BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
--------------
HOÀNG THỊ KIM ANH
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC MẶT
SÔNG THƯƠNG ĐOẠN CHẢY QUA ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ BẮC GIANG – TỈNH BẮC GIANG
CHUYÊN NGÀNH : KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
MÃ SỐ
: 60.44.03.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐOÀN VĂN ĐIẾM
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là những đóng góp riêng dựa trên số liệu
khảo sát thực tế, trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Những kết quả nghiên cứu kế thừa các công trình khoa học khác đều
được trích dẫn theo đúng quy định.
Nếu luận văn có sự sao chép từ các công trình khoa học khác, tác giả xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả
Hoàng Thị Kim Anh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ
của nhiều cá nhân và cơ quan đơn vị. Nay luận văn đã hoàn thành, tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới:
PGS.TS. Đoàn Văn Điếm người đã tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều
kiện, giúp đỡ tôi nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Môi trường, Học viện nông nghiệp Việt
Nam đã nhiệt tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành khóa học.
Các cán bộ, kỹ thuật viên Trung tâm Quan trắc Môi trường– Sở Tài nguyên
Môi trường Bắc Giang đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho tôi thực hiện
luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình và
bạn bè đã giúp đỡ và động viên tôi trong suốt thời gian học tập.
Bắc Giang, tháng 9 năm 2013
Học viên
Hoàng Thị Kim Anh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii
MỤC LỤC
Lời cam đoan
i
Lời cảm ơn
ii
Mục lục
iii
Danh mục từ viết tắt
v
Danh mục bảng
vi
Danh mục hình
vii
MỞ ĐẦU
1
1
Tính cấp thiết của đề tài
1
2
Mục tiêu nghiên cứu
2
3
Yêu cầu của đề tài
2
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
1.1
Thực trạng môi trường nước mặt trên trái đất
3
1.1.1
Thực trạng môi trường nước mặt trên thế giới
3
1.1.2
Thực trạng môi trường nước mặt tại Việt Nam
4
1.2
Vấn đề môi trường các lưu vực sông ở Việt Nam
8
1.2.1
Lưu vực sông Đông Nai
8
1.2.2
Lưu vực Sông Cầu
10
1.2.3
Lưu vực sông Nhuệ - Đáy
11
1.2.4
Thực trạng nước mặt các dòng sông tại Bắc Giang
14
1.3
Tổng quan về chất lượng môi trường nước mặt
18
1.3.1
Các loại ô nhiễm môi trường nước mặt
18
1.3.2
Các thông số đặc trưng cho chất lượng môi trường nước mặt
23
1.3.3
Chỉ tiêu đánh giá chất lượng nước
26
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
31
2.1
Đối tượng nghiên cứu
31
2.2
Phạm vi nghiên cứu
31
2.3
Nội dung nghiên cứu
31
2.4
Phương pháp nghiên cứu
31
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii
2.4.1
Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp
31
2.4.2
Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
32
2.4.3
Phương pháp tổng hợp và so sánh
34
2.4.4
Phương pháp đánh giá chất lượng sử dụng chỉ số WQI
34
Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
39
3.1
Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội thành phố Bắc Giang
39
3.1.1
Điều kiện tự nhiên lưu vực sông Thương đoạn qua TP. Bắc Giang
39
3.1.2
Điều kiện kinh tế - xã hội
44
3.1.3
Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường
52
3.2
Hiện trạng chất lượng nước sông Thương đoạn chảy qua thành phố
Bắc Giang
55
3.2.1
Kết quả quan trắc chất lượng nước sông
55
3.2.2
Đánh giá chất lượng nước sông theo phương pháp tính chỉ số chất
lượng nước (WQI)
67
3.3
Các giải pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm nước sông Thương
75
3.3.1
Tuyên truyền nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường
75
3.3.2
Tăng cường nguồn nhân lực, bộ máy tổ chức, kinh phí và trang thiết bị
cho công tác bảo vệ môi trường
3.3.3
75
Nâng cao chất lượng thẩm định, phê duyệt và kiểm tra việc thực hiện
các nội dung của Báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo
vệ môi trường.
3.3.4
76
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, phát hiện kịp thời
xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm.
76
3.3.5
Đối với các cơ sở xả nước thải.
76
3.3.6
Giám sát ô nhiễm nguồn nước sông Thương
78
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
79
1
Kết luận
79
2
Kiến nghị
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
81
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CLN
Chất lượng nước
CN - TTCN
Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp
NM
Nước mặt
QCCP
Quy chuẩn cho phép
QCVN
Quy chuẩn Việt Nam
TB
Trạm bơm
TCVN
Tiêu chuẩn Việt Nam
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TP
Thành phố
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
TPBG
Thành phố Bắc Giang
TSS
Chất rắn lơ lửng
WQI
Chỉ số chất lượng nước mặt
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
1.1
Trữ lượng nước 3 con sông lớn của tỉnh Bắc Giang
15
2.1
Chỉ tiêu quan trắc và phương pháp phân tích
34
2.2
Bảng quy định các giá trị qi , BPi
35
2.3
Các giá trị qi , BPi đối với giá trị DO% bão hòa
36
2.4
Bảng quy định các giá trị BPi và qi đối với thông số pH
37
2.5
Xác định giá trị WQI tương ứng với mức chất lượng nước
38
3.1
Cơ cấu GTSX năm 2005 - 2010 (%)
44
3.2
Dân số trung bình 5 năm Thành phố Bắc Giang (2005 - 2010)
phân theo giới tỉnh và địa bàn cư trú
3.3
47
Kết quả phân tích các mẫu nước sông Thương đoạn qua TP. Bắc
Giang trong mùa khô
3.4
65
Kết quả phân tích các mẫu nước sông Thương đoạn qua TP. Bắc
Giang trong mùa mưa
3.5
66
Chỉ số chất lượng nước sông Thương đoạn qua TP. Bắc Giang
trong mùa khô
3.6
73
Chỉ số chất lượng nước sông Thương đoạn qua TP. Bắc Giang
trong mùa mưa
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
74
Page vi
DANH MỤC HÌNH
STT
Tên hình
Trang
2.1
Sơ đồ lưu vực sông thương chảy qua thành phố Bắc Giang
33
3.1
Sơ đồ thành phố Bắc Giang
39
3.2
Biểu đồ giá trị pH nước sông Thương đoạn qua TP. Bắc Giang
56
3.3
Biểu đồ hàm lượng chất rắn lơ lửng của nước sông Thương đoạn qua
TP. Bắc Giang
56
3.4
Biểu đồ độ đục của nước sông Thương đoạn qua TP. Bắc Giang
57
3.5
Biểu đồ hàm lượng DO của nước sông Thương qua TP. Bắc Giang
58
3.6
Biểu đồ hàm lượng BOD của nước sông Thương đoạn qua TP. Bắc Giang
59
3.7
Biểu đồ hàm lượng COD của nước sông Thương đoạn qua TP. Bắc Giang
59
3.8
Biểu đồ hàm lượng amoni nước sông Thương đoạn qua TP. Bắc Giang
60
3.9
Biểu đồ hàm lượng nitrit của nước sông Thương đoạn qua TP. Bắc Giang
61
3.10
Biểu đồ hàm lượng PO33- nước sông Thương đoạn qua TP. Bắc Giang
62
3.11
Biểu đồ hàm lượng coliform nước sông Thương đoạn qua TP. Bắc Giang
62
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với mục tiêu công bằng
và tiến bộ xã hội, phát triển con người và bảo vệ môi trường là nền tảng cơ
bản cho sự phát triển bền vững của một địa phương hay một khu vực. Để đạt
được mục tiêu trên cũng như đảm bảo bền vững về môi trường luôn được
lồng ghép vào nhiều chương trình hoạt động của tỉnh Bắc Giang. Trong nhiều
năm gần đây, khi kinh tế phát triển kéo theo môi trường bị tác động mạnh. Sự
phát triển nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng đem lại lợi ích thiết thực cho
xã hội nhưng đã để lại hậu quả đáng kể cho môi trường. Kết quả là ô nhiễm
môi trường nước, không khí, đất đã ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh
thái, huỷ hoại hệ thực vật, động vật và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ con
người. Sông, hồ vừa là nguồn cung cấp nước nhưng đồng thời vừa là nơi tiếp
nhận nước thải từ các hoạt động canh tác nông nghiệp, chăn nuôi, sản xuất
công nghiệp và nước thải đô thị. Đây là nguyên nhân chính làm cho nước
sông, hồ bị ô nhiễm làm ảnh hưởng đến các hoạt động sống của con người và
các loài sinh vật…. Bắc Giang có 3 con sông lớn chảy qua là sông Thương,
sông Cầu, sông Lục Nam cung cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt, công nghiệp
và nông nghiệp trong tỉnh nhưng lại đang có nguy cơ ô nhiễm cao do nước
thải trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và
dịch vụ, nước thải sinh hoạt từ các hộ dân sống xung quanh, các chất thải rắn,
rác thải vứt xuống sông, hồ không qua xử lý, ảnh hưởng đến chất lượng
nước,… và ảnh hưởng đến hệ sinh thái vùng đáy. Kết quả dẫn đến là ảnh
hưởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt, sản xuất và sức khỏe của người dân.
Để hạn chế những tác động xấu đến môi trường cần phải có những biện
pháp tích cực để bảo vệ môi trường, tránh được những tác nhân tự nhiên hay
nhân tạo ảnh hưởng đến môi trường. Việc phân tích đánh giá chất lượng nước
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1
từ đó đưa ra các giải pháp để kiểm soát ô nhiễm môi trường nước tốt hơn, đây
là một vấn đề rất cần thiết và cấp bách. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và
thực tiễn trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiện trạng môi
trường nước mặt sông Thương đoạn chảy qua địa bàn thành phố Bắc
Giang – tỉnh Bắc Giang” nhằm tìm cơ sở giải quyết các vấn đề môi trường,
đề ra các biện pháp cải thiện chất lượng nguồn nước sông Thương.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá hiện trạng nước mặt sông Thương đoạn chảy qua địa phận
thành phố Bắc Giang.
- Đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn nước mặt sông Thương.
3. Yêu cầu của đề tài
- Các mẫu phân tích nước đảm bảo có thể đánh giá chính xác, khách
quan chất lượng nước sông Thương trong khu vực trước, trong và sau khi
chảy qua địa bàn thành phố Bắc Giang.
- Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nước mặt sông Thương phải dựa theo
tiêu chuẩn Việt Nam đã được bộ Tài nguyên và Môi trường thông qua.
- Các giải pháp đề xuất nhằm giảm thiểu ô nhiễm nước mặt sông
Thương phải khả thi và phù hợp với điều kiện thực tế của thành phố Bắc
Giang.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Thực trạng môi trường nước mặt trên trái đất
1.1.1. Thực trạng môi trường nước mặt trên thế giới
Trong thập niên 60, ô nhiễm nước lục địa và đại dương gia tăng với
nhịp độ đáng lo ngại. Tiến độ ô nhiễm nước mặt phản ánh trung thực tiến bộ
phát triển khoa học công nghệ. Hiện nay rất nhiều nơi trên thế giới nguồn
nước mặt đã và đang bị ô nhiễm trầm trọng do tác động của nước thải từ các
hoạt động sản xuất đặc biệt là các hoạt động sản xuất công nghiệp. Ta có thể
kể ra đây vài thí dụ tiêu biểu.
Tại Anh : Ðầu thế kỷ 19, sông Tamise rất sạch. Nó trở thành ống cống lộ
thiên vào giữa thế kỷ này. Các sông khác cũng có tình trạng tương tự trước khi
người ta đưa ra các biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt.
Nước Pháp rộng hơn, kỹ nghệ phân tán và nhiều sông lớn, nhưng vấn
đề cũng không khác bao nhiêu. Dân Paris còn uống nước sông Seine đến cuối
thế kỷ 18. Từ đó vấn đề đổi khác: các sông lớn và nước ngầm nhiều nơi
không còn dùng làm nước sinh hoạt được nữa, 5.000 km sông của Pháp bị ô
nhiễm mãn tính. Sông Rhin chảy qua vùng kỹ nghệ hóa mạnh, khu vực có
hơn 40 triệu người, là nạn nhân của nhiều tai nạn (như nạn cháy nhà máy
thuốc Sandoz ở Bâle năm 1986 chẳng hạn) thêm vào các nguồn ô nhiễm
thường xuyên.
Ở Hoa Kỳ tình trạng thảm thương ở bờ phía đông cũng như nhiều vùng
khác. Vùng Ðại hồ bị ô nhiễm nặng, trong đó hồ Erie, Ontario đặc biệt
nghiêm trọng (Trần Phước Đường, 1999).
Theo thống kê của Viện nước quốc tế được công bố tại tuần lễ nước thế
giới ( World Water Week) khai mạc tại Stockholm, thủ đô Thụy Điển ngày
05/9/2010 trung bình mỗi ngày trên trái đất có khoảng 2 triệu tấn chất thải
sinh hoạt đổ ra sông hồ và biển cả, 70% lượng chất thải công nghiệp không
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3
qua xử lý bị trực tiếp đổ vào các nguồn nước tại các quốc gia đang phát triển.
Thực tế trên khiến nguồn nước dùng trong sinh hoạt của con người bị ô nhiễm
nghiêm trọng. Một nửa số bệnh nhân nằm viện ở các nước đang phát triển là
do không được tiếp cận những điều kiện vệ sinh phù hợp (vì thiếu nước) và
các bệnh liên quan đến nước.Thiếu vệ sinh và thiếu nước sạch là nguyên nhân
gây tử vong cho hơn 1,6 triệu trẻ em mỗi năm. Thực trạng ô nhiễm nước mặt
trên thế giới ra tăng đã tạo áp lực cho cuộc sống và tương lai phát triển cho xã
hội. Nó ảnh hưởng rất lớn tới đời sống và sức khỏe của người dân và là yêu cầu
cấp bách cần phải giải quyết.
1.1.2. Thực trạng môi trường nước mặt tại Việt Nam
Nguồn nước mặt ở Việt Nam đang phải đối diện với nhiều thách thức,
trong đó đáng quan tâm nhất là tình trạng suy kiệt và ô nhiễm trên diện rộng.
Với mạng lưới sông ngòi dày đặc, trong đó có 13 hệ thống sông lớn có diện
tích trên 10.000km2, tài nguyên nước mặt của Việt Nam chiếm khoảng 2%
tổng lượng dòng chảy của các sông trên thế giới. Theo khuyến cáo của các tổ
chức quốc tế về tài nguyên nước, ngưỡng khai thác được phép giới hạn trong
phạm vi 30% lượng dòng chảy, nhưng trên thực tế hiện nay, hầu hết các tỉnh
Miền Trung và Tây Nguyên đã và đang khai thác trên 50% lượng dòng chảy.
Riêng tỉnh Ninh Thuận đã khai thác tới 80% lượng dòng chảy trên địa bàn ( Sở
Tài nguyên và Môi trường Hà Nam, 2012) .
Việc khai thác nguồn nước quá mức đã làm suy thoái nghiêm trọng về số
lượng và chất lượng tài nguyên nước, trên các lưu vực sông lớn như sông
Hồng, Thái Bình và sông Đồng Nai. Do tác động của biến đổi khí hậu ngày
càng gia tăng, ở Việt Nam mùa mưa và lưu lượng nước có xu hướng diễn biến
thất thường, nên hạn hán hoặc ủng ngập cục bộ xảy ra thường xuyên và trên
diện rộng hơn trước. Rõ rệt nhất là vài năm gần đây, mùa mưa thường kết thúc
sớm và đến muộn hơn gây nên hạn hán tại nhiều vùng trong cả nước. Bên cạnh
đó, tình trạng nhiều khu công nghiệp, nhà máy, khu đô thị xả nước thải chưa
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4
qua xử lý xuống hệ thống sông hồ đã và đang gây ô nhiễm nguồn nước mặt
trên diện rộng, dẫn đến nhiều vùng có nước nhưng không sử dụng được.
Đặc biệt nước thải từ hoạt động của các cơ sở sản xuất công nghiệp và
khu công nghiệp, đang là nguồn gây áp lực lớn nhất đến môi trường nước mặt
lục địa.
Nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều nước nhất, nên lưu lượng nước
thải từ ngành này chiếm tỷ trọng lớn hàng đầu. Do việc sử dụng hóa chất bảo
vệ thực vật và phân bón bất hợp lý, nên trung bình 20-30% lượng thuốc và
phân bón sử dụng trong nông nghiệp không được cây trồng hấp thụ sẽ theo
nước mưa và nước tưới chảy vào nguồn nước mặt, tích lũy trong đất. Không
những gây ô nhiễm nguồn nước mặt, mà còn thấm vào nguồn nước ngầm và
gây ô nhiễm đất
Mặt khác, phần lớn các đô thị hiện nay đều chưa có hệ thống xử lý
nước thải sinh hoạt, nên tỷ lệ nước thải đã qua xử lý đạt tỷ lệ rất thấp. Cộng
thêm nước thải sinh hoạt trong các khu dân cư, các khu du lịch và nước thải
của các cơ sở tiểu thủ công nghiệp xả thẳng vào sông hồ, là những nguyên
nhân chính đã và đang làm gia tăng ô nhiễm hệ thống các thủy vực nội đô và
ven đô ở Việt Nam (Bộ TN & MT, 2013)
Theo Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính đến ngày
20/4/2008 cả nước có 185 khu công nghiệp được Thủ tướng Chính phủ quyết
định thành lập trên địa bàn 56 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đến hết
năm 2008, cả nước có khoảng trên 200 khu công nghiệp. Ngoài ra, còn có
hàng trăm cụm, điểm công nghiệp được Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương quyết định thành lập. Theo báo cáo giám sát của Uỷ
ban khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội, tỉ lệ các khu công
nghiệp có hệ thống xử lí nước thải tập trung ở một số địa phương rất thấp, có
nơi chỉ đạt 15 - 20%, như Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc. Một số khu công
nghiệp có xây dựng hệ thống xử lí nước thải tập trung nhưng hầu như không
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5
vận hành vì để giảm chi phí. Đến nay, mới có 60 khu công nghiệp đã hoạt
động có trạm xử lí nước thải tập trung (chiếm 42% số khu công nghiệp đã vận
hành) và 20 khu công nghiệp đang xây dựng trạm xử lí nước thải. Bình quân
mỗi ngày, các khu, cụm, điểm công nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải
rắn, lỏng, khí và chất thải độc hại khác. Tại Hội nghị triển khai Đề án bảo vệ
môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai ngày 26/2/2008, các cơ quan
chuyên môn đều có chung đánh giá: nguồn nước thuộc lưu vực sông Sài Gòn
- Đồng Nai hiện đang bị ô nhiễm nặng, không đạt chất lượng mặt nước dùng
làm nguồn cấp nước sinh hoạt. Theo số liệu khảo sát do Chi cục Bảo vệ môi
trường phối hợp với Công ty Cấp nước Sài Gòn thực hiện năm 2008 cho thấy,
lượng NH3 (amoniac), chất rắn lơ lửng, ô nhiễm hữu cơ (đặc biệt là ô nhiễm
dầu và vi sinh) tăng cao tại hầu hết các rạch, cống và các điểm xả. Có khu
vực, hàm lượng nồng độ NH3 trong nước vượt gấp 30 lần tiêu chuẩn cho
phép (như cửa sông Thị Tính); hàm lượng chì trong nước vượt tiêu chuẩn quy
định nhiều lần; chất rắn lơ lửng vượt tiêu chuẩn từ 3 - 9 lần... Tác nhân chủ
yếu của tình trạng ô nhiễm này chính là trên 9.000 cơ sở sản xuất công nghiệp
nằm phân tán, nằm xen kẽ trong khu dân cư trên lưu vực sông Đồng Nai.
Bình quân mỗi ngày, lưu vực sông phải tiếp nhận khoảng 48.000m3 nước thải
từ các cơ sở sản xuất này. Dọc lưu vực sông Đồng Nai, có 56 khu công nghiệp,
khu chế xuất đang hoạt động nhưng chỉ có 21 khu có hệ thống xử lý nước thải
tập trung, số còn lại đều xả trực tiếp vào nguồn nước, gây tác động xấu đến
chất lượng nước của các nguồn tiếp nhận... Có nơi, hoạt động của các nhà máy
trong khu công nghiệp đã phá vỡ hệ thống thuỷ lợi, tạo ra những cánh đồng hạn
hán, ngập úng và ô nhiễm nguồn nước tưới, gây trở ngại rất lớn cho sản xuất
nông nghiệp của bà con nông dân.
Nhìn chung, hầu hết các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước chưa
đáp ứng được những tiêu chuẩn về môi trường theo quy định. Thực trạng đó
làm cho môi trường sinh thái ở một số địa phương bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6
Cộng đồng dân cư, nhất là các cộng đồng dân cư lân cận với các khu công
nghiệp, đang phải đối mặt với thảm hoạ về môi trường.
Cùng với sự ra đời ồ ạt các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề
thủ công truyền thống cũng có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Việc phát
triển các làng nghề có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
và giải quyết việc làm ở các địa phương. Tuy nhiên, hậu quả về môi trường do
các hoạt động sản xuất làng nghề đưa lại cũng ngày càng nghiêm trọng. Tình
trạng ô nhiễm không khí, chủ yếu là do nhiên liệu sử dụng trong các làng
nghề là than, lượng bụi và khí CO, CO2, SO2 và Nox thải ra trong quá trình
sản xuất khá cao. Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện nay
cả nước có 2.790 làng nghề, trong đó có 240 làng nghề truyền thống, đang
giải quyết việc làm cho khoảng 11 triệu lao động, bao gồm cả lao động
thường xuyên và lao động không thường xuyên. Các làng nghề được phân bố
rộng khắp cả nước, trong đó các khu vực tập trung phát triển nhất là Đồng
bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ, Tây Bắc bộ, Đồng bằng sông Cửu Long.
Riêng ở Đồng bằng sông Hồng có 866 làng nghề, chiếm 42,9% cả nước. Hình
thức các đơn vị sản xuất của làng nghề rất đa dạng, có thể là gia đình, hợp tác
xã hoặc doanh nghiệp. Tuy nhiên, do sản xuất mang tính tự phát, sử dụng
công nghệ thủ công lạc hậu, chắp vá, mặt bằng sản xuất chật chội, việc đầu tư
xây dựng hệ thống xử lý nước thải ít được quan tâm, ý thức bảo vệ môi
trường sinh thái của người dân làng nghề còn kém, bên cạnh đó lại thiếu một
cơ chế quản lý, giám sát của các cơ quan chức năng của Nhà nước, chưa có
những chế tài đủ mạnh đối với những hộ làm nghề thủ công gây ô nhiễm môi
trường và cũng chưa kiên quyết loại bỏ những làng nghề gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng, nên tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề
ngày càng trầm trọng và hiện nay đã ở mức “báo động đỏ”. Hoạt động gây ô
nhiễm môi trường sinh thái tại các làng nghề không chỉ ảnh hưởng trực tiếp
đến cuộc sống, sinh hoạt và sức khoẻ của những người dân làng nghề mà còn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7
ảnh hưởng đến cả những người dân sống ở vùng lân cận, gây phản ứng quyết
liệt của bộ phận dân cư này, làm nảy sinh các xung đột xã hội gay gắt.
Bên cạnh các khu công nghiệp và các làng nghề gây ô nhiễm môi
trường, tại các đô thị lớn, tình trạng ô nhiễm cũng ở mức báo động. Đó là các
ô nhiễm về nước thải, rác thải sinh hoạt, rác thải y tế, không khí, tiếng ồn...
Những năm gần đây, dân số ở các đô thị tăng nhanh khiến hệ thống cấp thoát
nước không đáp ứng nổi và xuống cấp nhanh chóng. Nước thải, rác thải sinh
hoạt (vô cơ và hữu cơ) ở đô thị hầu hết đều trực tiếp xả ra môi trường mà
không có bất kỳ một biện pháp xử lí nào ngoài việc vận chuyển đến bãi chôn
lấp. Theo thống kê của cơ quan chức năng, mỗi ngày người dân ở các thành
phố lớn thải ra hàng nghìn tấn rác; các cơ sở sản xuất thải ra hàng trăm nghìn
mét khối nước thải độc hại; các phương tiện giao thông thải ra hàng trăm tấn
bụi, khí độc. Trong tổng số khoảng 34 tấn rác thải rắn y tế mỗi ngày, thì Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm đến 1/3; bầu khí quyển của Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh có mức benzen và sunfua đioxit đáng báo động. Theo
một kết quả nghiên cứu mới công bố năm 2008 của Ngân hàng thế giới (WB),
trên 10 tỉnh thành phố Việt Nam, xếp theo thứ hạng về ô nhiễm đất, nước,
không khí, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là những địa bàn ô nhiễm đất
nặng nhất. Theo báo cáo của Chương trình môi trường của Liên hợp quốc, Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu châu á về mức độ ô nhiễm bụi.
1.2. Vấn đề môi trường các lưu vực sông ở Việt Nam
1.2.1. Lưu vực sông Đông Nai
Sông Đồng Nai là hệ thống sông lớn thứ hai ở phía Nam, và đứng thứ
ba toàn quốc, lưu vực rộng lớn của nó gần như nằm trọn trong địa phận nước
ta, chỉ có một bộ phận nhỏ nằm ở nước ngoài (Campuchia). Đồng Nai là con
sông chính của hệ thống sông Đồng Nai, một số phụ lưu lớn của nó như: Đa
Hoai, La Ngà (ở tả ngạn), sông Bé, sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ (ở hữu ngạn).
Tổng diện tích lưu vực phần trong nước khoảng 37.330 km2, nằm trên địa
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8
phận các tỉnh Lâm Đồng, Đắc Lắc, Bình Dương, Bình Phước, Long An, Tây
Ninh, Bình Thuận, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh. Hệ thống sông
Đồng Nai phát triển trên cao nguyên Di Linh, Lâm Viên, Bảo Lộc và một
phần của đồng bằng Nam Bộ. Đây là một vùng kinh tế phát triển có nhiều thế
mạnh với loại cây công nghiệp nhiệt đới như: cao su, trà, cà phê, thuốc lá, v.v...
Trong lưu vực nhiều nơi có thể xây dựng thành các trung tâm thủy điện như: Trị
An, Thác Mơ, Đa Mi, Hàm Thuận ...
Lưu vực sông Đồng Nai có mức độ ô nhiễm ngày nghiêm trọng hơn,
nhiều đoạn sông chảy qua địa phận Bình Dương đã trở thành sông chết. Trải
rộng trên địa bàn, lưu vực hệ thống sông này chịu ảnh hưởng mạnh nhất của
nhiều nguồn tác động trên toàn bộ lưu vực. Đặc biệt phần hạ lưu của nhiều
sông trong lưu vực đã ô nhiễm nghiêm trọng trong đó có đoạn đã trở thành
sông chết hoàn toàn. Thứ trưởng Phạm Khôi Nguyên cho biết: Theo dự báo
trước đây, sông Thị Vải thuộc hệ thống lưu vực sông Đồng Nai sẽ "chết" vào
năm 2050. Tuy nhiên, qua kết quả vừa khảo sát, quan trắc 10 km sông đã
không có sinh vật nào sống sót. Với tốc độ ô nhiễm như hiện nay, chỉ đến
năm 2020, toàn bộ hệ thống sông Đồng Nai dài 76 km sẽ “chết" sớm hơn so
với dự báo 20 năm.
Nước sông Đồng Nai từ nhà máy nước Thiện Tân đến Long Đại Đồng Nai đã bắt đầu ô nhiễm hữu cơ, chất rắn lơ lửng và phát hiện hàm lượng
chì vượt tiêu chuẩn. Lượng chất rắn lơ lửng trong nước đã vượt tiêu chuẩn từ
3-9 lần, giá trị COD vượt gần 2-3 lần tiêu chuẩn…
Ô nhiễm nhất trong lưu vực là sông Thị Vải với một đoạn 10 km đã
"chết" bắt đầu tư sau hợp lưu Suối Cả- sông Thị Vải đến Khu công nghiệp Mỹ
Xuân. Nước khu vực này có màu nâu đen, bốc mùi hôi thối cả khi triều lên và
triều xuống. Theo số liệu của Viện Khoa học và Kỹ thuật môi trường, Đại học
Xây Dựng giá trị DO thường xuyên thấp dưới 0,5 mg/l nên các loài sinh vật
đã không còn khả năng sinh sống. Chỉ số NH4+ đã vượt quá TCVN từ 3-15
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9
lần, giá trị Coliform vượt từ vài chục đến hàng trăm lần. Đặc biệt hàm lượng
thủy ngân tại khu vực cảng Vedan, Mỹ Xuân vượt 1,5 - 4 lần; lượng kẽm vượt
3-5 lần tiêu chuẩn (GS.TS Ngô Đình Tuấn, 2006)
1.2.2. Lưu vực Sông Cầu
Lưu vực Sông Cầu nằm trong phạm vi tọa độ địa lý: 21º07 - 22º18 vĩ
bắc, 105º28 - 106º08 kinh đông, có diện tích lưu vực 6.030 km2, bao gồm toàn
bộ hay một phần lãnh thổ của các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc
Giang, Vĩnh Phúc và Hà Nội. Sông Cầu là sông lớn nhất trong hệ thống sông
Thái Bình. Sông Cầu có 2 phụ lưu lớn là sông Công (dài 96 km) và sông Cà
Lồ (dài 89km). Từ bao đời nay nhân dân ta đặc biệt là nhân dân 6 tỉnh trong
lưu vực đã được hưởng nhiều nguồn lợi trực tiếp từ sông Cầu. Tuy nhiên,
trong quá trình phát triển kinh tế, chúng ta đã khai thác một cách quá mức
trên toàn bộ lưu vực tạo nên những tác động hết sức sâu sắc đến nguồn nước,
cảnh quan lưu vực sông Cầu. Theo kết quả điều tra khảo sát của các Sở Khoa
học và Công nghệ , Sở Tài nguyên và Môi trường 6 tỉnh lưu vực sông Cầu và
các cơ quan nghiên cứu môi trường như Trung tâm Nghiên cứu, Đào tạo và
Tư vấn Môi trường (Viện Cơ học), Trung tâm Nghiên cứu Môi trường Không
khí và Nước (Viện Khí tượng Thủy văn)... cho thấy chất lượng nước sông
Cầu đã bị suy giảm, nhiều nơi nhiều lúc đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, nhất là
các đoạn sông chảy qua các đô thị, khu công nghiệp và các làng nghề.
Đoạn thượng lưu từ thượng nguồn sông đến Thác Bưởi, nước sông vẫn
còn giữ được tính tự nhiên vốn có do chảy qua vùng dân cư thưa thớt và công
nghiệp chưa phát triển. Chất lượng nước của đoạn sông này còn khá tốt. Các
chỉ tiêu chất lượng nước đều bảo đảm giới hạn cho phép đối với nguồn nước
mặt loại A.
Đoạn trung lưu, từ ngã ba sông Đu gặp sông Cầu đến Phù Lôi (Sóc
Sơn), đây là khu vực có mức độ phát triển kinh tế tương đối cao. Đoạn sông
này phải tiếp nhận một lượng lớn nước thải (khoảng 300 triệu m3/ năm) từ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10
các hoạt động sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Chất lượng nước
của đoạn này đã suy giảm một cách nghiêm trọng. Hầu hết các chỉ tiêu chất
lượng nước đều không đạt tiêu chuẩn chất lượng nguồn loại A. Nhiều nơi,
nhiều chỉ tiêu không đạt nguồn loại B, nhất là vào những tháng mùa kiệt, khi
nước ở thượng nguồn ít.
Đoạn hạ lưu tính từ ngã ba sông Công gặp sông Cầu đến cửa sông Cầu
gặp sông Thái Bình (đoạn chảy qua hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang). Nước
sông ở đây đã bị ô nhiễm và nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động sản xuất
của các làng nghề hai bên bờ sông. Hàm lượng BOD, COD so với tiêu chuẩn
cho phép đều cao hơn hàng chục lần.
Điều đặc biệt đáng chú ý là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và hàm
lượng coliform ở một số điểm trong đoạn hạ lưu khá cao. Hàm lượng thuốc
bảo vệ thực vật vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Lượng thuốc này còn lưu lại
trong đất, khi mưa nước cuốn trôi đưa vào sông gây ô nhiễm nước.
Hàm lượng coliform của tất cả điểm đều vượt, thậm chí gấp hai ba lần
tiêu chuẩn cho phép đối với nguồn loại B, đây là điều đáng báo động vì nhân
dân sử dụng nước sông Cầu cho mục đích sinh hoạt ( Nguyễn Hồng Khánh và
cộng sự, 2012)
1.2.3. Lưu vực sông Nhuệ - Đáy
Lưu vực sông Nhuệ - Đáy nằm ở hữu ngạn sông Hồng, với tổng diện
tích 7765 km2, chiều dài lưu vực là 314 km, hệ số uốn khúc 1.53, đóng vai trò
quan trọng trong nền kinh tế của cả nước nói chung, của vùng đồng bằng sông
Hồng nói riêng, cũng như đóng vai trò quan trọng trong công tác tưới tiêu điều hoà nước cho một số tỉnh phía Bắc. Lưu vực này đi qua 5 tỉnh, thành
phố: Hoà Bình, Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, và có nhiều phụ lưu
sông lớn chảy qua nên chất lượng nước hai con sông này đang chịu tác động
mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế - xã hội.
Hiện nay, tình trạng ô nhiễm nước lưu vực sông Nhuệ - Đáy ngày càng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11
trở nên nghiêm trọng: Nước sông chịu tác động rất lớn của nước thải công
nghiệp, sinh hoạt, ... Hàm lượng chất hữu cơ trong nước cao, nồng độ COD
vượt quá giới hạn cho phép chất lượng nước mặt loại A từ 2-3 lần trong khi
nồng độ BOD5 vượt quá giới hạn này từ 4-6 lần, hàm lượng DO rất thấp, chỉ
đạt 2.89 mg/l. Ước tính lượng nước thải từ sinh hoạt và công nghiệp đổ vào
sông trung bình khoảng 5.4m3/s, điều này đồng nghĩa với việc để hàm lượng
ô nhiễm BOD không vượt quá tiêu chuẩn nước mặt loại B thì cống Liên Mạc
sẽ phải mở với công suất tối đa 60m3/s.
Sông Nhuệ: Nước sông chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nước thải sinh hoạt,
công nghiệp, nông nghiệp của thành phố Hà Nội. Mùa kiệt chất lượng nước
phụ thuộc vào chế độ vận hành cống Liên Mạc, chế độ xả nước đập Thanh
Liệt và chế độ lấy nước tưới của hệ thống thuỷ nông. Nếu cống Liên Mạc mở
to, lưu lượng nước sông Hồng chảy vào lớn thì chất lượng nước ở phía hạ du
đươc cải thiện đáng kể do được pha loãng. Ngược lại, nếu cống Liên Mạc
đóng hoặc mở với khẩu độ nhỏ, phía Thanh Trì vẫn nhận nước thải sông Tô
Lịch xả vào, dưới hạ lưu sẽ bị sự cố về môi trường nước. Về mùa lũ cống
Liên Mạc thường đóng, nước sông Nhuệ chủ yếu là nước thải thành phố,
nước mưa, nước tiêu nông nghiệp, nhưng được bơm thoát nhanh ra sông Đáy.
Theo nghiên cứu “ Khảo sát hiện trạng tài nguyên nước lưu vực sông Nhuệ Đáy” của nhóm tác giả Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Ý Như, Trần Ngọc Anh
đăng trên tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội thì: Diễn biến chất lượng
nước dọc sông Nhuệ có thể nhận định sơ bộ như sau:
- Tại cống Liên Mạc: khi cống mở, nước không bị ô nhiễm hoặc ô nhiễm
nhẹ, chất lượng nước giống như nước sông Hồng, khi cống đóng mức độ ô
nhiễm cao hơn nhưng không đáng kể do nước chảy chậm, giảm sự khuyếch tán
của ôxy trong nước.
- Tại Cầu Diễn, cầu Hà Đông nhận nước tiêu nông nghiệp của huyện
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12
- Xem thêm -