Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kinh doanh - Tiếp thị Kế hoạch kinh doanh Vận dụng phương pháp phát triển cộng đồng góp phần nâng cao ý thức pháp luật của...

Tài liệu Vận dụng phương pháp phát triển cộng đồng góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã vũ chính, thành phố thái bình

.PDF
35
313
71

Mô tả:

Cowvũ chính TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI ------------------------------ ĐỀ CƯƠNG BÀI TẬP ĐIỀU KIỆN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG GÓP PHẦN NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦANGƯỜI DÂN TRÊN ĐỊA BÀN XÃ VŨ CHÍNH TP THÁI BÌNH Học viên thực hiện: NGUYỄN THIỆN THOẠI Lớp: Đại học Công tác xã hội K4 - TPTB Hệ đào tạo: VHVL THÁI BÌNH, THÁNG 7/2015 0 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn và thực hiện đề tài Quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống,nâng cao ý thức pháp luật của người dân được bắt đầu bằng hoạt động phổ biến và giáo dục pháp luật, đây là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để truyền tải pháp luật vào cuộc sống. Vì thực hiện pháp luật dù bằng hình thức nào như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật hay áp dụng pháp luật thì trước hết đều phải có hiểu biết pháp luật. Bên cạnh đó việc giáo dục pháp luật còn giúp hình thành ý thức pháp luật trong nhân dân, tạo lòng tin vào pháp luật, thói quen và ý thức tôn trọng pháp luật cho mọi công dân, nhằm phát huy vai trò, hiệu lực của pháp luật trong cuộc sống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với vị trí, vai trò quan trọng như vậy công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao ý thức cho người dân không ngừng được đẩy mạnh thực hiện và đặt ra những kế hoạch hoạt động phù hợp với đặc thù riêng của địa phương mình. Tuy nhiên trên thực tế vũ chính là một xã vùng ven còn nhiều khó khăn ý thức pháp luật trong nhân dân còn nhiều hạn chế do đó đòi hỏi công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức pháp luật của người dân phải được tiến hành thường xuyên liên tục với nhiều biện pháp thích hợp hơn. Là một sinh viên cuối khoá được phân công về thực tập,nghiên cứu, tìm hiểu làm bài điều kiện tốt nghiệp dùng phương pháp phát triển cộng đồng nâng cao ý thức pháp luật của người dân tại địa phương , trong quá trình làm bài em đã được tiếp cận, tìm hiểu với công tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật qua đó thấy được phần nào những khó khăn vướng mắc cũng như những kết quả đã đạt được của công tác này tại địa phương. Do đó em chọn đề tài “vận dụng phương pháp phát triển cộng đồng nâng cao ý thức pháp luật người dân trên địa bàn ” là nội dung chính trong bài điều kiện của mình. Tuy nhiên do kiến thức còn hạn chế, thời gian thực tập không dài nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để nhận thức của em về vấn đề này được hoàn thiện hơn. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài. - Phổ biến kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và đời sống sinh hoạt, học tập của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, các tầng lớp nhân dân trên địa bàn, nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu 1 pháp luật của cán bộ và nhân dân; đồng thời tạo điều kiện để cán bộ và nhân dân sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, ngăn ngừa có hiệu quả các hành vi vi phạm pháp luật. - Tạo bước phát triển mới trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn. - Thực hiện xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; đẩy mạnh thực hiện cơ chế phối hợp, nâng cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, đơn vị đối với công tác PBGDPL; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia, đưa công tác PBGDPL thành hoạt động thường xuyên, liên tục của mọi cơ quan, tổ chức, công dân. Yêu cầu - Kế thừa những kết quả đạt được, bảo đảm tính liên tục và phát triển trong thực hiện các nội dung, hình thức, biện pháp PBGDPL. Sử dụng và khai thác có hiệu quả các hình thức PBGDPL; kết hợp việc PBGDPL trên diện rộng với các hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải cơ sở, khai thác tủ sách pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật và các hoạt động văn hóa khác. - Phổ biến giáo dục pháp luật phải gắn với việc quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh trên địa bàn. - Coi trọng công tác hướng dẫn, kiểm tra và thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin báo cáo, sơ kết, tổng kết nhằm đánh giá đúng tình hình và kết quả thực hiện; kịp thời đưa ra những giải pháp phù hợp để tăng cường và nâng cao hiệu quả thực hiện công tác PBGDPL trong địa bàn. 3. Đối tượng, địa bàn thực hiện. Đối tượng cần nâng cao ý thức , tuyên truyền, phổ biến pháp luật là toàn dân trên địa bàn xã, trình độ hiểu biết pháp luật chưa cao và mục tiêu của tuyên truyền, phổ biến pháp luật là làm cho các công dân hiểu mình là ai, mình làm gì và làm như thế nào, công dân hiểu và nắm được các quy định của pháp luật để giải quyết công việc, để bảo vệ quyền lợi của mình trước các cơ quan nhà nước. Do vậy nội dung tuyên truyền cần được giải thích bằng ngôn ngữ đơn giản, càng dễ hiểu bao nhiêu càng tốt để tiếp cận được mọi đối tượng một cách hiệu quả, đặc biệt là các nội dung liên quan đến kiến thức pháp luật cơ bản, các khái niệm, các quy phạm pháp luật... 2 NỘI DUNG 1. KHÁI QUÁT VỀ PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG 1.1. Khái niệm cộng đồng, phát triển và phát triển cộng đồng 1.1.1. Khái niệm cộng đồng : Cộng đồng là một thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức ,là một nhóm người cùng chia sẻ và chịu sự ràng buộc bởi các đặc điểm và lợi ích chung được thiết lập thông qua tương tác và trao đổi giữa các thành viên. 1.1.2. Khái niệm phát triển cộng đồng Phát triển cộng đồng là một tiến trình làm chuyển biến cộng đồng nghèo, thiếu tự tin, có vấn đề, có nhu cầu thành cộng đồng tự lực và giải quyết các vấn đề đặt ra thông qua việc giáo dục giúp đỡ các thành viên trong cộng đồng, nhận thức rõ tình hình, vấn đề hiện tại của họ, phát huy hết khả năng và tài nguyên sẵn có của họ. Phát triển cộng đồng là một tiến trình qua đó có sự nỗ lực của chính dân cư trong cộng đồng kết hợp với nỗ lực của chính quyền để cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của cộng đồng và để cộng đồng có điều kiện hội nhập và tham gia tích cực vào đời sống của toàn xã hội. Thực chất của phương pháp tổ chức và phát triển cộng đồng là người làm CTXH sử dụng kiến thức, kỹ năng, xây dựng, thực hiện chương trình, dự án dựa trên sự huy động nguồn lực bên trong cộng đồng (nội lực) kết hợp với nguồn lực của xã hội, có sự tham gia của nhà nước hoặc các nguồn hỗ trợ từ bên ngoài (tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hội), để cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư, tăng cường khả năng tự lực của cộng đồng trong việc giải quyết vấn đề của mình. Đối tượng tác động của phương pháp này là cộng đồng người, sinh sống trên một địa bàn dân cư có những đặc điểm chung cơ bản về kinh tế, xã hội và văn hóa, có vấn đề hoặc nhu cầu xã hội. Mục đích của CTXH với cộng đồng là thông qua việc nhận diện vấn đề của cộng đồng, đánh giá các nguồn lực, khai thác và phát huy tiềm năng của cộng đồng, từ đó tổ chức hoạt động, thực thi những chương trình hành động mang lại những chuyển biến tích cực cho cộng đồng: từ chỗ khó khăn, kém phát triển trở thành cộng đồng tiến bộ, ổn định, phát triển. Quá trình ứng dụng phương pháp CTXH tác nghiệp với cộng đồng, người làm CTXH tổ chức và phát triển cộng đồng cùng với cộng đồng xác định vấn đề gặp phải, phân tích tìm ra nguyên nhân của những trở ngại khó khăn ảnh hưởng tới 3 sự phát triển của cộng đồng và tạo ra mối quan hệ, liên kết giữa các thành viên trong cộng đồng, giữa cộng đồng với các cơ quan chức năng, tổ chức, thông qua các chương trình, dự án hoạt động làm thay đổi, chuyển biến tích cực cộng đồng: từ yếu, kém, có vấn đề, có nhu cầu trở thành cộng đồng thức tỉnh, lên khá và phát triển - cộng đồng tự lực. 1.2. Bối cảnh ứng dụng phương pháp phát triển cộng đồng. - phương pháp này là cách tiếp cận nhắm vào năng lực, có khả năng hay chắc chắn tăng năng lực cho cộng đồng, thúc đẩy người dân tạo ra sự thay đổi đầy ý nghĩa và tích cực từ bên trong cộng đồng. Thay vì nhắm vào nhu cầu của cộng đồng, mặt thiếu sót, khiếm khuyết và vấn đề, cách tiếp cận giúp họ (cộng đồng) trở nên mạnh mẽ hơn và tự lực tự cường hơn qua khám phá, liệt kê, nhận dạng (sắp đặt) và huy động tất cả các nguồn lực tại chỗ của họ. Ít người nhận thức (hiểu biết) có bao nhiêu nguồn lực của một cộng đồng bất kỳ như: Kỹ năng của người dân, từ người trẻ đến người khuyết tật, từ người có chuyên môn, thành đạt đến người nghệ sĩ nghèo,… Sự cống hiến, đóng góp của các hội đoàn dân sự như: nhà thờ, các nhóm văn hóa, câu lạc bộ, hội đồng hương/ hàng xóm,… Các nguồn lực từ các tổ chức (thiết chế) chính thức như: kinh tế/ doanh nghiệp, trường học, thư viện, trường học cộng đồng, bệnh viện, công viên, các tổ chức xã hội. - một chiến lược phát triển cộng đồng bền vững. Vượt trên sự huy động của một cộng đồng riêng biệt. Cách tiếp cận quan tâm đến việc làm thế nào để nối kết nguồn lực vi mô với môi trường vĩ mô. Nói một cách khác, quan tâm đến những ranh giới của cộng đồng và làm thế nào đặt cộng đồng trong mối quan hệ với các thiết chế, tổ chức hội đoàn ở địa phương và môi trường kinh tế bên ngoài mà truyền “lửa” cho các hội đoàn thể địa phương và những mạng lưới không chính thức. nhận thức về vai trò và những khả năng của cộng đồng trong việc lèo lái tiến trình phát triển bằng cách nhận dạng và huy động những nguồn lực hiện có nhưn- sự phồn vinh liên tục của cộng đồng tùy thuộc vào đó.Cách tiếp cận chú ý đến g thường không được nhận ra hay không được tận dụng, vì thế đáp ứng và tạo ra cơ nguồn lực xã hội: tài năng, năng lực của cá nhân, và mối quan hệ xã hội mà nó hội tại địa phương. - phát triển cộng đồng với tư cách là một chiến lược, nhằm kích thích và duy trì sự phát triển trong các vùng gần thành thị và các cộng đồng ở nông thôn. Nó cũng thu hút sự đồng tình của một số người tuy không nhiều nhưng tận tâm. Đó là những người đã bị vỡ mộng với cách tiếp cận phát triển cộng đồng dựa trên 4 nhu cầu, do đó, nó mở ra triển vọng là kích thích sáng kiến địa phương và tăng cường hành động tập thể. 1.3. Nguyên tắc tác nghiệp của phương pháp phát triển cộng đồng. Đối tượng tác nghiệp của phương pháp tổ chức và phát triển cộng đồng là cộng đồng có nhu cầu, có vấn đề; với đặc thù cộng đồng là một thành tố của cấu trúc xã hội, được xác định dựa trên những tiêu chí nhất định, thường được hiểu khái quát là một tập hợp dân cư sinh sống trên cùng một địa bàn, do đó phải có những nguyên tắc tác nghiệp phù hợp. Cùng với những nguyên tắc chung, trở thành những nguyên tắc cụ thể như: khẳng định và coi trọng đặc điểm riêng của cộng đồng; tôn trọng quyền tự quyết, tự chịu trách nhiệm của cộng đồng; cộng đồng vừa là đối tượng tác động, vừa là nguồn lực và lực lượng chủ yếu giải quyết vấn đề, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng… còn có những nguyên tắc đặc thù. Những nguyên tắc tác nghiệp đặc thù bao gồm: + Các hoạt động phát triển cộng đồng phải dựa trên nhu cầu thiết yếu của cộng đồng. Tác viên phát triển cộng đồng không làm thay, áp đặt chương trình phát triển từ trên hoặc từ bên ngoài vào mà phải được xuất phát từ bên trong cộng đồng. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu, quyết định đến động lực, sự tham gia - điều kiện thành công của chương trình/dự án phát triển cộng đồng. + Phát triển cộng đồng phải dựa trên cơ sở và hướng tới thực hiện công bằng, bình đẳng, dân chủ. Nguyên tắc này đòi hỏi công bằng, bình đẳng, dân chủ về thông tin, về quyền tham gia, về mối quan hệ giữa lợi ích cộng đồng với lợi ích cá nhân và về hưởng thành quả từ trước, trong và sau quá trình triển khai thực hiện chương trình/dự án phát triển cộng đồng. + Khai thác và sử dụng tối ưu các nguồn lực cho chương trình/dự án phát triển cộng đồng. Các nguồn lực phát triển cộng đồng bao gồm nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần, nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài. Nguồn lực bên trong cộng đồng cần khai thác, phát huy như sức mạnh từ tinh thần cộng đồng, đoàn kết cộng đồng, văn hóa cộng đồng, cố kết cộng đồng, kinh nghiệm cộng đồng, cá nhân có uy tín trong cộng đồng... Nguồn lực bên ngoài có thể là nguồn lực tài chính, khoa học – kỹ thuật, chính sách... và đặc biệt là vai trò của tác viên phát triển cộng đồng. + Giải quyết vấn đề, đáp ứng nhu cầu chung và chú trọng những ưu tiên. Chương trình/dự án phát triển cộng đồng, bên cạnh việc quan tâm đến nhu cầu 5 chung của cộng đồng cũng cần chú trọng đến những đối tượng ưu tiên như người nghèo, người yếu thế, thiệt thòi, trình độ thấp... + Các hoạt động phát triển cộng đồng là một tiến trình có sự hợp tác và sự liên kết chặt chẽ: bắt đầu từ những hoạt động nhỏ để đạt được những thành công nhỏ. Các hoạt động phát triển cộng đồng là một tiến trình có sự hợp tác và sự liên kết, nó đòi hỏi phát triển phải được coi như là một tiến trình, trong đó có các bước đi thích hợp từ thấp đến cao, từ chỗ nhận diện, đánh giá nhu cầu đến những hành động dựa trên việc khai thác, sử dụng, phát huy nguồn lực, chuyển biến cộng đồng ở tình trạng yếu kém, chưa thức tỉnh tiến lên cộng đồng thức tỉnh, tự lực và phát triển. Trong toàn bộ tiến trình, sự chia sẻ về kinh nghiệm, chia sẻ về phương pháp, kĩ thuật và các sáng kiến... từ đó có thể tránh được những mâu thuẫn, những xung đột xảy ra làm tổn hại đến sự phát triển cộng đồng là hết sức quan trọng. + Có niềm tin vào sức mạnh của cộng đồng. Khuyến khích người dân phát huy khả năng, tiềm năng của họ để cùng thảo luận, ra quyết định và thực hiện hành động trong các chương trình hành động giải quyết vấn đề, phát triển cộng đồng. Niềm tin và sự khích lệ sẽ tạo ra những sự thay đổi trong cộng đồng, từ cộng đồng. 1.4. Tiến trình phát triển cộng đồng . Tiến trình phát triển cộng đồng là quá trình bao gồm các bước hoạt động thể hiện sự tương tác giữa người làm CTXH (tác viên phát triển cộng đồng) với một cộng đồng cụ thể nhằm đạt được mục đích và các mục tiêu đặt ra. Thực chất tiến trình phát triển cộng đồng là quy trình thực hiện các bước trước, trong và sau của một chương trình, dự án hoạt động đối với một cộng đồng. Tiến trình này bắt đầu từ lựa chọn, tiếp cận, nhận diện vấn đề, đánh giá nhu cầu, tiềm năng, những điều kiện thuận lợi, khó khăn của một cộng đồng đến việc thiết kế/xây dựng, thực hiện chương trình, dự án phát triển cộng đồng và những hoạt động phát triển sau chương trình, dự án. + Tìm hiểu và đánh giá cộng đồng: bước chuẩn bị, tạo tiền đề đi đến quyết định xây dựng và thực hiện chương trình, dự án phát triển cộng đồng. Mục đích của bước tìm hiểu, đánh giá cộng đồng là nghiên cứu, khảo sát thực tế nhằm xác định tình trạng hiện thời của cộng đồng, nhận diện, phát hiện những vấn đề gặp phải của cộng đồng, đánh giá nhu cầu, tiềm năng, những thuận lợi, khó khăn đối với hoạt 6 động, tổ chức đời sống của cộng đồng và dân cư trong cộng đồng. Để đạt được mục đích đặt ra, tác viên phát triển cộng đồng phải thực hiện các nhiệm vụ: tiếp cận cộng đồng, thu thập, xử lý, phân tích thông tin thông qua sử dụng các phương pháp và kỹ năng chuyên nghiệp; thảo luận với cấp trên, với lãnh đạo và đại diện cộng đồng về những kết luận, đánh giá hiện trạng, nhu cầu, tiềm năng của cộng đồng, từ đó đề xuất giải pháp đáp ứng nhu cầu, giải quyết vấn đề, nâng cao năng lực, hướng tới thiết kế, xây dựng chương trình, dự án phát triển cộng đồng. + Xây dựng chương trình, dự án phát triển cộng đồng: đáp ứng nhu cầu, giải quyết một hay một số vấn đề của cộng đồng với sự tham gia tích cực của nhiều lực lượng xã hội bên trong và bên ngoài cộng đồng, trong đó đối tượng tham gia, đích tác động hướng tới là bản thân cộng đồng, thể hiện bằng một kế hoạch can thiệp hay một chương trình hành động được xác định bởi một khung thời gian, nguồn lực và hoạt động quản lý. Xây dựng và thực hiện chương trình hành động hay dự án phát triển cộng đồng là trọng tâm, là nội dung quan trọng nhất của một tiến trình phát triển cộng đồng, thể hiện vai trò của tác viên phát triển cộng đồng trong mối quan hệ tương tác với một cộng đồng cụ thể. Một chương trình/dự án phát triển cộng đồng phải được xây dựng, triển khai hoạt động dựa trên những nguyên tắc phát triển cộng đồng và bao gồm những nội dung cơ bản: (1)Tên chương trình/dự án; (2)Mục đích, các mục tiêu cụ thể; (3) Thời gian, địa điểm, phạm vi hoạt động, ban/người điều hành, quản lý hoạt động và đối tượng tham gia, hưởng lợi/đích tác động hướng tới của chương trình/dự án; (4)Nội dung, nhiệm vụ, kế hoạch chi tiết của từng hoạt động trong chương trình/dự án; (5)Nguồn lực và các điều kiện cơ sở vật chất, cơ sở pháp lý, chính sách cần thiết cho hoạt động của chương trình/dự án; (6)Thuận lợi, khó khăn và những vấn đề có thể phát sinh, cần giải quyết trong quá trình triển khai thực hiện chương trình/dự án; (7)Dự báo những kết quả đạt được của dự án dựa trên khả năng sử dụng nguồn lực đáp ứng nhu cầu, mục tiêu. + Hoạt động chuyển giao, phát triển sau chương trình/dự án: nâng cao năng lực của cộng đồng – cộng đồng tự lực. Phát triển cộng đồng không chỉ dừng lại ở việc thực hiện những dự án đơn lẻ, có tính giai đoạn, nhất thời, đáp ứng một hay một số nhu cầu, giải quyết một hay một số vấn đề nào đó mà điều quan trọng hơn, hướng tới mục đích cao hơn phải là sự chuyển giao quy trình tác động, tiếp diễn chuyển biến từ cộng đồng yếu kém, thụ động, có vấn đề sang cộng đồng thức tỉnh và lên cộng đồng chủ động, tự lực, sáng tạo. Một mục tiêu 7 quan trọng, một tiêu chí đánh giá thành công của chương trình dự án là trong quá trình triển khai thực hiện có những hoạt động hướng tới nâng cao năng lực nhận thức, tổ chức, giải quyết vấn đề của cộng đồng sau khi chương trình/dự án kết thúc. Những kết quả, kinh nghiệm, kiến thức, kỹ năng đạt được của cộng đồng từ chương trình/dự án là điều kiện, yếu tố động lực thúc đẩy cộng đồng giải quyết những vấn đề đáp ứng những nhu cầu và theo những mục tiêu mới – phát triển bền vững. Vì vậy, sau khi kết thúc chương trình/dự án, mặc dù không còn sự tham gia trực tiếp của tác viên phát triển cộng đồng nhưng cộng đồng vẫn luôn tiếp diễn việc nhận thức, phát hiện, huy động nguồn lực bên trong và bên ngoài để giải quyết những vấn đề nảy sinh nhằm duy trì và đảm bảo sự ổn định, nâng cao đời sống mọi mặt của cộng đồng. 1.5. Dự án/chương trình phát triển cộng đồng. - Khái niệm dự án phát triển cộng đồng: Dự án phát triển cộng đồng là một loại dự án phát triển nhằm giải quyết một hay một số vấn đề của cộng đồng với sự tham gia tích cực của nhiều lực lượng xã hội, thể hiện bằng một kế hoạch can thiệp, hỗ trợ hay một chương trình hành động được xác định bởi một khung thời gian, nguồn nhân lực, tài chính và quản lý. Dự án phát triển cộng đồng là dự án hướng trực tiếp vào cộng đồng nhằm mục đích giải quyết vấn đề, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, hướng tới sự phát triển toàn diện của cộng đồng thông qua việc nâng cao năng lực của người dân và các tổ chức trong dân chúng. Như vậy, dự án phát triển cộng đồng phải hướng vào những mục tiêu phát triển cụ thể, nó không phải là một dự án cứu trợ hay giải quyết tình huống khẩn cấp, tạm thời, trước mắt, nó được thực hiện có sự phối hợp của nhiều nguồn lực, lực lượng và đối tượng của dự án là tạo ra sự thay đổi tích cực tại cộng đồng, từ bên trong cộng đồng. - Quy trình thiết kế, thực hiện dự án phát triển cộng đồng: + Thiết kế dự án: Bao gồm các khâu từ nhận diện cộng đồng, xác định nhu cầu, xác định mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể, đánh giá nguồn lực, thuận lợi, khó khăn cho đến việc hoạch định các hoạt động. + Triển khai dự án: Là quá trình triển khai các hoạt động đã được hoạch định – lên kế hoạch, bao gồm các hoạt động phối hợp, hoạt động giám sát và hoạt động quản lý. 8 + Đánh giá dự án: Là quá trình gồm các hoạt động đánh giá mức độ đạt được trên cơ sở đối chiếu với mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể đã đề ra, tương ứng với chúng là hệ thống các hoạt động, các nguồn lực đã được sử dụng và triển khai. - Thiết kế dự án – khung lý thuyết chung của một dự án phát triển cộng đồng * Tên dự án * Địa điểm thực hiện * Đối tượng tham gia, đối tượng đích hướng tới, quản lý thực hiện * Thời gian triển khai + Cơ sở – lý do xây dựng, thực hiện dự án + Xác định nhu cầu của cộng đồng + Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của dự án + Các nguồn lực huy động thực hiện dự án + Thuận lợi và khó khăn của việc thực hiện dự án + Tiến độ thực hiện dự án: nôi dung hoạt động theo kế hoạch cụ thể + Dự kiến kết quả đạt được của dự án 2. TỔNG QUAN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ VIỆC NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA NGƯỜI DÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 2.1. Khái niệm pháp luật, ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật - pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội và là nhân tố điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. - ý thức pháp luật là tổng thể các học thuyết,tư tưởng,tình cảm của con người, thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hoặc không công bằng ,đúng đắn hoặc không đúng dắn của pháp luật hiện hành,pháp luật trong quá sử sự của con người,trong hoặt động của các cơ quan, tổ chức. -giáo dục pháp luật được xem là hoạt động có tính định hướng khứ và pháp luật cần phải có,về tính hợp pháp hoặc không hợp pháp trong cách của các cơ quan đảng,nhà nước và tổ chức xã hội,trong đó người giáo dục và người được giáo dục luôn tác động qua lại lẫn nhau,thiết lập những hành vi sử sự phù hợp các quy phạm pháp luật.hoạt động của giáo dục pháp luật nhằm hình thành ở con người thói quen sử sự phù hợp với đòi hỏi của pháp luật. 9 Giáo dục pháp luật là quá trình tác động có tính liên tục,lâu dài,thường xuyên.vì thế giáo dục pháp luật phải thong qua nhiều cơ quan,tổ chức chính trị, xã hội,trong đó hội đồng phối hợp PBGDPL giữ vai trò quan trọng,nhưng cần phải có sự kết hợp chặt chẽ với các ban nghành lien quan nhằm mục đích hướng dẫn hành vi con người sử sự phù hợp với quy định của pháp luật. 2.2.Thực trạng hiểu biết và ý thức pháp luật của người dân ở nước ta hiện nay: - Có thể nói rằng, thực tiễn thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay có biểu hiện tương đối tốt. Thực hiện Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, chính sách của nhà nước, sự quan tâm chỉ đạo của các ban cấp lãnh đạo, công tác tuyên truyền pháp luật của các cơ quan chức năng; tất cả những nhân tố đó đã tạo cho người dân một cái nhìn tổng quan và chính xác nhất về pháp luật, từ đó, người dân chấp hành, tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách tự giác, chủ động và nghiêm chỉnh. Ví dụ như có nhiều vụ tham nhũng của các cán bộ công chức nhà nước như tham nhũng về đất, tiền đóng góp của người dân. . . đã bị người dân khiếu nại, tố cáo. Nhân dân ủng hộ nhiệt tình với các chủ trương của chính phủ trong việc giải quyết dứt khoát, không tránh né dù đối tượng có cương vị, trọng trách cao đến đâu, cũng có nghĩa rằng nhu cầu công bằng xã hội được dư luận xã hội quan tâm, tán thành, ủng hộ. Không chỉ đem lại quyền lợi cho người dân mà thể hiện tính dân chủ của nhà nước. Điều này cũng cho thấy nhận thức về pháp luật của người dân đã được củng cố và nâng cao. Sự phát triển về kinh tế với những chính sách kinh tế thuận lợi; đường lối chính trị đúng đắn, định hướng nhân cách con người; nét đẹp truyền thống và những đổi mới theo hướng tích cực, lối sống văn hóa cùng với các hệ thống pháp lý chặt chẽ đã tạo điều kiện cho người dân thực hiện pháp luật một cách hiệu quả nhất. Nhìn chung, xã hội hiện nay tương đối ổn định, có điều kiện phát triển kinh tế xã hội; để có được điều này là nhờ có hoạt động thực hiện pháp luật của con người được đảm bảo, duy trì và giữ vững. Bên cạnh những mặt tích cực trong thực tiễn hoạt động thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay thì trong thực tế vẫn còn tồn đọng một số hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện pháp luật. Mặc dù có sự chỉ đạo của các cơ quan chức năng có thẩm quyền, đường lối chính trị đúng đắn của nhà nước, tuy nhiên, trong xã hội vẫn tồn tại một bộ phận không nhỏ thực hiện pháp luật trái với quy định nhà nước, có thể gọi là vi phạm pháp luật và tội phạm. Điều này cho thấy ý thức pháp luật của những bộ phận này chưa cao, kém hiểu biết và ảnh hưởng xấu tới sự ổn định và trật tự xã hội. Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm 10 pháp luật là trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật, sự tôn trọng pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hết sức hạn chế. Trong thời gian qua, việc tuyên truyền pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các phương tiện khác đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, so với yêu cầu nâng cao trình độ, ý thức pháp luật cho nhân dân thì những kết quả đó vẫn chưa tương xứng. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ pháp luật cho nhân dân theo yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật hiện nay là vấn đề cấp thiết. - Thực trạng ý thức pháp luật của người dân Với nhiều chủ trương, chính sách, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công tác xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật ngày càng nâng cao và có chất lượng tốt tạo ra sự chuyển biến rõ rệt so với thời kỳ bao cấp trước đây. Với các quy định phù hợp của pháp luật về các quyền cơ bản của con người (như ăn, ở, đi lại, kinh doanh...) đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho sinh hoạt của mọi người dân. Ý thức pháp luật của người dân cũng có sự chuyển biến tích cực, nhận thức về vị trí vai trò của pháp luật đối với đời sống ngày càng cao. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn vai trò của pháp luật trong cuộc sống người dân có ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật tốt hơn. Ý thức pháp luật của nhân dân Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, nâng cao về mọi phương diện. Sự hiểu biết về tri thức pháp luật nói chung, pháp luật chuyên ngành của cán bộ công chức và người dân ngày càng nâng cao không chỉ về số lượng văn bản pháp luật mà về bản chất nội dung các quy định pháp luật. Điều này thể hiện qua tình hình ý thức chấp hành pháp luật của người dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, văn hóa, giao thông, môi trường, y tế, hội nhập kinh tế quốc tế... được cải thiện rõ rệt thông qua việc tuân thủ đúng các yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật. Ví dụ các chủ thể kinh doanh tuân thủ đúng các quy định về thành lập, hoạt động của doanh nghiệp; chấp hành tốt các quy định của pháp luật về cạnh tranh lành mạnh; kinh doanh thương mại; tỷ lệ tảo hôn ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đã thuyên giảm đáng kể, tỷ lệ tội phạm và các vi phạm pháp luật khác cũng giảm rõ rệt,... Đồng thời, ý thức tự bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người dân được nâng cao. Chính nhờ có tri thức pháp luật đúng đắn giúp họ có thể tụ hành động để bảo vệ quyền lợi của mình mà không xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác và Nhà nước. Tuy nhiên, trong mấy năm trở lại đây tình hình ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức và người dân Việt Nam có nhiều yếu kém, đặc biệt có nhiều vấn đề mới phát sinh có chiều hướng gia tăng đến mức "báo động" là "điểm nóng" đối với tình hình chính trị, an ninh, xã hội. 2.3. sự cần thiết nâng cao ý thức pháp luật của người dân ở nước ta. 11 Chúng ta đã và đang tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân với mục đích thực hiện quyền làm chủ Sự cần thiết nâng cao ý thức pháp luật của người dân ở nước ta của nhân dân theo chủ trương, đường lối của Đảng. -Nhà nước pháp quyền XHCN lấy pháp luật làm căn cứ điều tiết các hành vi cá nhân, các quan hệ xã hội, bảo đảm cho xã hội ổn định và phát triển bền vững. -Để có được xã hội pháp quyền như vậy, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như xây dựng hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, có hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước từ Trung ương xuống cơ sở vững chắc, trình độ văn hóa pháp luật và ý thức của người dân đạt tới sự hiểu biết, tự giác cao, các cơ quan giám sát thi hành pháp luật nghiêm minh... Trong số những yếu tố trên, yếu tố nào cũng có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhưng suy cho cùng, hệ thống luật pháp ấy có đến được với người dân không, nhân dân có hiểu biết và tự giác thực hiện pháp luật hay không là vấn đề quyết định. Nếu luật pháp vẫn chỉ là luật pháp cho dù có hoàn chỉnh đến mấy; nếu người dân cứ tự do sống theo kiểu của mình không cần biết đến luật pháp, thì không những xã hội không phát triển mà còn rất tồi tệ và bất ổn. Mấu chốt của vấn đề ở chỗ, pháp luật phải đi vào cuộc sống, nhân dân thấy cần pháp luật như cần không khí để hít thở vậy. Cho nên, việc tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân là việc làm không thể thiếu và cũng không thể làm một, hai lần, làm một thời gian ngắn là xong mà phải rất kiên trì, sáng tạo, linh hoạt, được toàn xã hội tham gia. Tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân có nhiều việc phải làm, bằng nhiều cách, do nhiều lực lượng tham gia như đã nêu. Các phương tiện thông tin đại chúng với những ưu thế đặc biệt đã thực sự là một công cụ tuyên truyền giáo dục pháp luật có hiệu quả xã hội cao. Các phương tiện thông tin đại chúng làm cho mỗi người dân trong đời sống sinh hoạt thường ngày của mình được tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng một cách trực tiếp, cập nhật, phong phú, đa dạng, sinh động, dễ dàng. Thông qua các phương tiện nghe, nhìn của đài phát thanh, đài truyền hình, sách báo in, báo mạng, báo ảnh, tạp chí... người dân có thể thấm nhuần những nội dung pháp luật, những điều cần phải làm, những vấn đề phải quan tâm... Các phương tiện thông tin đại chúng cũng phê phán, nêu rõ các hiện tượng sai trái coi thường pháp luật, không hiểu pháp luật đã dẫn đến những hậu quả khó lường cho cá nhân, gia đình và xã hội. Việc làm này có tác động mạnh tới nhận thức tư tưởng, tình cảm của mỗi người, khiến họ phải tự điều chỉnh hành vi của mình theo quy định của pháp luật. Cho nên việc tuyên truyền giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng là cần thiết, có nhiều ưu thế và là một trong 12 những phương pháp, phương thức tuyên truyền giáo dục pháp luật hiện nay có hiệu quả cao, được nhiều người ở nhiều lứa tuổi quan tâm. 2.4. quan điểm, định hướng giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của người dân ở nước ta. - Thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo tinh thần và nội dung của các Nghị quyết của Bộ Chính trị: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020; Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; thực hiện cải cách hành chính, phân cấp cụ thể để địa phương chủ động đưa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hướng về cơ sở; đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của nhân dân; - Phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của Nhà nước, đồng thời cũng là trách nhiệm chung của toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; từng bước xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, khuyến khích, hướng dẫn, huy động sự tham gia, đóng góp của xã hội vào công tác này; - Điều chỉnh toàn diện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, quy định cụ thể về nguyên tắc phổ biến, giáo dục pháp luật; người được phổ biến, giáo dục pháp luật; tổ chức và người thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật; hình thành các chuẩn mực, quy tắc nghề nghiệp trong công tác này; huy động nguồn lực bảo đảm hoạt động và tăng cường công tác quản lý nhà nước nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; - Thống nhất quản lý nhà nước về lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật vào một hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương là ngành Tư pháp, với cơ quan trực tiếp thực hiện là đơn vị làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở trung ương và địa phương. Ngành Tư pháp vừa có nhiệm vụ quản lý Nhà nước thống nhất trong phạm vi cả nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, vừa là Cơ quan thường trực của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ. Tăng cường sự chủ động và cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành, đoàn thể trong công tác PBGDPL. Phân cấp mạnh mẽ hoạt động PBGDPL cho địa phương với phương châm hướng công tác PBGDPL về cơ sở. 13 - Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, kế thừa những quy định của pháp luật hiện hành về phổ biến, giáo dục pháp luật; tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phổ biến, giáo dục pháp luật của các nước trên thế giới. - Sự cần thiết xây dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác này. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đề cập đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật; huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cơ quan nhà nước và trong xã hội’’. Nghị quyết số 08–NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ cần: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên toà xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân”. Hiến pháp năm 1992 giao Chính phủ nhiệm vụ: “Tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân”. Nhiều văn bản pháp luật của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật như: Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật… Đặc biệt, Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân (Chỉ thị số 32CT/TW) đã khẳng định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”. 14 3. THỰC TRẠNG HIỂU BIẾT VÀ Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA NGƯỜI DÂN TRÊN ĐỊA BÀN XÃ vũ chính. 3.1. Khái quát về địa bàn xã vũ chính. 3.1.1. Về điều kiện địa lý, tự nhiên, dân số. Xã vũ chính TP Thái Bình, cách trung tâm thành phố chừng 3,5 km, có vị trí địa lý ở phía Nam thành phố,địa giới hành chính phía Đông Nam giáp xã Vũ Ninh (huyện Kiến Xương); phía Đông giáp xã Vũ Lạc; phía Đông Bắc và phía Bắc giáp phường Trần Lãm; phía Bắc giáp phường Kỳ Bá; phía Tây Bắc giáp phường Quang Trung; phía Tây giáp xã Vũ Phúc; phía Nam giáp với xã Việt Thuận và xã Vũ Hội huyện Vũ Thư. Vũ Chính có diện tích là 558 hecta với dân số ước khoảng 12.700 người gồm hàng chục dòng họ, trong đó đông nhất là ba họ Nguyễn Xuân (Nguyễn Ngọc), Phan Văn, Vũ Đình. Mỗi dòng họ có trên dưới 1.000 người. Dân cư sống tập trung ở thành 3 làng Tống Vũ (phía Đông xã gồm các thôn Tống Vũ, Tây Sơn, Hòa Hải, Đông Hải, Tống Vũ, tổ dân phố 2, dân số ước tính trên 5.000 người), làng Tống Văn (phía Tây xã gồm các thôn Tống Văn, Nam Hùng, Trấn Tây, Quyến, Trung Hòa, Tiên Sơn, tổ dân phố 1, dân số ước tính 7.000 người), làng Lạc Chính (phía Tây Bắc, đồng thời cũng là thôn Lạc Chính có khoảng 1.000 người). Tổng cộng xã có 12 thôn và 2 tổ dân phố bao gồm các thôn: 1. Tống Văn (xóm 6+7 cũ) 2. Nam Hùng (xóm 8 cũ) 3. Trấn Tây (xóm 9+10 cũ) 4. Quyến (xóm 11 cũ) 5. Trung Hòa (xóm 12 cũ) 6. Lạc Chính (xóm 13 cũ) 7. Tiên Sơn (xóm 14 cũ) 8. Tống Vũ (xóm 5 cũ) 9. Tây Sơn (xóm 4 cũ) 10.Hòa Hải (xóm 3 cũ) 11.Đông Hải (xóm 2 cũ) 12.Vũ Trường (xóm 1 cũ) 13.Tổ dân phố 1 (xóm 15 cũ) 14.Tổ dân phố 2 (gồm 1 bộ phận của xóm 1 và xóm 2 cũ. 15 Xã Vũ Chính gồm 3 làng Tống Vũ, Tống Văn, Lạc Chính. Vùng đất Vũ Chính hình thành vào khoảng 400 năm về trước, đầu thế kỷ 17, di dân từ các nơi đã lập lên làng Tống Vũ và làng Lạc Chính. Đến khoảng thế kỷ 19, làng Tống Vũ tách thành Tống Vũ và Tống Văn. Thời Pháp thuộc, tại Thái Bình làng được gọi là xã, hai xã Tống Vũ và Tống Văn thuộc tổng Hội Khê, xã Lạc Chính thuộc tổng Lạc Đạo đều thuộc huyện Vũ Tiên, phủ Thư Trì, Đến sau cách mạng tháng 81945, xã Tống Văn và xã Lạc Chính được hợp nhất thành xã Vũ Chính. Xã Tống Vũ và xã Lạc Đạo (tổng Lạc Đạo) được hợp thành xã Vũ Lãm. Ngày 1812-1976, xã Vũ Chính và xã Vũ Lãm được thành lập thành xã Chính Lãm, lúc này xã Chính Lãm rộng khoảng 800ha, dân số lên đến 15 ngàn người. Ngày 504-1982, thôn Lạc Đạo xã Chính Lãm được tách ra để thành lập phường Trần Lãm, xã Chính Lãm được đổi tên thành xã Vũ Chính. Xã Vũ Chính lúc này còn diện tích 558ha, dân số có trên 10.000 ngườii chia làm 15 xóm từ 1-15, trong đó làng Tống Vũ gồm 5 xóm từ 1-5, làng Lạc Chính là xóm 13, một phần nhỏ các xóm 12, 14. Làng Tống Văn gồm gần 8 xóm. Ngày 25-06- 1986 xã Vũ Chính được nhập về vào thị xã Thái Bình (Nay là thành phố Thái Bình).Đến năm 2004, xã được điều chỉnh lại thành 12 thôn và 2 tổ dân phố như hiện nay. Về giao thông, cắt ngang qua phía Tây của xã Vũ Chính (qua làng Tống Văn) là đoạn cuối của đường Lý Bôn (ngã ba chợ Tông), tức là đường 223. Hiện trên địa bàn xã đang triển khai xây dựng đường vành đai thành phố. Tuyến đường vành đai qua xã dài trên 7 km sẽ đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - văn hóa địa phương. Bên cạnh đó, xã Vũ Chính có hệ thống đường giao thông liên xã, liên thôn tương đối hiện đại đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. 3.1.2. Tình hình kinh tế, văn hóa - xã hội Là một đơn vị ngoại thành, xã Vũ Chính có điều kiện phát triển tương đối toàn diện cả về nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Về nông nghiệp, Vũ Chính là một trong những nơi đầu tiên của cả nước xây dựng được cánh đồng 100 triệu/ha, nổi tiếng với rau màu và trồng hoa cung cấp cho thành phố Thái Bình. Về dịch vụ - tiẻu thủ công nghiệp, xã có hàng chục cơ sở tiểu thủ công nghiệp đan, may.... giải quyết công việc cho hàng trăm lao động. Ngoài ra, xã có khoảng 1000 lao động đang làm việc tại các nhà máy ở thành phố Thái Bình. Tổng thu nhập toàn xã một năm ước đạt 300 tỷ đồng, bình quân đầu người đạt 23 triệu/người/năm. 16 Địa bàn xã hiện nay cũng nằm trong quy hoạch xây dựng nhiều cơ quan, doanh nghiệp của tỉnh Người dân xã Vũ Chính nổi tiếng với truyền thống thơ ca và tính tếu táo hay đùa. Chẳng hạn về kinh nghiệm lập gia đình, người thôn Tống Văn có câu: "Trai đô Tống Vũ, gái mềm cọi khê" Ngụ ý chọn chồng thì lấy con trai làng Tống Vũ vì sức khỏe (làng Tống Vũ trước đây chuyên sản xuất gạch). Lấy vợ thì phải xuống làng Cọi Khê (xã Vũ Hội) vì con gái ở đây đảm đang, giỏi buôn bán. Tếu táo hơn, người Vũ Chính có câu: "Hỡi em mặc áo xanh xanh Có về Vũ Chính quê anh thì về Quê anh lắm ruộng nhiều nghề Sáng trồng cải bắp, tối về trồng khoai" Ngụ ý nói về xã Vũ Chính là địa phương chuyên trồng màu. Một bài thơ thất truyền khác được cho là của một tác giả người Vũ Chính khi địa phương có phong trào trồng cà vào những năm 2000 "Bà con toàn thể xã ta Đồng tâm hiệp lực giồng cà dái dê Dái dê to mập dài ghê Năm sau ta cứ dái dê ta trồng". 3.1.3. Sự thể hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội trên địa bàn xã. * Vai trò,nhiệm vụ,chức năng của Hội đồng nhân dân xã vũ chính. Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đồng thời là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương. Hội đồng nhân dân xã quyết định các biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, an toàn xã hội tại địa phương; quyết định các biện pháp phát triển hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế; quyết định các biện pháp thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo, quyết định biện pháp bảo đảm việc thi hành pháp luật ở địa phương, quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân xã trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính. Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, vai trò của Hội đồng nhân dân được tăng cường đổi mới nhằm đáp ứng điều kiện thực tiễn, thể hiện cụ thể trong các hoạt động sau: - Giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và những công việc do cấp trên thực hiện trên địa bàn, nhất là việc sử dụng đất đai, quỹ công, tài sản công, kể cả các quỹ do dân đóng góp; bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. 17 - Các đại biểu Hội đồng nhân dân, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong các kỳ họp, còn được phân công tham gia các hoạt động thường xuyên, gắn bó với dân như tham gia hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, tổ hoà giải, các tổ chức tự quản khác của dân... * Vai trò,nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân xã vũ chính. Ủy ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp, là cơ quan hành chính ở địa phương, có nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước một cách toàn diện trên địa bàn xã, tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp. UBND xã xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội hàng năm tại địa phương mình; thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh quốc phòng, an ninh trật tự; thực hiện các chính sách về dân tộc, tôn giáo và bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương. Vai trò của Uỷ ban nhân dân xã trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thể hiện trong các nội dung: - Hướng dẫn việc thực hiện, chương trình, kế hoạch, đề án khuyến khích phát triển nông, lâm, ngư nghiệp theo quy định của cấp trên. Tổ chức thực hiện các biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển sản xuất, hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi trong sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch chung. - Đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ công chức xã và thực hiện chế độ bổ nhiệm có thời hạn. Tiếp tục đổi mới cải cách hành chính, giảm bớt phiền hà cho người dân, đẩy mạnh phân cấp và tạo điều kiện cho chính quyền cấp xã hoạt động có hiệu quả. Thời cơ và thách thức trên đặt ra vấn đề phải giải quyết đồng bộ có hiệu quả các vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, củng cố phát triển hệ thống chính trị ở nông thôn tạo cơ sở để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp vào năm 2020. * Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã. Ủy ban Mặt trận tổ quốc xã có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị ở cơ sở, có vai trò đoàn kết nhân dân, chăm lo lợi ích của các thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ của công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Với những yêu cầu, nhiệm vụ của quá trình CNH, HĐH, ý thức được vai trò của mình, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã có những nội dung hoạt động phù hợp, phát động được những phong trào tích cực sản xuất, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã có vai trò quan trọng trong việc phối hợp với các tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở tham gia tích cực thực hiện 18 các nhiệm vụ về phát triển nông nghiệp, nông thôn; giải quyết những vấn đề cụ thể để phát triển kinh tế - xã hội như chuyển đổi cơ cấu kinh tế, vấn đề vay vốn, giống và áp dụng khoa học, kỹ thuật, bảo vệ môi trường, tiêu thụ sản phẩm; tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” đáp ứng với những yêu cầu mới của thực tiễn. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã phối hợp với chính quyền cải tiến nội dung và quy trình tiếp dân, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo và bước đầu phối hợp với chính quyền triển khai xây dựng và thực hiện Pháp lệnh dân chủ tại địa phương nhằm thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. * Hội Nông dân. Hội Nông dân xã là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông dân, Hội Nông dân đã phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tín chấp cho nông dân vay vốn phát triển kinh tế; vận động nông dân đoàn kết, tương trợ giúp nhau sản xuất kinh doanh; tham gia phong trào thi đua xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và đã đạt được kết quả to lớn. Hội Nông dân ở xã đã tích cực phối hợp cùng với các cấp chính quyền, các ngành chức năng phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tham gia thực hiện hiệp thương dân chủ, giới thiệu nhân sự ứng cử vào Hội đồng nhân dân ở xã. Ngoài ra, Hội nông dân ở xã còn đóng vai trò quan trọng trong công tác hoà giải ở cơ sở. * Hội Phụ nữ. Hội Liên hiệp Phụ nữ xã là tổ chức với mục đích hoạt động vì sự bình đẳng và phát triển của phụ nữ, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của phụ nữ. Trong quá trình CNH. HĐH nông nghiệp, nông thôn, Ban chấp hành - Chi hội phụ nữ ở xã đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn các tổ chức, địa phương thực hiện Luật bình đẳng giới, lồng ghép các yêu cầu bình đẳng giới trong mọi kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội; tăng cường sự tham gia và hưởng lợi của phụ nữ trong quá trình bàn bạc, quyết định, thực hiện và giám sát các kế hoạch phát triển cộng đồng, địa phương. Bên cạnh đó, vai trò của Ban chấp hành - Chi hội phụ nữ ở xã còn thể hiện trong việc vận động và phát huy các quan hệ truyền thống xây dựng cộng đồng nông thôn đoàn kết, gắn bó. Tăng cường và phát huy các mối quan hệ, mối liên kết mang tính gia đình, dòng họ, làng xã vốn có truyền thống lâu đời. * Hội Cựu chiến binh. Hội Cựu chiến binh ở xã có chức năng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của cựu chiến binh ở địa phương. Hội có vai trò tham mưu giúp cấp ủy Đảng và là lực lượng nòng cốt tập hợp, đoàn kết, vận động cựu 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan