Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Nghien cuu dia ly

.PDF
37
224
61

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN KHOA ĐỊA LÍ – ĐỊA CHÍNH  PHAN THÁI LÊ TẬP BÀI GIẢNG PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊA LÍ Quy Nhơn, tháng 9/2011 MỤC LỤC GIỚI THIỆU HỌC PHẦN ...................................................................................................1 Chƣơng 1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC ĐỊA LÍ ..........................................2 1.1. Đối tƣợng, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Địa lí học ...............................2 1.1.1. Quan niệm về Địa lí học ......................................................................................2 1.1.2. Đối tượng nghiên cứu của Địa lí học .................................................................2 1.1.3. Mục đích nghiên cứu của Địa lí học...................................................................3 1.1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu của Địa lí học ..................................................................4 1.2. Cấu trúc của Khoa học Địa lí...................................................................................4 1.2.1. Nhóm các khoa học địa lí tự nhiên .....................................................................4 1.2.2. Nhóm các ngành khoa học địa lí kinh tế – xã hội.............................................4 1.2.3. Nhóm các ngành khoa học địa lí mang tính liên ngành ...................................5 1.2.4. Nhóm hệ thống các ngành khoa học địa lí gồm bản đồ học và các bộ phận chia nhỏ của nó ................................................................................................................5 1.3. Lịch sử phát triển của Địa lí học .............................................................................6 1.3.1. Thời kì cổ đại (Thế kỉ thứ V TCN - V SCN) ....................................................6 1.3.2. Thời kì Trung Cổ (Thế kỉ V- XV) ......................................................................7 1.3.3. Thời kì các công cuộc phát kiến địa lí vĩ đại (Thế kỉ XV – XVI) ..................8 1.3.4. Thời kì tiền Tư bản chủ nghĩa (thế kỉ XVII – XVIII) ......................................8 1.3.5. Thời kì Tư bản chủ nghĩa (thế kỉ XIX) ..............................................................9 1.3.6. Nửa đầu thế kỉ XX (1900 – 1950) ......................................................................9 1.3.7. Nửa cuối thế kỉ XX.............................................................................................10 1.4. Xu hƣớng phát triển của Địa lí học ......................................................................11 1.5. Vai trò của Địa lí học trong nhà trƣờng và đời sống ........................................11 Chƣơng 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊA LÍ .................................................13 2.1. Phƣơng pháp luận trong nghiên cứu Địa lí học.................................................13 2.1.1. Quan niệm về phương pháp luận ......................................................................13 2.1.2. Những phương pháp luận đ ược sử dụng trong nghiên cứu địa lí .................13 2.2. Hệ phƣơng pháp nghiên cứu địa lí .......................................................................15 2.2.1. Phương pháp trong phòng..................................................................................15 2.2.2. Phương pháp mô tả, so sánh ..............................................................................15 2.2.3. Phương pháp bản đồ ...........................................................................................15 2.2.4. Phương pháp địa vật lí .......................................................................................15 2.2.5. Phương pháp địa hoá học...................................................................................16 2.2.6. Phương pháp cổ địa lí.........................................................................................16 2.2.7. Phương pháp ảnh máy bay, vệ tinh ..................................................................16 2.2.8. Phương pháp phân tích hệ thống ......................................................................16 2.2.9. Phương pháp toán học ........................................................................................16 2.2.10. Phương pháp điều tra khảo sát thực địa .........................................................16 2.3. Các bƣớc thực hiện một đề tài nghiên cứu địa lí ...............................................16 2.3.1. Xác định vấn đề nghiên cứu ..............................................................................16 2.3.2. Xác định mục đích, mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vị nghiên cứu...18 2.3.3. Lựa chọn quan điểm và phương pháp nghiên cứu..........................................19 2.3.4. Bố cục đề tài nghiên cứu....................................................................................19 Chƣơng 3. PHÂN VÙNG ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VÀ CẢNH QUAN HỌC ................20 3.1. Phân vùng địa lí tự nhiên........................................................................................20 3.1.1. Quan niệm về vùng.............................................................................................20 3.1.2. Quan niệm về phân vùng địa lí tự nhiên ..........................................................20 3.1.3. Mục đích của phân vùng địa lí tự nhiên (phân vùng tổng hợp) ....................20 3.1.4. Các nguyên tắc cơ bản của phân vùng địa lí tự nhiên ....................................21 3.1.5. Phương pháp phân vùng địa lí tự nhiên ...........................................................22 3.1.6. Các chỉ tiêu chẩn đoán các cấp phân vị ...........................................................23 3.1.7. Một số hệ thống đơn vị phân vị trong phân vùng địa lí tự nhiên..................24 3.2. Cảnh quan học ..........................................................................................................31 3.2.1. Khái niệm Cảnh quan học và cảnh quan địa lí ................................................31 3.2.2. Cấu trúc và các hợp phần của cảnh quan địa lí ...............................................32 3.2.3. Phân loại cảnh quan ............................................................................................32 3.2.4. Các phương pháp nghiên cứu cảnh địa lí.........................................................33 Tài liệu tham khảo ...............................................................................................................34 GIỚI THIỆU HỌC PHẦN 1. Tên học phần: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊA LÍ (Research method of geography) 2. Số đơn vị tín chỉ: 2 3. Trình độ: Dạy cho sinh viên đại học ngành địa lí năm thứ 2. 4. Phân bố thời gian: - Lí thuyết: 20 tiết - Thảo luận: 10 tiết - Bài tập: 10 tiết 5. Điều kiện tiên quyết: SV đã học xong các học phần Địa lí đại cương. 6. Mục tiêu của học phần: - Kiến thức: Hiểu được quá trình phát triển của khoa học Địa lí (những bước thăng trầm, những giai đoạn khủng hoảng bế tắc, những giai đoạn hư ng thịnh); Các khái niệm về Khoa học Địa lí; đối tượng, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Địa lí học. Hiểu được các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của Địa lí học. Học phần cũng cung cấp cơ sở và phương pháp phân vùng địa lí tự nhiên một trong những nhiệm vụ hàng đầu khi tiến hành nghiên cứu địa lí địa phương. Để thực hiện tốt nội dung nghiên cứu địa lí học phần cũng cung cấp những kiến thức cơ bản của Cảnh quan học. - Kỹ năng: Có kĩ năng phân tích những sự kiện trong quá trình phát triển khoa học Địa lí và sự tự hoàn thiện của khoa học Địa lí để đáp ứng được các nhu cầu của thực tiễn ngày càng biến đổi nhanh chóng và đa dạng. Có kĩ năng xác định một vấn đề địa lí để nghiên cứu và xây dựng được một đề cương nghiên cứu khoa học Địa lí hoàn chỉnh trong đó biết vận dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp. - Thái độ, chuyên cần: Trân trọng thành tựu phát triển của khoa học Địa lí và có ý thức đóng góp vào sự phát triển chung của khoa học Địa lí. Tích cực tìm tòi, nghiên cứu các vấn đề của tự nhiên - xã hội để đóng góp vào sự phát triển của xã hội và xây dựng khoa học Địa lí ngày cành phát triển vững mạnh. Để có thái độ tích cực đó, sinh viên phải chăm chỉ và chuyên cần trong học tập, phát huy tính độc lập trong đặt và giải quyết các vấn đề của Địa lí học. 1 Chƣơng 1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC ĐỊA LÍ 1.1. Đối tƣợng, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Địa lí học 1.1.1. Quan niệm về Địa lí học Địa lí học đã phát triển hàng nghìn năm, nhưng những kiến thức địa lí đầu tiên chỉ là sự mô tả, liệt kê những điều mắt thấy, tai nghe nên Địa lí học ngày đó đã mang cái tên với đúng nghĩa là “Geographia” (sự mô tả Trái Đất) với rất nhiều quan niệm khác nhau. Hiện nay Địa lí học được hiểu là: “Địa lí học là một hệ thống các khoa học tự nhiên và xã hội nghiên cứu các thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên, các thể tổng hợp sản xuất theo lãnh thổ và các thành phần của chúng” (Bách khoa toàn thư Xô viết). 1.1.2. Đối tượng nghiên cứu của Địa lí học Thể tổng hợp tự nhiên và thể tổng hợp sản xuất theo lãnh thổ được được coi là những đối tượng nghiên cứu của địa lí tự nhiên và địa lí kinh tế. 1.1.2.1. Đối tượng nghiên cứu của Địa lí tự nhiên a. Thể tổng hợp địa lí tự nhiên: là một sự kết hợp có quy luật của các thành phần địa lí (như địa hình, khí hậu, nước trên mặt và nước ngầm, thổ n hưỡng, thực vật và động vật) nằm trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau rất phức tạp và tạo thành một hệ thống không thể chia cắt được. Thể tổng hợp địa lí tự nhiên là khái niệm cơ bản thứ nhất mà Khoa học địa lí tự nhiên đã cấu tạo được (còn gọi là địa tổng thể, địa hệ thống, thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên). Qua nhìn nhận về các nghiên cứu của các nhà địa lí tự nhiên thì sự nhận thức về sự phân bố của các vật thể trong không gian hay thông qua tìm hiểu những mối liên hệ tồn tại giữa các thành phần cấu tạo nên một lãnh thổ nhất định, tư duy của con người cũng dần dần đi đến khái niệm ấy. Ngoài khái niệm TTHĐLTN là đối tượng nghiên cứu của địa lí tự nhiên, còn có các khái niệm khác bàn về đối tượng nghiên cứu của địa lí tự nhiên như “lớp vỏ địa lí Trái Đất” (Kalexnisk). b. Lớp vỏ địa lí: “lớp vỏ địa lí là lớp vỏ của Trái Đất gồm có các lớp vỏ bộ phận (khí quyển, thạch quển, thuỷ quyển, thổ quyển và quyển sinh vật), xâm nhập và tác động lẫn nhau” (Kalexnisk) . - Cấu trúc của lớp vỏ địa lí: + Theo chiều thẳng đứng có 5 quyển: khí quyển - thuỷ quyển - sinh quyển - thổ quyển - thạch quyển (có một số ý kiến đề xuất quyển thứ 6 là quyển trí tuệ hay là quyển kĩ thuật). 2 Trong đó sinh quyển ra đời muộn nhất nhưng lại có tác dụng làm thay đổi các quyển khác và cũng dễ thay đổi nhất; thạch quyển là cổ nhất, bảo thủ nhất nhưng tạo nên bề mặt địa hình, nó chịu ảnh hưởng của các thành phần khác. + Theo cấu trúc ngang: tạo ra trên bề mặt Trái Đất các lãnh thổ các cấp khác nhau, đầu tiên cụ thể nhất là sự phân chia lục địa, đại dương, tiếp theo là sự phân hoá các đới… - Người ta hiểu lớp vỏ địa lí là một bộ phận phức tạp nhất của hành tinh chúng ta về thành phần vật chất, về kiến trúc. Nó bao gồm tầng đối lưu (khí quyển bên dưới), thuỷ quyển (tối đa sâu 11km), tầng đá trầm tích trong lớp vỏ Trái Đất (độ dày 4 - 5 km), cùng các thể xâm nhập macma và toàn bộ các thể hữu cơ sống tại 3 quyển trên. Lớp vỏ địa lí trong phạm vi nêu trên là một hệ thống vật chất toàn vẹn, khác hẳn với những bộ phận còn lại của Trái Đất. Tính toàn vẹn đó được quy định bởi sự trao đổi vật chất và năng lượng liên tục xảy ra giữa các bộ phận cấu tạo riêng biệt của lớp vỏ địa lí. c. Cảnh quan địa lí: “Cảnh quan địa lí là một bộ phận của bề mặt đất, về mặt định tính khác hẳn với các bộ phận khác, được bao bọc bởi những ranh giới tự nhiên và là sự tập hợp các đối tượng và hiện tượng tác động lẫn nhau một cách có quy luật và thống nhất trong bản thân nó, được biểu hiện một cách điển hình trên một không gian rộng lớn có quan hệ không tách rời về mọi mặt với lớp vỏ địa lí” S.V. Kaletxnic (1959). Ba khái niệm trên là ba khái niệm cơ bản trong địa lí tự nhiên. Tuy nhiên, chỉ có thể coi là đối tượng của địa lí tự nhiên (nói chung) hoặc là thể tổng hợp địa lí tự nhiên hoặc là lớp vỏ địa lí. Khái niệm “cảnh quan” chỉ biểu diễn một lãnh thổ nhỏ hẹp, rất nhỏ hẹp của bề mặt Trái Đất, vì vậy ở quy mô hành tinh, người ta phải sử dụng đến khái niệm lớp vỏ cảnh quan. d. Môi trường địa lí: Trong thời gian từ 1950 trở lại đây môi trường địa lí được nhiều tác giả chấp nhận coi là đối tượng nghiên cứu của địa lí tự nhiên. Việc xác định môi trường địa lí là đối tượng nghiên cứu của địa lí tự nhiên có ưu thế là nhìn tự nhiên bề mặt đất không phải thuần tuý là một vật thể vật lí mà là môi trường hoạt động kinh tế của con người. Bằng cách đó người ta nhấn mạnh đến các mối quan hệ trong các công cuộc khảo sát địa lí tự nhiên với thực tiễn và với hoạt động sản xuất của xã hội 1.1.2.2. Đối tượng nghiên cứu của địa lí kinh tế Là nghiên cứu sự hình thành, phát triển và điều khiển các hệ thống kinh tế - xã hội theo lãnh thổ được xây dựng trên bề mặt đất nước như là sự phản ánh phân công lao động xã hội. 1.1.3. Mục đích nghiên cứu của Địa lí học - Nghiên cứu hoàn cảnh thiên nhiên, sản xuất xã hội, đời sống cư dân ở những địa phương khác nhau và trên toàn thể mặt Địa cầu (Hoàng Thiếu Sơn). 3 - Nhận thức các quy luật phát sinh và phát triển của tự nhiên, xác định mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội loài người, để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ thiên nhiên. 1.1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu của Địa lí học Trên cơ sở nhận thức được các quy luật phát sinh và phát triển của môi trường địa lí (quyển vô cơ và hữu cơ), xác định cho đúng đắn các mối quan hệ giữa hệ thống tự nhiên và hệ thống xã hội. Các mối quan hệ này ngày càng trở nên phức t ạp. 1.1.4.1. Nhiệm vụ của địa lí tự nhiên - Nhiệm vụ của địa lí tự nhiên Đại cương là nghiên cứu những đặc điểm chung nhất, kiến trúc và các quy luật phát triển của lớp vỏ địa lí. - Nhiệm vụ của địa lí tự nhiên khu vực là nghiên cứu đặc thù địa lí tự nhiê n ở các khu vực và nguyên nhân tạo nên sự khác nhau. - Nhiệm vụ của địa lí tự nhiên bộ phận: chỉ nghiên cứu một bộ phận của lớp vỏ địa lí để phát hiện ra những đặc điểm của các bộ phận đó. 1.1.4.2. Nhiệm vụ của địa lí kinh tế - Nhiệm vụ của Địa lí kinh tế Đại cương là nghiên cứu các hiện tượng cư dân và sản xuất xã hội trong toàn bộ môi trường địa lí thế giới. - Nhiệm vụ của Địa lí kinh tế bộ phận (khu vực hay địa phương) là nghiên cứu các hiện tượng cư dân và sản suất xã hội trong toàn bộ môi trường địa lí trong phạm vi từng nước, từng miền. 1.2. Cấu trúc của Khoa học Địa lí Hệ thống khoa học địa lí bao gồm 2 nhóm khoa học lớn: Nhóm các khoa học tự nhiên (địa lí tự nhiên) và nhóm các khoa học xã hội (địa lí kinh tế). 1.2.1. Nhóm các khoa học địa lí tự nhiên Nghiên cứu các quy luật khách quan của lớp vỏ địa lí. Đối tượng nghiên cứu là những hiện tượng tự nhiên xảy ra trong lớp vỏ địa lí và bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên. - Các khoa hoc địa lí tự nhiên bộ phận bao gồm các khoa học sau: Địa mạo học; Thuỷ văn học; Khí hậu học; Thổ nhưỡng học; Địa lí thực vật; Địa lí động vật; Cổ địa lí học... Trong quá trình nghiên cứu xuất hiện các ngành địa lí chuyên sâu, như thuỷ văn sông ngòi, thuỷ văn nước ngầm, Hải dương học. Ngoài ra còn xuất hiện các ngành khoa học trung gian: thuỷ văn - hoá học, thuỷ văn - địa chất… - Các ngành địa lí tự nhiên tổng hợp: Địa lí tự nhiên đại cương; Địa lí tự nhiên khu vực. 4 1.2.2. Nhóm các ngành khoa học địa lí kinh tế – xã hội Thường được định nghĩa là khoa hoc về sự phân bố sản xuất, nghiên cứu sự phân bố sản xuất, mối quan hệ giữa sản xuất với tài nguyên tự nhiên, kinh tế xã hội . hay bản thân “địa lí kinh tế là một khoa học xã hội thuộc hệ thống các khoa học địa lí và nghiên cứu sự phân bố địa lí của nền sản xuất, hiểu như là sự thống nhất giữa sức sản xuất và các quan hệ sản xuất, các điều kiện và đặc điểm của sự phát triển của sản xuất ở những nước và khu vực khác nhau” (định nghĩa của hội địa lí toàn Liên Xô, 1955). Các khoa hoc địa lí kinh tế bộ phận nghiên cứu sự phân bố của từng hoạt động sản xuất, các điều kiện và các đặc điểm về sự phát triển của hoạt động đó ở từng nước hoặc từng khu vực. Bao gồm: Địa lí dân cư; Cơ sở địa lí kinh tế; Địa lí nông nghiệp; Địa lí công nghiệp; Địa lí giao thông vận tải; Địa lí đô thị, Địa lí thương mại; Địa lí chính trị; Địa lí phục vụ... Trong giai đoạn hiện nay địa lí kinh tế thế giới và địa lí đô thị đang ngày càng tiến tới hình thành những khoa học riêng biệt nằm trong địa lí kinh tế. Địa lí phục vụ, địa lí các tài nguyên lao động là hai khoa học địa lí mới đang được hình thành. 1.2.3. Nhóm các ngành khoa học địa lí mang tính liên ngành Là nhóm các ngành khoa học không những cung cấp các kiến thức địa lí mà còn đề cập đến những kiến thức ngoài phạm vi địa lí học, mang tính liên n gành điển hình như: Địa phương chí; Địa phương chí địa lí y học; Địa lí quân sự… 1.2.4. Nhóm hệ thống các ngành khoa học địa lí gồm bản đồ học và các bộ phận chia nhỏ của nó Khoa học bản đồ là một khoa học riêng biệt, vì nó có đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng. Nhưng nó giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống các khoa học địa lí, vì nó nghiên cứu sự phân bố của các đối tượng tự nhiên và kinh tế và các mối quan hệ giữa chúng bằng bản đồ. Hay, ngoài các nhiệm vụ truyền thống thì nhiệm vụ ngày càng được đưa lên hàng đầu là việc nghiên cứu các quy luật không gian, các mối liên hệ qua lại giữa các hiện tượng, cũng như động lực của chúng. * Kết luận chung: Dù địa lí học có hai nhóm khác nhau, có đối tượng nghiên cứu khác nhau, nhưng Hệ thống các khoa học địa lí thống nhất từ trong bản chất của nó, tồn tại những mối quan hệ rất chặt chẽ kết hợp chúng lại với nhau vì chúng có cùng một nhiệm vụ chung giải quyết là: trên cơ sở nhận thức được các quy luật phát sinh và phát triển của môi trường địa lí, xác định cho đúng đắn các mối quan hệ giữa hệ thống tự nhiên và hệ thống xã hội. Các mối quan hệ này ngày càng trở nên phức tạp. * Cấu trúc Khoa học Địa lí có những vấn đề đặt ra: - Nếu Địa lí tự nhiên về mặt phân loại khoa học thuộc về hệ thống các khoa học tự nhiên và Địa lí Kinh tế thuộc về hệ thống các khoa học xã hội, vì sao không để 5 chúng phát triển như là những ngành khoa học riêng biệt mà phải tập hợp chúng thành Địa lí học? - Địa lí tự nhiên và Địa lí kinh tế có thể hợp nhất lại thành một Địa lí học thống nhất, hiểu là nhất nguyên hay không? HỆ THỐNG KHOA HỌC ĐỊA LÍ ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN ĐỊA LÍ KT - XH KHOA HỌC BỘ PHẬN KHOA HỌC TỔNG HỢP KHOA HỌC TỔNG HỢP KHOA HỌC BỘ PHẬN - Địa mạo học - Kh í hậu học - Thủy văn học -Địa lí tự nhiên đại cương. -Địa lí tự nhiên khu vực - Cổ địa lí -Địa lí kinh tế đại cương. - Địa lí kinh tế khu vực - Địa lí dân cư - Địa lí công nghiệp - Địa lí nông nghiệp - Địa lí GTVT - Địa lí du lịch dịch vụ - Địa lí đô thị - Địa lí chính trị… - Hải dương học - Băng học - Thổ nhưỡng học - Địa lí thực vật - Địa lí động vật KHĐL LIÊN NGÀNH - Địa lí các nước - Địa lí các miền - Địa phương chí - Địa lí lịch sử Hình 1.1. Sơ đồ Hệ thống khoa học Địa lí 1.3. Lịch sử phát triển của Địa lí học 1.3.1. Thời kì cổ đại (Thế kỉ thứ V TCN - V SCN) Mặc dù những hiểu biết về địa lí đã có từ hàng nghìn năm trước công nguyên, từ khi xã hội loài người xuất hiện, khi mà con người biết đến các biểu hiện của tự nhiên như sấm chớp, mưa, gió, các quá trình diễn biến của các hiện tượng tự nhiên như sự thay đổi nhiệt độ theo thời gian, không gian. Hay loài người đã biết đến sự thay đổi khí hậu theo mùa để tránh rét và kiếm ăn…, có thể nói các kiến thức địa lí hình thành từ khi con người tìm cách khám phá Trái Đất nhằm mục đích sống, chinh phục, tìm kiếm lợi nhuận… Vì vậy, khoa học địa lí là khoa học cổ nhất của nhân loại. 6 Thủa ban đầu c ủa địa lí chỉ là một sự mô tả, liệt kê những điều mắt thấy, tai nghe của con người về các hiện tượng tự nhiên. Cho nên khoa học địa lí ngày đó đã được gọi bằng cái tên Geographia (sự mô tả Trái Đất) mà Eratosthene đưa ra vào thế kỉ thứ III trước công nguyê n và định nghĩa là sự nghiên cứu tổng hợp các vùng có người ở, phân biệt với việc đi du ngoạn. Trong thời kì Cổ đại với những chuyến đi biển giỏi giang của người Phenixi sống ở ven Địa Trung Hải đến buôn bán với khắp các bến bờ Địa Trung Hải, Biển Đỏ, Đại Tây Dương và Ban Tích. Nên các tài liệu địa lí phương Tây ban đầu là các tư liệu về bến bờ ven biển, tư liệu thu thập trên đất liền đầu tiên lại do người Trung Quốc, cách đây 3000 năm họ đã có những thông tin địa lí về đất nước mình như giao thông thuỷ bộ, các thành phố. Ở Phương Tây, Bắc Phi và người Can Đê ở Lưỡng Hà - Cận Đông, người Hy Lạp và người La Mã đã tiếp tục tìm hiểu địa lí cũng như sắp đặt, chọn lọc các thông tin địa lí, nền khoa học địa lí chính thức hình thành. Thời gian này đã có rất nhiều thông tin địa lí có tổ chức về nhiều mặt, đáng chú ý là ý kiến của các nhà bác học cổ Ai Cập và cổ La Mã lúc đó là những đế quốc chiếm hữu nô lệ phát triển nhất. Đó là ý niệm về dạng cầu của Trái Đất (Arixtôtôlet thế kỉ IV Tcn), sự biến đổi của bầu trời s ao khi đi từ Bắc đến Nam, càng lên cao chân trời càng mở rộng…Mô t ả vùng biển gần Biển Đen, tiểu Á, Lưỡng Hà, Ai Cập, Địa Trung Hải của Hêrôđôt (thế kỉ thứ V Tcn). Đã có những khái niệm về một Trái Đất hình tròn (trường phái Pythagore-Pitago) và tính địa đới (trường phái Parmesnide-Pacmênit). Đến thế kỉ thứ III TCN Êaratôxten đã đo đạc Trái Đất, xác định phương hướng và vị trí địa lí, mô tả các quyển Trái Đất. Khi này địa lí học đã mang tính định hướng, sử dụng toán học, thiên văn học. Đến đầu công nguyên, Strabôn khoảng năm 58 TCN – 25 SCN chuyển sang nghiên cứu địa lí nhân văn, quan niệm về đối tượng và nhiệm vụ của địa lí học, về sự thống trị của biển so với lục địa. Các ý kiến của thời kì này có thể chia thành hai hướng đó là hướng địa lí đại cương (có Arixtôtôlet, Eratosphen, K.Ptolêmê), hướng địa lí khu vực (có Hêrôđôt, Strabôn). Thế kỉ thứ II SCN khoa học địa lí có bước nhìn nhận sai lạc của Pôtôlêmê ( 90-168) khi đưa ra thuyết “ Địa tâm hệ” đã làm cho địa lí có bước thụt lùi và phải chịu “một đêm dài Trung cổ” do sự ủng hộ của Giáo hội. Trong thời kì Trung Cổ bản đồ đã được xây dựng nhiều do các chuyến đi xa truyền đạo, còn địa lí chỉ phát triển ở những nơi không có sự ảnh hưởng của Giáo hội như vùng châu Á, vùng người Hồi giáo. Như vậy, ở thời kì này địa lí chưa trở thành một khoa học, cho dù những ý niệm địa lí đầu tiên đã có từ rất lâu. 1.3.2. Thời kì Trung Cổ (Thế kỉ V- XV) Là thời kì mà khoa học nói chung, khoa học địa lí nói riêng bị suy thoái dưới sự tác động của lí thuyết nhà thờ với sự ủng hộ thuyết “Địa tâm hệ” của Pôtôlêmê đối với khoa hoc địa lí, Giáo hội đã cho rằng mọi thứ trên Trái Đất cũng như trong vũ trụ đều do Thượng Đế sinh ra, vì vậy tất cả những lí thuyết đi ngược lại với lí thuyết đó đều bị 7 Giáo hội phản bác và trị tội. Trong những trường hợp bị Giáo hội kết tội có các nhà địa lí nổi tiếng như Côpecnic, Nicolas, Brunô (Brunô bị thiêu vì bảo vệ thuyết của Côpecnic). Những nơi mà chưa chịu ảnh hưởng của nhà thờ thì khoa học địa lí vẫn tiếp tục phát triển. Như vùng những người đạo hồi tiếp tục đo chiều dài kinh tuyến, mô tả vùng đất đai mới, người Noocman tìm kiếm và chiếm giữ các vùng biển và đảo… 1.3.3. Thời kì các công cuộc phát kiến địa lí vĩ đại (Thế kỉ XV – XVI) Là thời kì Phục hưng của địa lí học, bắt đầu từ thế kỉ XV. Với nhân thức Trái Đất hình cầu và nuôi hy vọng đến bờ đông của lục địa châu Á bằng cách vượt biển phía Tây, buôn bán với Trung Quốc và Ấn Độ của người châu Âu. - Christoph Colomb đã đi bằng đường biển từ Tây Ban Nha và phát hiện ra châu Mĩ (1492). - Vaxcô de Gama (Bồ Đào Nha) đã trở thành người đầu tiên vượt qua mũi Bão Táp tới được bờ Đông châu Phi và Ấn Độ năm (1497). - Magienlan đi vòng quanh thế giới (1519-1522) đã tạo ra tầm nhìn địa lí mới của nhân loại về hình cầu của Trái Đất cũng như sự nối liền nhau của các đại dương. Các đế quốc châu Âu vào cuộc và đã phát kiến ra nhiều miền đất mới, như châu Đại Dương. Thế kỉ XVII - XVIII là thời kì có các phép đo và hệ thống hóa trong địa lí. Ginbe (năm1600) phát hiện Trái Đất là một khối nam châm, phát minh ra kính viễn vọng, kính hiển vi; Torixeli chế ra khí áp kế đo độ cao tương đối của địa hình; Galile (1564-1642) đặt nền móng cho khoa học thực nghiệm… Nổi bật là công trình “Địa lí đại cương” của Varenius (1622-1650) khái quát hoá toàn bộ tri thức về Trái Đất, định nghĩa đối tượng, nội dung của Địa lí học. Bắt đầu hình thành các Trường phái địa lí địa lí kinh tế và bản đồ kinh tế của Nga, mô tả thống kê của Đức, địa lí thương mại của Pháp… 1.3.4. Thời kì tiền Tư bản chủ nghĩa (thế kỉ XVII – XVIII) - Tiếp tục nhiều chuyến khám phá, tìm kiếm, mở rộng diện tích quan trọng về đất đai và hiểu biết về địa lí. - Sự phát triển khoa học kỹ thuật lần thứ nhất đã cung cấp các dụng cụ nghiên cứu, đo lường giúp cho việc quan sát không gian và vẽ bản đồ chính xác hơn. - Kepler (1571 – 1630) đưa ra lí thuyết về các Quy luật chi phối sự vận động của các hành tinh xung quanh Mặt Trời, Quy luật hấp dẫn trong vũ trụ của Newton. - Quan điểm của nhà triết học kiêm địa lí học Kant về địa lí “Địa lí là sự mô tả về không gian” là hòn đá tảng để Khoa học Địa lí trở thành một khoa học độc lập và độc đáo. 8 - Thực hiện khảo sát các vùng đất chưa được biết đến, tập trung ở nội địa các châu lục, các xứ cực, giữa đại dương (James Cook người Anh 3 lần đi vòng quanh thế giới; thám hiểm Châu Đại Dương của người Hà Lan đã phát hiện ra đảo Taxmania, Newzland…). - Nhiều nước như Pháp, Anh, Hà Lan xuất bản nhiều bản đồ. 1.3.5. Thời kì Tư bản chủ nghĩa (thế kỉ XIX) - Hệ thống TBCN đạt được những thành tựu lớn trên quy mô toàn thế giới, sự tìm kiếm những nguồn nguyên liệu, thị trường mới, giành giật thuộc địa đã thúc đẩy nhiều cuộc thám hiểm. - Giáo lí nhà thờ bị phủ nhận; quan niệm tiến hoá được xác lập qua Học thuyết tiến hoá của Đac uyn; thuyết Nguồn gốc Trái Đất của Kantơ – Laplaxơ; các Định luật của Niutơn về vật lí… - Kruzenstec và Lixianxki (Nga) đi vòng quanh thế giới ; Bellingshausen và Lazarev phát hiện ra lục địa Nam Cực (16/1/1820). - Nghiên cứu nội địa các châu lục: Nam Mỹ, Trung Mỹ (A. Humbon 1769 – 1859); Nam và Trung Phi (D. Livingxton, 1811); miền xích đạo châu Phi (G. Stanlay, 1871). - Nghiên cứu xứ cực: Đoàn thám hiểm của Noocdonsen (1878 – 1879) của Nga đi vòng quanh phía Bắc của lục địa Á – Âu… - Với những học thuyết, quan điểm và phương pháp nghiên cứu riêng cho phép Khoa học địa lí rút ra những quy luật địa lí độc đáo, hoàn thiện. - Hình thành một Khoa học địa lí có tính chuyên nghiệp, có đào tạo và tổ chức nghiên cứu rõ ràng và mang tính quốc tế. - Sự phân ngành trong Địa lí học làm cho nó trở thành một hệ thống nhiều bộ môn. Bộ môn địa lí được giảng dạy ngày càng nhiều trong các trường đại học. - Các nước Đức, Pháp, Nga sớm thành lập Hội địa lí. - Nhiều khoa học chuyên ngành mới ra đời như: Địa chất học, Khí hậu học, Thổ nhưỡng học, Thực vật học…phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội. - Địa lí tự nhiên phát triển mạnh, đến cuối thế kỉ XIX hình thành địa lí kinh tế. - Xuất hiện xu thế nghiên cứu địa lí tự nhiên tổng hợp. Nổi bật là chủ trương nghiên cứu tổng hợp tự nhiên và phát triển thành Học thuyết cảnh quan của Đôcutraep vào thế kỉ XX. - Bản đồ học rất phát triển và bao trùm các “phần trắng” trên bản đồ cũ. - Xuất hiện các công trình địa lí lớn của các nhà nổi tiếng như: Hombôn (cuốn Vũ trụ - mô tả lịch sử tự nhiên thế giới), Rite (công trình Địa lí trong mối quan hệ với tự nhiên và lịch sử nhân loại), Reclus và Vidal (bộ „Địa lí thế giới‟ dài 19 tập),… 9 * Địa lí thời kì này tập trung vào 3 khuynh hướng chính: Nghiên cứu vùng; nghiên cứu quan hệ con người – môi trường địa lí và hướng nghiên cứu cảnh quan. 1.3.6. Nửa đầu thế kỉ XX (1900 – 1950) - Đầu thế kỉ XX Địa lí học có cuộc khủng hoảng khi không xác định được đối tượng nghiên cứu sau khi phân dị ra thành các khoa học bộ phận. - Khoa học địa lí không được nổi bật trong xã hội như ở thế kỉ XIX; thiếu thố ng nhất trong cơ sở lí luận, vẫn áp dụng các quan điểm và thành tựu cũ; không được thúc đẩy bởi nhu cầu xã hội; vẫn thiên về khoa học tự nhiên. - Xuất hiện các trường phái địa lí quốc gia: + Trường phái địa lí Pháp: Lấy sự phân hoá không gian, phân hoá theo vùng làm nền tảng và mục tiêu nghiên cứu; + Trường phái địa lí Đức – Trường phái cảnh quan: Nghiên cứu các cảnh quan văn hoá, các cảnh quan trong sự tác động của con người nhưng vẫn thiên về tự nhiên; + Trường phái địa lí Nga: Với khuynh hướng cảnh quan là chính, nhưng phân biệt rõ địa lí tự nhiên và địa lí kinh tế và thiên về tổng hợp. + Trường phái địa lí Mỹ: Cơ bản là địa lí vùng và cảnh quan trên quan điểm địa lí thống nhất tự nhiên – con người, có chú ý đến bảo vệ môi trường sinh thái. 1.3.7. Nửa cuối thế kỉ XX - Khoa học địa lí được trang bị hoàn chỉnh bằng „Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử‟. - Vấn đề nghiên cứu tổng hợp lãnh thổ được khoa học khẳng định và theo tính chất nhất thể hoá (đối tượng nghiên cứu của Địa lí học là tổng hợp thể lãnh thổ thống nhất tự nhiên – kinh tế - xã hội – nhân văn). - Địa lí chuyển từ thiên về tự nhiên sang thiên về xã hội; mục đích phục vụ kinh tế - xã hội không chỉ ở tầm vĩ mô mà có cả lợi ích cá nhân; địa lí thâm nhập vào mọi người, được mọi người cần đến. - Khoa học địa lí được hiện đại hoá biểu hiện qua quan điểm và phương pháp tiếp cận cơ bản, biểu hiện: + Nghiên cứu các hệ thống không gian TN - KT – XH – VH thống nhất hay hoàn chỉnh để đánh giá đúng hiện trạng và dự báo tương lai; + Địa lí học đứng trên quan điểm tổng hợp – động lực và phân tích hệ thống trong nghiên cứu; + Đối tượng nghiên cứu là chiều rộng không gian của các hiện tượng và sự vật, là tổng hợp thể không gian mà các hiện tượng và sự vật tồn tại trong đó; + Nhiệm vụ của Địa lí học là định vị, nghĩa là xác định vị trí và vị thế của các hiện tượng và sự vật, là đánh giá các tổng hợp thể không gian và đưa ra mô hình để tổ 10 chức không gian lãnh thổ đạt hiệu quả cao nhất đối với con người. Khi nghiên cứu coi không gian trên Trái Đất là không gian của con người, do con người tạo ra, sản xuất ra vì lợi ích của con người, từ đó đặt vai trò và trách nhiệm của con người đối với môi trường xung quanh. + Phương pháp tiếp cận là phương pháp hệ thống và được trợ giúp bởi các phương pháp toán học, vật lí, hoá học, sinh học và xã hội học; + Hệ thống thông tin địa lí (GIS) được coi như một công cụ đắc lực cho việc phân tích hệ thống không gian, vẽ bản đồ tự động, phân tích cấu trúc ngang và quan hệ không gian, tính toán được mối quan hệ cấu trúc thẳng đứng… - Các Nhà khoa học địa lí tiên phong đã làm cho Khoa học địa lí đổi mới. - Từ những năm 70 của thế kỷ XX, Địa lí học được giao nhiệm vụ giải quyết một trong những vấn đề lớn nhất của thời đại là vấn đề về mối quan hệ giữa con người và môi trường sống. 1.4. Xu hƣớng phát triển của Địa lí học - Mọi nghiên cứu trong Địa lí học phải nhằm đến việc làm biến đổi thế giới theo hướng nhằm đạt được một sự công bằng xã hội thực chất hơn, phục vụ cho các tầng lớp thiểu số, người nghèo… - Có nội dung đa dạng, nhưng chú ý nhiều đến các hành vi và cách ứng xử của các nhóm người đối với môi trường bao quanh. - Địa lí nhân văn nhấn mạnh đến các giá trị nhân văn, tín ngưỡng và cách ứng xử của con người trước một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. - Địa lí học tìm ra các nguyên nhân làm xảy ra các biến cố về môi trường (trước đây là chỉ ra các vấn đề về môi trường) và tìm cách triệt tiêu nguyên nhân chứ không chỉ bị động xử lí các hậu quả của các mối quan hệ giữa con người và môi trường. - Quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề phân bố con người, phân vùng, sử dụng không gian và đặc biệt là tổ chức và quản lí không gian. - Nghiên cứu mối quan hệ giữa xã hội loài người với các hệ thống sinh thái, tài nguyên và sử dụng tài nguyên để đạt được một sự phát triển bền vững trước những thách thức mới của tự nhiên. Hay, xây dựng các mô hình tối ưu cho các hoạt động sản xuất kinh tế-xã hội. 1.5. Vai trò của Địa lí học trong nhà trƣờng và đời sống - Cung cấp một số hiểu biết về khoa học địa lí, Trái Đất : + Cung cấp những kiến thức cơ bản về môi trường và hành tinh Trái Đất. + Hiểu biết được đời sống của các dân tộc trên thế giới, những quan hệ người và người, giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất và sự tiến bộ xã hội. + Rèn luyện cho học sinh nhiều kĩ năng cần thiết, đặc biệt là kĩ năng bản đồ. 11 - Khoa học địa lí là khoa hoc duy nhất lấy lớp vỏ địa lí và toàn bộ sản xuất xã hội làm đối tượng nghiên cứu, giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa con người và nền sản xuất xã hội với môi trường tự nhiên. - Kết quả nghiên cứu của ĐLH là các tài liệu, tư liệu quan trọng cho các khoa hoc khác tìm hiểu. Tài liêu tham khảo chƣơng 1: 1, Lê Bá Thảo (Chủ biên). Cơ sở Địa lí tự nhiên (Chương 1. Địa lí học là một hệ thống các Khoa hoc; Chương 2. Các giai đoạn chính trong nhận thức về bề mặt Trái Đất và các giai đoạn phát triển chính của Địa lí học). NXBGD, 1987. 2, Vũ Tự Lập, Sự phát triển của khoa học Địa lí trong thế kỉ XX (Chương 1, 2, 3). NXB GD, 2004. 3, Hoàng Thiếu Sơn, Địa lí tự nhiên Đại cương – Tập 1 (Bài 1: Đối tượng, mục đích, phương pháp của Khoa học địa lí), NXBGD, 1963. 4, A.G. I-xat-sen-ko, Những vấn đề địa lí hiện nay, NXB Giáo dục, 1982. 5, Yu.G. Xauskin. Những vấn đề địa lí hiện nay trên thế giới. NXBGD, 1981. 12 Chƣơng 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊA LÍ 2.1. Phƣơng pháp luận trong nghiên cứu Địa lí học 2.1.1. Quan niệm về phương pháp luận Có nhiều cách hiểu về phương pháp luận nghiên cứu khoa học: - Phương pháp luận là c ác nguyên lí chung về các cách xem xét, nghiên cứu sự vật, hiện tượng, các nguyên tắc chung về việc vận dụng các phương pháp, về việc sử dụng tài liệu, sự kiện trong một khoa học nhất định, các nguyên lí và nguyên tắc chung này gắn liền với đặc điểm của khách thể nghiên cứu, chúng không trực tiếp nằm trong nội dung của phương pháp (Bách khoa TT VN). - Lí thuyết và phương pháp luận nhận thức là cơ sở triết học trực tiếp của bất kì phương pháp luận nghiên cứu khoa học cụ thể nào (Đzebi Z.E – 1980). - Nói một cách hình tượng, phương pháp luận là quan niệm về sự phát triển lí thuyết của một khoa học nhất định (Alaep – 1983). - Phương pháp luận là học thuyết hay lí luận về phương pháp. Đó là những quan điểm chỉ đạo, xây dựng các nguyên tắc hợp thành phương pháp, xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng có hiệu quả. Trong đó, quan trọng nhất là các nguyên lí có quan hệ trực tiếp với thế giới quan, có tác dụng định hướng việc xác định phương hướng nghiên cứu, tìm tòi, lựa chọn và vận dụng phương pháp. Phương pháp luận có nhiều mức, phương pháp luận ở mức cao nhất là Duy vật biện chứng của Triết học Mác – Lênin, là phương pháp nghiên cứu khoa học chung cho tất cả các khoa học bộ phận. Trong Khoa học địa lí, khi thực hiện nghiên cứu các đối tượng địa lí trong mối quan hệ với các yếu tố tự nhiên khác (vì bản chất của Khoa học địa lí là một hệ thống và đối tượng nghiên cứu là thể tổng hợp) người ta thường sử dụng cụm từ “quan điểm” hay “quan niệm”. Quan điểm là tổng hợp các yếu tố cơ bản nhất của lí thuyết (hay của những học thuyết), được phát biểu dưới dạng có thể được ứ ng dụng trong thực tiễn và được chuyển hóa thành algôrit của sự giải quyết một vấn đề cụ thể (Alaep – 1983). 2.1.2. Những phương pháp luận được sử dụng trong nghiên cứu địa lí 2.1.2.1. Quan điểm hệ thống Quan điểm hệ thống là đặc trưng cơ bản quyết định phương pháp tư duy, tiếp cận nghiên cứu địa lí. Cơ sở của quan điểm hệ thống là quan niệm về sự hoàn chỉnh và thống nhất về mặt động lực bên trong của các đối tượng nghiên cứu. Quan điểm hệ thống cho phép chúng ta hiểu một cách chính xác và phân tích khách quan các đối tượng trong nghiên cứu phục vụ quy hoạch, khai thác toàn diện lâu bền lãnh thổ. 13 2.1.2.2. Quan điểm tổng hợp (tương ứng với phép biện chứng duy vật) Là quan điểm truyền thống của Địa lí học, nó phản ánh mối tương hỗ giữa các hệ thống tự nhiên và kinh tế xã hội trong phạm vi toàn miền hoặc trong từng khu vực và trong từng giai đoạn. Khi xem xét các đối tượng phải đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần cấu trúc của một lãnh thổ cụ thể. 2.1.2.3. Quan điểm lãnh thổ (quan điểm đặc thù của Địa lí học) Bất cứ một đối tượng địa lí nào cũng gắn liền với một không gian lãnh thổ nhất định, ở đó có sự phân hóa và thống nhất nội tại, đồng thời cũng có mối quan hệ về mặt lãnh thổ với các vùng xung quanh. Trong nghiên cứu phải chú ý đến sự khác biệt lãnh thổ của các sự vật và hiện tượng, nhằm tìm ra những nét độc đáo của lãnh thổ nghiên cứu. 2.1.2.4. Quan điểm sinh thái và phát triển (phát triển bền vững) Là quan điểm chủ đạo trong nghiên cứu bảo vệ môi trường. Đối với Địa lí học, đó là sự vận dụng quan điểm sinh thái vào việc nghiên cứu đánh giá tổng hợp các nhân tố điều kiện tự nhiên – môi trường. Quan điểm này cho phép xác định các yếu tố cơ bản để đánh giá, phát hiện và đề xuất các vấn đề bảo vệ môi trường, giữ vững cân bằng sinh thái, phát triển bền vững. 2.1.2.5. Quan điểm thực tiễn Thực tiễn là tiêu chuẩn, là thước đo chân lí. Các nghiên cứu muốn có được đóng góp thì phải xuất phát từ thực tiễn, giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra. 2.1.2.6. Quan điểm viễn cảnh Mọi sự vật và hiện tượng tự nhiên cũng như xã hội đều luôn luôn vận động, hay nói cách khác là không có gì tồn tại vĩnh viễn và bất biến. Vì vậy, khi nghiên cứu các sự vật và hiện tượng phải xem xét quy luật vận động của nó, để từ đó đặt nó vào từng thời gian của quá trình vận động mới nhận thấy sự thay đổi của nó. 2.1.2.7. Một số quan điểm thường dùng trong nghiên cứu địa lí kinh tế - xã hội Trong nghiên cứu địa lí kinh tế - xã hội, vì đặc thù của đối tượng nên thường được xác định thêm bởi một số quan niệm: - Quan điểm duy vật biện chứng: Vật chất và ý thức tạo nên sự thống nhất biện chứng là những phạm trù cơ bản của duy vật biện chứng. Khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế hay xã hội, những thành phần cơ sở được phân tích không phải một cách riêng rẽ mà là trong các mối quan hệ qua lại về lãnh thổ với tư cách là những bộ phận của các hệ thống tương ứng. - Quan điểm duy vật lịch sử: Địa lí kinh tế là khoa học xã hội, nên duy vật lịch sử nghiên cứu những quy luật phát triển duy nhất của xã hội loài người. 14 Nghiên cứu về mặt lãnh thổ, các quá trình này không chỉ trên quy mô lớn mà cả trong phạm vi hạn chế với những thời gian tương đối ngắn (các dòng di cư, sức hút của các thành phố, xí nghiệp…) - Quan điểm kinh tế chính trị học Marx – Lenin: Trong địa lí kinh tế - xã hội, đặc điểm thể hiện của chúng về mặt không gian được vạch ra khi phân bố các hiện tượng kinh tế - xã hội cũng như khi hình thành các vùng kinh tế - xã hội tổng hợp. Kinh tế Chính trị học nghiên cứu quan hệ sản xuất – xã hội, nghĩa là quan hệ kinh tế, trong đó tất cả các bộ phận tác động qua lại và quyện chặt với nhau khi tạo nên quá trình tái sản xuất thống nhất. 2.2. Hệ phƣơng pháp nghiên cứu địa lí Địa lí học là một Hệ thống các ngành khoa học khác nhau, do đó quá trình nghiên cứu hệ thống các khoa học địa lí đã sử dụng rất nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Có các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: 2.2.1. Phương pháp trong phòng Đây là phương pháp chung nhất, được tiến hành đan xen trong quá trình nghiên cứu. Trước khi tiến hành nghiên cứu cần tổ chức lập kế hoạch, xây dựng các công thức, lập hệ thống sơ đồ, bản đồ…Trong quá trình nghiên cứu tiến hành xử lí số liệu để cho ra kết quả nghiên cứu và kết thúc nghiên cứu là khâu viết báo cáo tổng kết kết quả nghiên cứu. Trong nghiên cứu địa lí gọi đây là phương pháp thu thập, hệ thống, xử lí và phân tích số liệu. 2.2.2. Phương pháp mô tả, so sánh Phương pháp này chủ yếu dựa vào quan sát, quan trắc thực tế các sự vật, hiện tượng địa lí và được ghi chép mô tả lại. Dựa vào kết quả ghi chép, mô tả đồng thời dùng phép so sánh để rút ra đặc trưng các hiện tượng, sự vật, quá trình địa lí cũng như địa tổng thể và các khu vực địa lí tự nhiên khác nhau trên địa cầu. Phương pháp này thường được kết hợp với phương pháp điều tra, khảo sát thực tế. 2.2.3. Phương pháp bản đồ Là phương pháp sử dụng phổ biến trong nghiên cứu địa lí học, vì “bản đồ là ngôn ngữ đặc biệt trong địa lí học”, không thể thiếu bản đồ trong nghiên cứu địa lí. Bản đồ được sử dụng như những tư liệu tham khảo, công cụ nghiên cứu, kết quả nghiên cứu được mã hoá bằng hệ thống kí hiệu bản đồ. Vì vậy, bản đồ chính là khâu đầu tiên cũng là khâu kết thúc của quá trình nghiên cứu địa lí. Các phương pháp nghiên cứu: phương pháp phân tích bằng mắt, phân tích đồ thị, trắc lượng bản đồ, phân tích toán học và thống kê toán học, trắc đạc, nghiên cứu bản đồ để xây dựng thêm bản đồ chuyên ngành, chuyên đề, nghiên cứu mối quan hệ không gian... 15 2.2.4. Phương pháp địa vật lí Nghiên cứu các đặc tính chung nhất của vật chất trong lớp vỏ địa lí, đó là nghiên cứu vật lí của Trái Đất (vật lí thuỷ quyển, khí quyển...). Gồm các phương pháp đo địa chấn, phương pháp quang phổ ánh sáng… Nhờ phương pháp này mà suy đoán được cấu trúc bên trong của Trái Đất, cấu tạo của các hành tinh, vệ tinh có khoảng cách quá xa và không thể tới được. 2.2.5. Phương pháp địa hoá học Được sử dụng để nghiên cứu các quy luật phân bố và di chuyển của các nguyên tố hoá học trong lớp vỏ địa lí dựa vào việc xác định một cách chính xác các nguyên tố hoá học có được trong đá mẹ, khoáng vật, nước, sinh vật và sự di chuyển của các nguyên tố đó trong các môi trường khác. Nhờ kết quả nghiên cứu các nhà địa lí có thể cắt nghĩa được sự khác nhau giữa các sự vật của tự nhiên nơi này khác hẳn so với nơi khác. 2.2.6. Phương pháp cổ địa lí Dựa vào các hóa thạch, các cổ sinh vật, bào tử phấn hoa, các nguyên tố phóng xạ... giúp cho việc xác định lịch sử phát triển của lớp vỏ địa lí và của từng cảnh quan địa lí trong toàn bộ thời gian trước thời kì hiện đại. 2.2.7. Phương pháp ảnh máy bay, vệ tinh Thông qua các loại ảnh này người ta có thể xác định được vị trí, đọc được đặc điểm các đối tượng, phát hiện ra các đối tượng mới. 2.2.8. Phương pháp phân tích hệ thống Bản chất của phương pháp coi lớp vỏ địa lí là một hệ thống, xác định được các mối quan hệ và các dòng vật chất và năng lượng giữa các thành phần, các hệ thống lớn nhỏ trong lớp vỏ địa lí. 2.2.9. Phương pháp toán học Không thể thiếu được trong quá trình nghiên cứu địa lí. Với các số liệu thu thập được qua xử lí bằng phương pháp toán học các Nhà địa lí có kết quả để rút ra được các kết luận xác đáng về các sự vật hiện tượng địa lí. 2.2.10. Phương pháp điều tra khảo sát thực địa Thu thập, bổ sung tài liệu, kiểm chứng các kết quả nghiên cứu. Là phương pháp có ý nghĩa nhất trong nghiên cứu địa lí, bởi số liệu thực tế và kiểm chứng thực tế sẽ làm cho kết quả có tính thuyết phục và khoa học. 2.3. Các bƣớc thực hiện một đề tài nghiên cứu địa lí 2.3.1. Xác định vấn đề nghiên cứu Ngày nay, các nhà khoa học không ngừng quan sát, theo dõi sự vật, hiện tượng, qui luật của sự vận động, mối quan hệ, … trong thế giới xung quanh và dựa vào kiến 16 thức, kinh nghiệm hay các nghiên cứu có trước để khám phá, tìm ra kiến thức mới, giải thích các qui luật vận động, mối quan hệ giữa các sự vật một cách khoa học. Tóm lại, quan sát hiện tượng, sự vật là quá trình mà ý nghĩ hay suy nghĩ phát sinh trước cho bước đầu làm NCKH. Việc quan sát kết hợp với kiến thức có trước của nhà nghiên cứu là cơ sở cho việc hình thành câu hỏi và đặt ra giả thuyết để giải quyết một vấn đề nào đó. Bản chất của quan sát thường đặt ra những câu hỏi, từ đó đặt ra “vấn đề”, cách đặt câu hỏi thường bắt đầu như: Làm thế nào, bao nhiêu, xảy ra ở đâu, nơi nào, khi nào, tại sao, cái gì, vì sao lại xảy ra và kết thúc như vậy…? Đặt câu hỏi hay đặt “vấn đề” nghiên cứu là cơ sở giúp nhà khoa học chọn chủ đề nghiên cứu (topic) thích hợp. Các “vấn đề” nghiên cứu khoa học thường được hình thành trong các tình huống sau: * Quá trình nghiên cứu, đọc và thu thập tài liệu nghiên cứu giúp cho nhà khoa học phát hiện hoặc nhận ra các “vấn đề” và đặt ra nhiều câu hỏi cần nghiên cứu (phát triển “vấn đề” rộng hơn để nghiên cứu). * Trong các hội nghị chuyên đề, báo cáo khoa học, kỹ thuật, … đôi khi có những bất đồng, tranh c ãi và tranh luận khoa học đã giúp cho các nhà khoa học nhận thấy được những mặt yếu, mặt hạn chế của “vấn đề” tranh cãi và từ đó người nghiên cứu nhận định, phân tích lại và chọn lọc rút ra “vấn đề” cần nghiên cứu. * Trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên, qua hoạt động thực tế lao động sản xuất, mối quan hệ trong xã hội,… làm cho con người không ngừng tìm tòi, sáng tạo ra những sản phẩm tốt hơn nhằm phục vụ cho nhu cầu đời sống con người trong xã hội. Những hoạt động thực tế này đã đặt ra cho người nghiên cứu các câu hỏi hay người nghiên cứu phát hiện ra các “vấn đề” cần nghiên cứu. * “Vấn đề” nghiên cứu cũng được hình thành qua những thông tin bức xúc, lời nói phàn nàn nghe được qua các cuộc nói chuyện từ những người xung quanh mà chưa giải thích, giải quyết được “vấn đề” nào đó. * Các “vấn đề” hay các câu hỏi nghiên cứu chợt xuất hiện trong suy nghĩ của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu qua tình cờ quan sát các hiện tượng của tự nhiên, các hoạt động xảy ra trong xã hội hàng ngày. * Tính tò mò của nhà khoa học về điều gì đó cũng đặt ra các câu hỏi hay “vấn đề” nghiên cứu. Đối với Khoa học Địa lí, đối tượng nghiên cứu là thể tổng hợp tự nhiên và thể tổng hợp sản xuất theo lãnh thổ, nên những “vấn đề” nghiên cứu thường nảy sinh từ những biến động, thay đổi, sự mâu thuẫn trong chính nội tại của mỗi thể hoặc giữa hai thể với nhau, hoặc là những đặc trưng của các thành phần trong mỗi thể, … Như vậy, “vấn đề” nghiên cứu thường đặt ra cho nhà nghiên cứu những câu hỏi 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan