân thuộc ấy, sao chiều nay trong gió xiêu xiêu, lòng ta bỗng mất vẻ an bằng, cũng chống chếnh, xiêu xiêu? Và cành lả lả, sao khéo giống con người đang trong trạng thái ngây ngất, bỗng phút chốc thấy mất hết sức lực vì một ảo giác nào đó? Thật không ngờ khuôn mặt tình yêu đã hiện lên giữa bộn bề những mối xúc cảm không rõ hình, rõ nét ấy: Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn Lân đầu rung động nỗi thương yéu Sự thực từ đây con người đã bắt được vào nhịp điệu của thiên nhiên và cộng hưởng với nó. Khổ thơ thứ ba mở ra một khoảng không gian bằng lặng và rộng rãi. Nhịp thơ trở lại điều hoà, khoan thai. Nhân vật trữ tình dường như muốn ngừng bước một vài giây để xác nhận lại, kiểm nghiệm lại chất lượng mới trong tình cảm của mình. Bản nhạc đệm thiên nhiên cũng chim lắng đi để những bước chân vô tư lự của anh, của em trở thành đối tượng quan sát chính: Em bước điềm nhiên không vưóng chân Anh đi lững đững chẳng theo gần Võ tâm - nhưng giữa bài thơ dịu Anh với em như một cặp vần. Không còn nghi ngờ gì nữa, trong bài thơ dịu của đất trời, anh với em như một cặp vần. Tuy nói là điềm nhiên, chẳng theo gần nhưng sự thật xúc cảm của nhân vật trữ tình đã mất đi vẻ “điềm nhiên” . Anh ta đã muốn reo lên, muốn kết luận và nói lời ràng buộc. Sự vô tàm lúc này chỉ còn là cái vỏ nữa thỏi. Khổ' thơ thứ tư quay trỏ lại với hình ảnh thiên nhiên và thừa tiếp rất khéo ý thơ trên: Mày biếc về đàu bay gấp gấp Con cò trên ruộng cánh phân văn Chim nghe trời rộng giang thêm cánh Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần. Âm thanh bản nhạc lúc này nổi lên có vẻ thúc đục và khuyến dụ ráo riết hơn, nhờ hiệu quả của các từ láy âm gấp gấp, phân vàn nằm ở cuối cáu, cuối nhịp và một mật độ dày đặc cốc động từ hoặc trạng từ, tính từ được động từ hoá; về, bay, gấp gấp, phán vân, nghe, giang, lạnh, xuống. Nó xui người ta tim đôi hoặc thổ lộ yêu đương và nói lời “dứt điểm” vào đúng lúc chiều sắp tắt, sương xuống lạnh để 18 trời thành quá rộng. Ngay cả làn mày biếc và con cò trên ruộng cũng đâu có nhởn nhơ. Chúng đang lựa chọn hay mải miết tìm về một chốn nào. Quả có mối duyên tương ngộ giữa anh và em, khiến anh phải ngơ ngẩn trước tình yêu đang nảy nở, để rồi bật thốt lên một tiếng kêu đắm đuối: Lòng anh thôi đã cưới lòng em. Trong từ cưới có nghe ran một niềm hoan lạc. Thơ duyên có một bố cục chặt chẽ, sáng sủa, thể hiện khá sâu cảm hứng lí giải của nhà thơ. Mặc dù có lần nói Làm sao cắt nghĩa được tình yéu (Vi sao), nhưng trong dự án làm “pho tự vị” thật đầy đủ về nó, Xuân Diệu đã không chịu bỏ trống mục từ nào, kể cả mục từ Duyên đầy hóc búa. Bao nhiêu lần người ta đã nói đến sự lạ lùng của “cơ duyên” (Cơ duyên đâu bỗng lạ sao - Truyện Kiều), nhưng có lẽ chỉ đến Xuân Diệu, cái nghịch lí của phạm trù này mới được tường giải. Ta cảm thấy rõ rệt bàn tay xếp đặt của tạo hoá, tuy vô hình mà có sức mạnh rất hiện thực. Dưới sức ép của quy luật tìm đôi và giữa muôn ngàn sợi tơ tình giăng mắc, làm sao người ta có thể không đến cùng nhau, làm sao có thể không yêu được? Duyên là thế - ở phần chìm của nó! Nhưng Thơ duyên cùn được hợp thành từ một nguồn cảm hứng khác nữa: cảm hứng bày tỏ tình yêu và bộc lộ niềm ao ước được kết duyên cùng em của nhân vật trữ tình, ở đây cần phải có sự phân biệt giữa anh ta và nhà thơ. Nhà thơ luôn tỉnh táo và không quên nhiệm vụ “cắt nghĩa” của mình, còn nhân vật trữ tình thì say đắm dến ngơ ngẩn trước niềm xôn'xao giao cảm của vạn vật. Anh ta chỉ nhìn thấy hay chỉ muốn thấy thiên nhiên trong vai trò xe kết tình duyên của nó. Không những thế, anh còn muốn tin ngay đó là chân lí - một chân lí vàng - cần được kể ra, nói lên cho đối tượng của mình cùng chia sẻ, để cùng đẩy sự điềm nhiên lui về thì quá khứ. ở đây, nhà thơ đã “về hùa” với nhân vật trữ tình, cho thiên nhiên hiện ra đúng khớp với niềm mong mỏi của anh ta, dẫu thừa hiểu rằng chẳng có thiên nhiên khách quan nào cả. Thực sự nó chỉ là toàn bộ tâm giới kẻ đang yêu trong một biểu hiện trá hình mà thôi. Sự giao thoa của hai nguồn cảm hứng nói trên chính là cơ sở nhận thức và là tinh cảm vững chắc giúp Xuân Diệu phát biểu một quan niệm sâu sắc về tinh yêu: tình yêu là sản phẩm của tạo hoá, “ nó chiếm hổn ta” một cách tự nhiên, vô hình mà không cưỡng nổi. Chính vì vậy, yêu là thuận theo lẽ trời, vô tội và đẹp, như “ hương đêm say dậy với trăng rằm” vậy. Nhiều năm tháng đã qua đi, cái duyên của bài Thơ duyên vẫn mặn mà như thách thức thời gian. Vâng, làm sao cũ được một bài thơ mà bao nhiêu độc giả đã yêu, đã thuộc và đã dùng làm “ nhịp cầu tơ chắp ý duyên” bắc về muôn nẻo tình yêu. PHAN HUY DŨNG 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan