Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu nâng cao chất lượng xây dựng các công trình sửa chữa đường bộ của côn...

Tài liệu Nghiên cứu nâng cao chất lượng xây dựng các công trình sửa chữa đường bộ của công ty cổ phần xdct giao thông 224

.PDF
95
103
121

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Đất nước ta đang từng ngày phát triển, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã phát huy hiệu quả tích cực, thể hiện chủ trương đúng đắn của Đảng ta trong định hướng xây dựng và phát triển đất nước khi đưa nước ta phát triển từng bước vững chắc từ một nước lạc hậu, nghèo đói trong khu vực và thế giới thành một nước đang phát triển. Thu nhập bình quân đầu người (GDP) không ngừng tăng lên hàng năm. Năm 2006, nước ta chính thức ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, đây là cơ hội lớn đối với sự phát triển nền kinh tế của đất nước nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức cho các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội trong nước. Một nền kinh tế phát triển bền vững đòi hỏi có một cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại để tạo tiền đề, làm động lực phát triển kinh tế - xã hội. Hàng năm, nhà nước đã huy động hàng chục ngàn tỷ đồng từ các nguồn vốn khác nhau để đầu tư xây dựng, sửa chữa các công trình hạ tầng giao thông đường bộ. Tuy nhiên, trong thực tế đầu tư xây dựng các công trình giao thông, hiện tượng lãng phí, thất thoát và các công trình xây dựng có chất lượng không tốt vẫn tồn tại đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới hiệu quả đầu tư và tạo ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế, xã hội. Do đó, việc quản lý dự án nói chung và quản lý chất lượng xây dựng các công trình giao thông nói riêng luôn được quan tâm của các cơ quan quản lý chuyên ngành cũng như toàn xã hội. Thời gian vừa qua, cùng với cả nước, Bộ giao thông vận tải đã có rất nhiều cố gắng trong công tác phát triển mạng lưới giao thông đường bộ trên cả nước bằng cách huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước cũng như mạnh dạn tạo cơ chế để thu hút vốn BOT… Nhiều tuyến quốc lộ, đường cao tốc được sửa chữa cải tạo hoặc xây dựng mới đáp ứng cơ bản nhu cầu giao thông phát triển kinh tế xã hội. Giao thông đường bộ đã có một diện mạo mới. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề về chất lượng xây dựng, sửa chữa và duy tu bảo dưỡng các công trình giao thông cần được nghiên cứu, xem xét một cách nghiêm túc để khắc phục các vấn đề về chất lượng xây dựng công trình. 1 Công ty cổ phần XDCTGT 244 tiền thân là Công ty quản lý và sửa chữa đường bộ 244 (doanh nghiệp công ích – Trực thuộc Khu quản lý đường bộ II, Cục đường bộ việt nam nay là Cục quản lý đường bộ I thuộc Tổng cục đường bộ việt nam) được thành lập năm 1997 có nhiệm vụ quản lý, sửa chữa cầu đường bộ tuyến QL3 đoạn Km 113+816(địa phận huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn) – Km 344+436 (cửa khẩu Tà Lùng, Cao Bằng). Năm 2010, Công ty quản lý và sửa chữa đường bộ 244 đổi tên thành Công ty TNHH MTV quản lý và sửa chữa đường bộ 244 là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Năm 2014, Công ty trải qua 2 lần nhà nước thoái vốn khỏi doanh nghiệp, Từ 1/1/2015 đến nay là doanh nghiệp cổ phần không còn vốn nhà nước. Từ một doanh nghiệp của nhà nước có chức năng quản lý tuyến đường quốc lộ 3 được giao gắn liền với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh phục vụ các mục tiêu chính trị là chủ yếu, chuyển sang hoạt động với mô hình công ty cổ phần thoát khỏi các yếu tố nhà nước, hòa mình trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh hết sức khốc liệt với bộ máy nhân sự cơ bản được giữ nguyên như ban đầu là yếu tố thuận lợi và cũng là những khó khăn của Công ty phải đối mặt để tổ chức tốt sản xuất kinh doanh. Công tác Chất lượng, tiến độ, hiệu quả luôn là khẩu hiệu và cũng là mục tiêu sống còn của Công ty để đảm bảo phát triển bền vững. Tuy nhiên, do những hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ cũng như những vấn đề khách quan đem lại nên nhiều công trình, dự án chưa đạt được những kết quả, chất lượng… như mong muốn. Vì vậy, việc thực hiện đề tài “Nghiên cứu nâng cao chất lượng xây dựng các công trình sửa chữa đường bộ của Công ty cổ phần XDCT giao thông 244” nhằm góp một phần vào mục tiêu đó. 2. Mục đích của đề tài: Đề tài nhằm nghiên cứu giải quyết các vấn đề còn bất cập, hạn chế trong công tác quản lý chất lượng xây dựng các công trình sửa chữa đường bộ của Công ty cổ phần XDCT giao thông 244, qua đó nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý chất lượng xây dựng các công trình do Công ty thực hiện. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 3.1 Đối tượng nghiên cứu: 2 Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề liên quan đến công tác quản lý chất lượng xây dựng công trình giao thông. 3.2 Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tập trung vào các công trình sửa chữa đường bộ được Công ty cổ phần XDCT giao thông 244 thi công trong thời gian qua. 4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu: Cách tiếp cận : - Tiếp cận khoa học quản lý chất lượng - Tiếp cận thực tiễn Phương pháp nghiên cứu: - Thu thập, tổng hợp, phân tích và kế thừa các kết quả nghiên cứu - Phân tích thống kê - Phương pháp chuyên gia 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa khoa học: Đề tài đã hệ thống hóa và đưa ra phương pháp luận khoa học trong công tác quản lý chất lượng sửa chữa công trình đường bộ. - Đề tài đã đề xuất được các giải pháp kỹ thuật và quản lý chất lượng, giúp cho công ty cổ phần XDCT giao thông 244 quản lý tốt chất lượng sửa chữa công trình. 6. Kết quả đạt được của đề tài - Dựa trên cơ sở khoa học đã phân tích thực trạng chất lượng và công tác quản lý chất lượng công tác sửa chữa công trình đường bộ. - Đề xuất một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng công tác sửa chữa công trình đường bộ tại công ty CPXD giao thông 244. 3 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 1.1 Về chất lượng công trình xây dựng đường bộ: 1.1.1 Công trình xây dựng 1.1.1.1Khái niệm: Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình được liên kết định vị với đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên mặt nước, được xây dựng theo thiết kế. Công trình xây dựng bao gồm công trình xây dựng dân dụng, công trình công nghiệp, giao thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn, công trình hạ tầng kỹ thuật và công trình khác. [1] 1.1.1.2 Đặc điểm: - Công trình xây dựng thường có vốn đầu tư lớn, chiếm tỉ trọng lớn trong ngân sách quốc gia. - Công trình xây dựng có quy mô, kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất xây lắp kéo dài. - Công trình xây dựng cố định tại nơi sản xuất, phương tiện thi công, người lao động, … phải di chuyển đến địa điểm xây dựng. - Công trình xây dựng được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo giá thỏa thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm không thể hiện rõ. 1.1.2 Chất lượng công trình xây dựng - Chất lượng công trình xây dựng là những yêu cầu về an toàn, bền vững, kỹ thuật và mỹ thuật của công trình nhưng phải phù hợp với quy chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng, các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và hợp đồng kinh tế. - Chất lượng công trình xây dựng không chỉ đảm bảo sự an toàn về mặt kỹ thuật mà còn phải thỏa mãn các yêu cầu về an toàn sử dụng có chứa đựng yếu tố xã hội và kinh tế. 4 - Để có được chất lượng các công trình xây dựng như mong muốn, có nhiều yếu tố ảnh hưởng, trong đó yếu tố cơ bản nhất là năng lực quản lý (của chính quyền, của chủ đầu tư) và năng lực của các nhà thầu tham gia các quá trình hình thành sản phẩm xây dựng. Chất lượng công trình xây dựng là chất lượng của cả một quá trình từ chất lượng khảo sát, chất lượng thiết kế, tổ chức thi công xây lắp đến khi đưa công trình vào vận hành khai thác sử dụng. - Từ góc độ bản thân sản phẩm xây dựng và người thụ hưởng sản phẩm xây dựng, chất lượng công trình xây dựng được đánh giá bởi các đặc tính cơ bản như: công năng, độ tiện dụng; tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật; độ bền vững, tin cậy; tính thẩm mỹ; an toàn trong khai thác, sử dụng, tính kinh tế; và đảm bảo về tính thời gian (thời gian phục vụ của công trình). Rộng hơn, chất lượng công trình xây dựng còn có thể và cần được hiểu không chỉ từ góc độ bản thân sản phẩm và người hưởng thụ sản phẩm xây dựng mà còn cả trong quá trình hình thành sản phẩm xây dựng đó. Một số vấn đề cơ bản trong đó là: - Chất lượng công trình xây dựng cần được quan tâm ngay từ khi hình thành ý tưởng về xây dựng công trình, từ khâu qui hoạch, lập dự án, chất lượng khảo sát, chất lượng thiết kế… - Chất lượng công trình tổng thể phải được hình thành từ chất lượng nguyên vật liệu, cấu kiện, chất lượng của công việc xây dựng đơn lẻ, của các bộ phận, hạng mục công trình. - Các tiêu chuẩn kỹ thuật không chỉ thể hiện ở các kết quả thí nghiệm, kiểm định nguyên vật liệu, cấu kiện, máy móc thiết bị mà còn ở quá trình hình thành và thực hiện các bước công nghệ thi công, chất lượng các công việc của đội ngũ công nhân, kỹ sư lao động trong quá trình thực hiện các hoạt động xây dựng. - Vấn đề an toàn không chỉ là trong khâu khai thác, sử dụng đối với người thụ hưởng công trình mà còn là cả trong giai đoạn thi công xây dựng đối với đội ngũ công nhân, kỹ sư xây dựng. 5 - Tính thời gian không chỉ thể hiện ở thời hạn công trình xây dựng có thể phục vụ mà còn ở thời hạn phải xây dựng và hoàn thành, đưa công trình vào khai thác sử dụng. - Tính kinh tế không chỉ thể hiện ở số tiền quyết toán công trình mà chủ đầu tư phải chi trả mà còn thể hiện ở góc độ đảm bảo lợi nhuận cho các nhà thầu thực hiện các hoạt động và dịch vụ xây dựng như lập dự án, khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng… - Vấn đề môi trường: cần chú ý không chỉ từ góc độ tác động của dự án tới các yếu tố môi trường mà cả tác động theo chiều ngược lại, tức là tác động của các yếu tố môi trường tới quá trình hình thành dự án. 1.1.3 Quản lý chất lượng xây dựng công trình giao thông đường bộ. - Quản lý chất lượng công trình xây dựng nói chung và quản lý chất lượng xây dựng công trình giao thông đường bộ nói riêng là tập hợp các hoạt động từ đó đề ra các yêu cầu, quy định và thực hiện các yêu cầu, quy định đó bằng các biện pháp như kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng, cải tiến chất lượng trong khuôn khổ một hệ thống. Hoạt động quản lý chất lượng công trình xây dựng chủ yếu là công tác kiểm tra giám sát của chủ đầu tư và của các chủ thể khác. - Công tác quản lý chất lượng các công trình xây dựng nói chung và quản lý chất lượng xây dựng công trình giao thông đường bộ nói riêng có vai trò to lớn đối với chủ đầu tư, nhà thầu tư vấn khảo sát, thiết kế và xây dựng cụ thể là: Đối với chủ đầu tư, đảm bảo và nâng cao chất lượng sẽ thỏa mãn được các yêu cầu của chủ đầu tư, tiết kiệm được vốn và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Đảm bảo và nâng cao chất lượng tạo lòng tin, sự ủng hộ của chủ đầu tư đối với nhà thầu, góp phần phát triển mối quan hệ hợp tác lâu dài. Đối với nhà thầu, việc đảm bảo và nâng cao chất lượng công trình xây dựng sẽ tiết kiệm nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, nhân công, tăng năng suất lao động. Nâng cao chất lượng công trình xây dựng là tư liệu sản xuất có ý nghĩa quan trọng tới năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ đối với nhà thầu. Quản lý chất lượng công trình xây dựng là yếu tố quan trọng, quyết định sức cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng. Hàng năm, vốn đầu tư dành cho xây dựng rất lớn, chiếm từ 30- 6 45%GDP, vì vậy quản lý chất lượng công trình xây dựng rất cần được quan tâm. Thời gian qua, còn có những công trình có chất lượng kém, bị bớt xén, rút ruột khiến dư luận bất bình. Do vậy vấn đề cần thiết đặt ra là làm sao để công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng có hiệu quả. - Nội dung hoạt động quản lý chất lượng theo các giai đoạn của dự án: Sản phẩm công trình xây dựng được đặt hàng bao tiêu sử dụng trước khi có sản phẩm cùng với đặc điểm nêu trên để dạt được một công trình xây dựng chất lượng tốt thì từng công đoạn khảo sát, thiết kế, thi công; từng loại vật liệu; thiết bị, dây truyền công nghệ, con người thực hiện… đều phải tuân thủ quy chuẩn, tiêu chuẩn, hướng dẫn ký thuật và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Để đảm bảo chắc chắn quá trình đầu tư xây dựng đã thỏa mãn các yêu cầu về chất lượng cần phải thực hiện công tác giám sát trong suốt quá trình thực hiện để quản lý chất lượng công trình xây dựng. Do vậy công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng thực chất là công tác giám sát, đây là nhiệm vụ của tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình hình thành nên sản phẩm xây dựng bao gồm: Người quyết định đầu tư thông qua cơ quan quản lý chuyên nghành về đầu tư xây dựng, chủ đầu tư, các nhà thầu, các tổ chức và cá nhân liên quan trong công tác khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng công trình. Giám sát là nhiệm vụ của chủ đầu tư và các chủ thể ký kết hợp đồng với chủ đầu tư. Có thể gọi chung công tác giám sát là Giám sát xây dựng. Nội dung công tác giám sát tùy theo nội dung của thành phần công việc. Tự giám sát là nhiệm vụ của các chủ thể tham gia công tác khảo sát, thiết kế, xây lắp và lắp đặt thiết bị công trình đã ký kết hợp đồng thực hiện công việc với chủ đầu tư. Cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành kiểm tra quá trình thực hiện công tác giám sát và tuân thủ luật pháp của chủ đầu tư và các chủ thể tham gia xây dựng công trình. Theo Nghị định số 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 của Chính phủ về Quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng [2], công tác quản lý chất lượng xuyên suốt các giai đoạn từ khâu khảo sát, thiết kế đến thi công và khai thác công trình theo nguyên tắc: 7 - Công tác khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng công trình phải đảm bảo an toàn cho bản thân công trình và các công trình lân cận; đảm bảo an toàn trong quá trình thi công xây dựng và tuân thủ các quy định của pháp luật. - Công trình, hạng mục công trình chỉ được nghiệm thu đưa vào khai thác sử dụng khi đáp ứng được các yêu cầu của thiết kế, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn áp dụng cho công trình, chỉ dẫn kỹ thuật và các yêu cầu khác của Chủ đầu tư theo nội dung của hợp đồng và qui định của pháp luật có liên quan. - Tổ chức, cá nhân khi tham gia hoạt động xây dựng phải có đủ điều kiện năng lực phù hợp với công việc thực hiện, có hệ thống quản lý chất lượng và chịu trách nhiệm về chất lượng các công việc do mình thực hiện trước chủ đầu tư và trước pháp luật. - Chủ đầu tư có trách nhiệm tổ chức quản lý chất lượng phù hợp với tính chất, qui mô và nguồn vốn đầu tư xây dựng công trình trong quá trình thực hiện đầu tư xây dựng công trình theo qui định của Nghị định. - Người quyết định đầu tư có trách nhiệm kiểm tra việc tổ chức thực hiện quản lý chất lượng công trình xây dựng của Chủ đầu tư và các nhà thầu theo qui định của Nghị định và qui định của Pháp luật có liên quan. - Cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng huống dẫn, kiểm tra công tác quản lý chất lượng của các tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng công trình; kiểm tra, giám định chất lượng công trình xây dựng; kiến nghị và xử lý các vi phạm về chất lượng công trình xây dựng theo qui định của pháp luật. * Nội dung quản lý chất lượng công trình xây dựng đường bộ: Nội dung của các chủ thể giám sát và tự giám sát trong các giai đoạn của dự án xây dựng đường bộ như sau: - Giám sát chất lượng của chủ đầu tư: Lựa chọn các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện năng lực theo qui định để thực hiện giám sát thi công xây dựng công trình, thí nghiệm, kiểm định chất lượng công trình và các công việc tư vấn xây dựng khác. Thông báo vwf nhiệm vụ, quyền hạn của các cá nhân trong hệ thống quản lý chất lượng của chủ 8 đầu tư, nhà thầu giám sát thi công xây dựng công trình cho các nhà thầu có liên quan biết để phối hợp thực hiện. - Trong giai đoạn khảo sát: Chủ đầu tư thực hiện công tác giám sát với nội dung kiểm tra năng lực thực tế của nhà thầu khảo sát xây dựng, việc tuân thủ các qui định trong hợp đồng xây dựng của nhà thầu trong quá trình thực hiện khảo sát; theo dõi, kiểm tra việc thực hiện khảo sát xây dựng bao gồm: Vị trí khảo sát, khối lượng khảo sát, qui trình thực hiện khảo sát, lưu giữ số liệu khảo sát và mẫu thí nghiệm, kiểm tra thí nghiệm trong phòng thí nghiệm và thí nghiệm hiện trường, kiểm tra công tác đảm bảo an toàn lao động, an toàn môi trường trong quá trình thực hiện khảo sát. Nghiệm thu, phê duyệt báo cáo kết quả khảo sát xây dựng theo đề cương đã được phê duyệt. Ngoài sự giám sát của chủ đầu tư, nhà thầu khảo sát xây dựng phải có bộ phận chuyên trách tự giám sát công tác khảo sát. - Trong giai đoạn thiết kế: Nhà thầu tư vấn thiết kế bố trí đủ người có kinh nghiệm và chuyên môn phù hợp để thực hiện thiết kế; cử người có đủ điều kiện năng lực theo qui định để làm chủ nhiệm đồ án thiết kế, chủ trì thiết kế đồng thời có bộ phận tự giám sát sản phẩm thiết kế theo các qui định và chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư và pháp luật về chất lượng thiết kế xây dựng công trình. Cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước chuyên ngành thực hiện công tác thẩm tra hoặc thuê đơn vị tư vấn có năng lực thẩm tra trước khi chủ đầu tư nghiệm thu sản phẩm thiết kế. Chủ đầu tư phê duyệt thiết kế các giai đoạn và chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của các bản vẽ thiết kế giao cho nhà thầu. - Trong giai đoạn thi công xây dựng công trình: Nhà thầu thi công xây dựng công trình lập hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với qui mô công trình trong đó qui định trách nhiệm của từng cá nhân, từng bộ phận đối với việc quản lý chất lượng công trình xây dựng. Chủ đầu tư thực hiện công tác giám sát hoặc thuê đơn vị tư vấn có đủ năng lực thực hiện công tác giám sát từ vật liệu đàu vào, quá trình tổ chức thi công tới khi nghiệm thu công trình đưa vào vận hành khai thác. Cùng giám sát với chủ đầu tư còn có nhà thầu thiết kế xây dựng công trình thực hiện nhiệm vụ giám sát tác giả và ở một số dự án còn có sự tham gia giám sát của cộng đồng; 9 - Trong giai đoạn bảo hành công trình: Chủ đầu tư, chủ sở hữu hoặc chủ quản lý sử dụng công trình có trách nhiệm kiểm tra tình trạng công trình xây dựng, phát hiện hư hỏng để yêu cầu sửa chữa, thay thế, giám sát và nghiệm thu công việc khắc phục sửa chữa đó; Bên cạnh sự giám sát, tự giám sát cảu các chủ thể, quá trình triển khai xây dựng còn có sự tham gia giám sát của nhân dân, của các cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng công trình xây dựng. * Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công trình xây dựng: Do đặc điểm của công trình xây dựng có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công trình xây dựng, Luận văn chỉ xem xét các nhân tố này theo các nhóm yếu tố chủ quan và khách quan. - Yếu tố con người: + Chủ đầu tư: Sự kiên quyết của chủ đầu tư đối với chất lượng công trình là quan trọng nhất. Nơi nào chủ đầu tư (hoặc giám sát của chủ đầu tư) nghiệm túc thực hiện đúng quy chuẩn, tiêu chuẩn, chỉ dẫn kỹ thuật trong quá trình tổ chức giám sát thì nơi đó có sản phẩm công trình xây dựng chất lượng tốt. Thực tế cùng một công trình xây dựng tương tự với cùng một nhà thầu xây dựng vẫn con người đó, dây chuyền thiết bị không thay đổi nếu Tư vấn giám sát là người nước ngoài thì công trình đó chất lượng tốt hơn tư vấn giám sát là người Việt nam. + Nhà thầu xây dựng: Nhà thầu thi công xây dựng đóng vai trò quyết định trong công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng. Nếu lực lượng này không quan tâm đúng mức chất lượng sản phẩm do mình làm ra, chạy theo lợi nhuận thì sẽ ảnh hưởng không tốt tới chất lượng công trình. Công tác đấu thầu và lựa chọn nhà thầu: Quá trình tổ chức đấu thầu nếu lựa chọn được nhà thầu đủ năng lực, kinh nghiệm tổ chức thi công, có hệ thống quản lý chất lượng thực hiện nghiêm túc theo tiêu chuẩn ISO, hệ quả là sẽ có công trình chất lượng tốt. 10 + Ngoài ra còn có các nhà thầu khảo sát, thiết kế, thí nghiệm, kiểm định… cũng là những đối tượng có tác động không nhỏ đến chất lượng công trình; + Thiết bị và dây chuyền công nghệ: Thiết bị và dây chuyền công nghệ hiện đại, tiên tiến cũng góp phần tạo ra công trình có chất lượng tốt; + Vật tư vật liệu đầu vào là yếu tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng công trình, bởi vật tư, vật liệu là thành phần cấu tạo nên sản phẩm công trình xây dựng. Do vậy phải thực hiện tốt từ khâu lựa chọn vật tư, vật liệu đến khâu thí nghiệm, kiểm định bảo quản sử dụng. + Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, các văn bản quy phạm pháp luật khoa học hợp lý, phù hợp với thực tế sản xuất sẽ góp phần nâng cao chất lượng công trình xây dựng. Ngược lại sẽ cản trở sản xuất và ảnh hưởng xấu đến chất lượng công trình. - Ảnh hưởng theo nhóm yếu tố khách quan: + Khí hậu: Mưa, nắng, bão lũ, nhiệt độ, độ ẩm… ảnh hưởng đến chất lượng và tiến độ thi công công trình; + Điều kiện địa chất, thủy văn phức tạp cũng là các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công trình, đặc biệt là các hạng mục nền móng công trình. 1.1.4 Các mô hình quản lý chất lượng xây dựng công trình giao thông Từ các nguyên tắc chung ở trên ta thấy rằng trong hoạt động xây dựng công trình giao thông có sử dụng vốn nhà nước có hai chủ thể chính tham gia trực tiếp quản lý chất lượng trong suốt quá trình đầu tư xây dựng đó là: - Người quyết định đầu tư: Là cá nhân hoặc đại diện cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có thẩm quyền quyết định phê duyệt dự án đầu tư. Cụ thể là Thủ tướng chính phủ đối với những công trình quan trọng quốc gia do Quốc Hội phê duyệt chủ trương đầu tư; Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Chủ tịch Quận, Huyện, xã, Thị trấn theo phân cấp là người quyết định đầu tư theo phân cấp theo Luật ngân sách. 11 Người quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư và dự án đầu tư đồng thời chỉ định Chủ đầu tư trong quá trình phê duyệt dự án đầu tư. Mặt khác người quyết định đầu tư thành lập cơ quan chuyên môn thực hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành giúp việc cho mình kiểm tra, đôn đốc chất lượng, tiến độ trong quá trình thực hiện đầu tư xây dựng công trình, cụ thể là: + Bộ giao thông vận tải: Cục quản lý xây dựng và chất lượng công trình giao thông là cơ quan trực thuộc Bộ GTVT thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về quản lý xây dựng và chất lượng công trình xây dựng trong giai đoạn thực hiện đầu tư đối với các dự án đầu tư xây dựng do Bộ giao thông vận tải quản lý; quản lý nhà nước về chất lượng các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông trong phạm vi cả nước theo nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Giao thông vận tải. Cục Quản lý xây dựng và chất lượng công trình giao thông có trụ sở đặt tại thành phố Hà nội. + Ủy ban nhân dân các tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương: Sở giao thông vận tải là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chất lượng các công trình xây dựng chuyên ngành. + Ủy ban nhân dân thành phố, UBND huyện: Có các phòng nghiệp vụ (Phòng Hạ tầng kinh tế, Phòng quản lý đô thị…) là cơ quan chuyên môn giúp việc cho Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chất lượng các công trình xây dựng chuyên ngành. + Các Ban quản lý dự án trực thuộc Tổng cục đường bộ Việt nam: Là các đơn vị sự nghiệp hoạt động và thực hiện nhiệm vụ tư vấn quản lý dự án các dự án giao thông đường bộ được Bộ giao thông vận tải hoặc Tổng cục đường bộ việt nam giao. + Các Ban quản lý dự án giao thông đường bộ trực thuộc Sở giao thông vận tải : Là các đơn vị sự nghiệp hoạt động và thực hiện nhiệm vụ tư vấn quản lý dự án các dự án giao thông đường bộ được Sở giao thông vận tải giao. 12 + Ban quản lý các dự án trực thuộc Ủy ban nhân dân các tỉnh: Là các đơn vị sự nghiệp hoạt động và thực hiện nhiệm vụ tư vấn quản lý dự án các dự án giao thông đường bộ được giao trên địa bàn tỉnh. + Ban quản lý dự án trực thuộc Ủy ban nhân dân các huyện, Thành phố, Thị xã: Là các đơn vị sự nghiệp hoạt động và thực hiện nhiệm vụ tư vấn quản lý dự án các dự án giao thông đường bộ được giao trên địa bàn huyện, Thành phố, Thị xã. - Chủ đầu tư: Là người sở hữu vốn hoặc được giao quản lý và sử dụng vốn để đầu tư xây dựng công trình. Chủ đầu tư là người trực tiếp tổ chức quản lý chất lượng và thực hiện quá trình xây dựng công trình thông qua quá trình tổ chức đấu thầu và quản lý bằng hợp đồng với các chủ thể tham gia quá trình đầu tư, xây dựng công trình. Chủ đầu tư có thể trực tiếp thực hiện công tác quản lý chất lượng thông qua bộ máy của mình hoặc thuê tư vấn giám sát thực hiện công tác quản lý chất lượng thông qua đấu thầu lựa chọn hoặc chỉ định thầu đơn vị tư vấn giám sát quản lý chất lượng công trình. Các chủ thể tham gia quá trình xây dựng như đơn vị khảo sát, thiết kế, xây lắp và chế tạo thiết bị… đều phải thỏa mãn các điều kiện của nguyên tắc chung đó là năng lực phù hợp với công việc thực hiện, có hệ thống quản lý chất lượng và chịu trách nhiệm về chất lượng các công việc xây dựng do mình thực hiện trước chủ đầu tư và trước pháp luật. Tự giám sát: Là công việc của các nhà thầu khảo sát, thiết kế và thi công công trình với các sản phẩm của mình tạo ra trong quá trình hoạt động xây dựng. Tất cả các hoạt động giám sát nêu trên đều góp phần đảm bảo chất lượng của công trình xây dựng. Kết quả của hoạt động giám sát được thể hiện thông qua hồ sơ quản lý chất lượng , bao gồm các văn bản phê duyệt, biên bản nghiệm thu và bản vẽ hoàn công , nhật ký giám sát của chủ đầu tư, nhật ký thi công của nhà thầu, các thông báo công văn trao đổi, văn bản thống nhất. Việc thực hiện các hoạt động giám sát chất lượng, lập và lưu trữ hồ sơ quản lý chất lượng được gọi chung là công tác quản lý chất lượng. 2. Phương pháp quản lý chất lượng công trình xây dựng 13 Căn cứ vào hệ thống qui chuẩn, tiêu chuẩn ký thuật và văn bản quy phạm pháp luật ở Việt nam, công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng thực hiện bằng hai phương pháp: - Phương pháp đo lường (định lượng): Hiện nay trên các công trình xây dựng đều có các phòng thí nghiệm hợp chuẩn của nhà thầu xây dựng hoặc liên doanh với nhà thầu xây dựng thực hiện công tác thí nghiệm kiểm tra đánh giá chất lượng. + Đối với vật tư, vật liệu: Dùng phương pháp đo lường và thực hiện các thí nghiệm đánh giá các chỉ tiêu của vật tư, vật liệu sử dụng để đưa vào xây dựng công trình nếu đạt yêu cầu nhà thầu thi công mới được phép sử dụng, nếu không đạt các chỉ tiêu theo đúng yêu cầu thiết kế phải mang ra khỏi công trường. + Quá trình xây lắp: Đo, đếm kiểm tra các kích thước hình học công trình tương lai sẽ đạt được, đánh giá các sai số so với thiết kế theo qui chuẩn, tiêu chuẩn đạt hay không đạt. Nếu đạt thì được phép chuyển bước thi công, nếu không đạt phải thực hiện lại. Trước khi tiến hành đánh giá bộ phận công trình hay dự án cần xác định phương pháp đánh gái thông qua việc lấy mẫu và sử dụng phương pháp thống kê. Những mẫu được lấy đảm bảo tính khách quan trong suốt quá trình thực hiện dự án hay trong các giai đoạn xây dựng khác nhau. Tất cả các vị trí kiểm tra phải thuận tiện cho việc đánh giá và các mẫu được lựa chọn phải đảm bảo mang tính đại diện cho toàn bộ công trình và phải được phân tích, đánh giá theo các tiêu chuẩn quy định hiện hành. - Phương pháp quan sát (định tính): Dùng kinh nghiệm theo dõi quan sát trực quan để đánh giá chất lượng công trình xây dựng trong suốt quá trình tổ chức thi công từ khâu chuẩn bị vật liệu đầu vào, quá trình xây lắp đến khi đưa công trình vào khai thác sử dụng, tuy nó không định lượng được các chỉ tiêu, thông số nhưng nó đánh giá được toàn bộ quá trình tạo nên chất lượng sản phẩm công trình xây dựng; phát hiện được các khuyết tật và các nguy cơ ảnh hưởng đến chất lượng công trình để kịp thời khắc phục, xử lý. Ý nghĩa của công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng: 14 Chất lượng công trình xây dựng ngày càng được Nhà nước và cộng đồng xã hội quan tâm. Nếu làm tốt công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng sẽ tạo ra một sản phẩm xây dựng có công năng và tuổi thọ đáp ứng yêu cầu sử dụng, mang lại lợi ích cho cộng đồng, phát huy hiệu quả của công tác đầu tư xây dựng, nhất là đối với công trình đầu tư xây dựng từ nguồn vốn nhà nước. Đây là một yêu cầu tất yếu không chỉ của cơ quan quản lý nhà nước, các chủ thể tham gia xây dựng công trình mà còn là của cả cộng đồng xã hội. 1.2 Những hư hỏng thường gặp ở các công trình đường bộ và nguyên nhân. Trong quá trình khai thác sử dụng công trình cầu đường, do tác động của tải trọng, các yếu tố thời tiết, các yếu tố khí hậu, thủy văn, lũ lụt… và yếu tố thời gian sẽ làm cho các công trình bị xuống cấp và xuất hiện những hư hỏng. Những hư hỏng xuất hiện nhiều hay ít tùy thuộc vào cấp loại công trình và mức độ khai thác sử dụng như lưu lượng xe trên một đơn vị thời gian, tải trọng xe khai thác cho phép và diễn biến thực tế tải trọng các phương tiện lưu thông, kết cấu công trình, đặc điểm địa chất thủy văn, khí hậu … và đặc biệt quan trọng là công tác sửa chữa, bảo trì cầu đường bộ. Thực tế cho thấy rằng sau khi nghiệm thu bàn giao đưa công trình vào khai thác sử dụng thì công tác duy tu bảo dưỡng, bảo trì cầu đường bộ là cực kỳ quan trọng, nó là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thọ công trình cũng như đảm bảo năng lực khai thác hiệu quả, an toàn cho công trình cầu đường bộ cũng như vấn đề an toàn giao thông nói chung. 1.2.1 Các hư hỏng nền, mặt đường thường gặp ở các công trình đường bộ: Mặt đường là kết cấu ngoài cùng của kết cấu công trình đường bộ chịu tác động trực tiếp của lốp xe và các tải trọng khác cũng như ảnh hưởng của các yếu tố thời tiết, nhiệt độ, thủy văn… nên rất dễ phát sinh hư hỏng. Hiện nay, mạng lưới giao thông đường bộ nước ta chủ yếu sử dụng kết cấu mặt đường lớp trên bằng bê tông nhựa rải nóng, đá dăm láng nhựa, thấm nhập nhựa hoặc mặt đường bê tông xi măng. Một số công trình sửa chữa mặt đường sử dụng kết cấu bằng bê tông nhựa cacboncor làm áo đường, loại kết cấu áo đường này ít phổ biến do còn nhiều e ngại về độ bền của công trình theo thời gian. 15 Kết cấu nền đường thường sử dụng đất đắp, đất liền thổ hoặc cát được xử lý gia cố đảm bảo độ chặt trên nền đất tự nhiên theo yêu cầu thiết kế. Kết cấu móng mặt đường thường dùng là kết cấu đá dăm tiêu chuẩn được lu lèn đảm bảo độ chặt thiết kế hoặc kết cấu cấp phối đá dăm loại. Với mặt đường bê tông xi măng, thường dùng kết cấu bê tông xi măng có mác bê tông thấp hơn để làm lớp móng. Tùy thuộc vào loại mặt đường mà quá trình khai thác sử dụng có thể xuất hiện các dạng hư hỏng thường gặp như sau: - Ổ gà mặt đường: Là các hư hỏng lớp áo ngoài cùng của mặt đường gây ra các hố bong bật mặt đường, khi mới xuất hiện có thể chỉ khoảng <15*15cm nhưng có thể phát triển tăng diện tích hư hỏng rất nhanh, nhất là vào mùa mưa lũ nếu không được kịp thời sửa chữa. Loại hư hỏng này có thể gặp với các loại mặt đường nhưng nhiều nhất là dạng mặt đường đá dăm láng nhựa hoặc thấm nhập nhựa. Rất hiếm gặp với kết cấu mặt đường bê tông xi măng. - Xô trượt thảm bê tông nhựa, bong bật kết cấu thảm: là hiện tượng một hay nhiều lớp thảm bê tông nhựa phía trên mặt đường bị trượt xô khỏi vị trí ban đầu, bong bật gây biến dạng mặt đường do tác dụng của lực bánh xe tác động vào gây nên (Hình 1.1) - Lún vệt bánh xe: Là dạng hư hỏng gây lún mặt đường dọc theo đường ở vị trí vệt hàng bánh xe chạy. Loại hư hỏng này thường xuất hiện nhiều ở kết cấu mặt đường bê tông nhựa. Các khu vực có lưu lượng xe tải nặng lưu thông cao. Mùa hè có nhiệt độ cao cùng các yếu tố xe quá tải trọng thiết kế đường hoạt động không được kiểm soát kịp thời là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các hư hỏng dạng này xuất hiện rất nhiều trong thời gian vừa qua. Một số nguyên nhân khác cũng được nghiên cứu để có các giải pháp khắc phục (Hình 1.2). - Cao su nền đường: Là hiện tượng nền đường bị phá vỡ kết cấu chịu lực dưới tác dụng của tải trọng động hoặc nước ngầm… gây ra hiện tượng lún có đàn hồi mặt đường dưới tác dụng của tải trọng, khi có tải trọng xe thì mặt đường bị lún võng xuống khi xe đi qua lại trở lại gần như cũ, quan sát rõ bằng mắt thường. Do biến dạng lún lớn nên 16 phần áo đường bị phá hủy có thể nứt vỡ hoặc gây nên trồi trượt, biến dạng nền mặt đường. Có thể có cả bùn đất phùi lên mặt đường mỗi khi xe chạy qua. - Cao su mặt đường: Là hiện tượng hư hỏng lớp móng mặt đường gây phá hoại lớp áo đường và nhận biết gần giống hiện tượng cao su nền đường nhưng phần hư hỏng cần sửa chữa chỉ dừng lại ở lớp móng của kết cấu mặt đường. - Cóc gặm: là hư hỏng kết cấu mặt đường dọc theo mép đường phần tiếp giáp với lề đường tạo nên các hình dạng giống cóc gặm. Hư hỏng dạng này thường có ở mặt đường đá dăm láng nhựa. - Nứt vỡ mặt đường bê tông xi măng: Xuất hiện các loại vết nứt chéo, vết nứt ngang, vết nứt dọc, vết nứt hỗn hợp, vỡ góc, vỡ cạnh tấm bê tông mặt đường. - Tấm bản mặt đường bê tông xi măng bị lún và chuyển vị. - Lún võng cục bộ mặt đường: Mặt đường xuất hiện các vị trí lún cục bộ với diện tích hạn chế, thường là dọc theo các vệt bánh xe nhưng cũng có thể là lún cục bộ ngang đường nhất là tại các vị trí hai bên mang cống, đầu cầu… gây mất an toàn giao thông. - Rạn nứt chân chim mặt đường (nứt lưới): thường gặp ở mặt đường có kết cấu đá dăm láng nhựa hay thảm bê tông nhựa. - Bong tróc mặt đường: Bong lớp láng mặt (đá nhỏ và chất kết dính) khỏi mặt đường do độ liên kết kém giữa lớp láng (láng mặt) và lớp mặt đường phía dưới. - Sạt lở ta luy dương nền đường: Là hiện tượng thường xảy ra đối với nền đường đào hoặc nền đường nửa đào nửa đắp. Đất đá bị mất ổn định trượt khỏi vị trí ban đầu rơi xuống vùi lấp rãnh dọc, mặt đường gây hư hỏng công trình giao thông và mất an toàn giao thông nghiêm trọng. Trong mùa mưa lũ, các tuyến đường miền núi thường xuyên xảy ra hiện tượng hư hỏng dạng này (Hình 1.3). 17 Hình 1.1 Hình ảnh mặt thảm BTN bị xô trượt và bong bật Hình 1.2 Hình ảnh mặt đường bị lún vệt bánh xe 18 Hình 1.3 Hình ảnh sạt lở ta luy dương đường QL3 Hình 1.4 Hình ảnh sói lề đường 19 - Sạt lở ta luy âm nền đường: Là hiện tượng nền đất phía ta luy âm nền đường bị trôi trượt, sạt lở gây phá hoại kết cấu nền mặt đường rất nguy hiểm. Hiện tượng này thường gặp ở các tuyến đường miền núi, đường chạy dọc theo bờ sông, suối…Thường phải làm kè rọ thép đá hộc hoặc xấy kè đá, kè bê tông để khắc phục, sửa chữa hư hỏng dạng này. - Sói lở ta luy nền đường đắp: Do nước chảy tập trung với lưu lượng lớn từ mặt đường đổ xuống mái ta luy làm sói trôi đất nền đường, thường hay xuất hiện ở đầu tường cánh cống hoặc phần đất đắp ¼ nón cầu hay nền đắp phía bụng của đường cong. - Sụt lún nền, mặt đường: Do nhiều nguyên nhân, một đoạn đường có thể bị sụt xuống thành hố sâu (Hố tử thần) hoặc bị trôi trượt về phía ta luy âm. - Sói lề đường: Hiện tượng lề bị sói trôi do nước chảy dọc mép đường hoặc kết hợp các yếu tố xe chạy gây bong bật lề đường gây nên ( Hình 1.4). - Hư hỏng công trình thoát nước: Hệ thống cống, rãnh thoát nước mặt đường có thể bị hư hỏng trong quá trình sử dụng do bị phá hoại bởi thiên nhiên hoặc do phương tiện giao thông. - Hư hỏng các công trình an toàn giao thông như hộ lan tôn sóng, cọc tiêu, biển báo hiệu đường bộ… do tai nạn giao thông hoặc lụt bão và yếu tố thời gian gây nên. 1.2.2 Nguyên nhân gây hư hỏng công trình đường bộ - Ổ gà mặt đường: Thường xuất hiện cục bộ trên mặt đường do sự bong bật kết cấu mặt đường tại một hay vài vị trí trên một đơn vị diện tích mặt đường tạo nên các hố hư hỏng với chiều sâu và chiều rộng phát sinh rất nhanh nếu không được sửa chữa kịp thời. Ổ gà được tạo nên do chất lượng tại vị trí mặt đường đó không đảm bảo, dưới tác động của lực ngang do bánh xe chạy trên đường sẽ bị bong bật, gặp thời tiết bất lợi (đặc biệt là mưa kéo dài) sẽ kết hợp và phát sinh rất nhanh về diện tích và chiều sâu. Nguyên nhân chính thường do chất lượng vật liệu mặt đường kém; thấm nước; Mất vật liệu hạt do giao thông gây ra; Nứt lưới hoặc các điểm lún không được sửa chữa kịp thời. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất