Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất ngủ mạn tính tại một số bệnh viện thành phố ...

Tài liệu Tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất ngủ mạn tính tại một số bệnh viện thành phố hồ chí minh.

.PDF
130
46
68

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Trần Quang Trọng TỔN THƯƠNG TÂM LÝ CỦA BỆNH NHÂN MẤT NGỦ MẠN TÍNH TẠI MỘT SỐ BỆNH VIỆN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2019 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Trần Quang Trọng TỔN THƯƠNG TÂM LÝ CỦA BỆNH NHÂN MẤT NGỦ MẠN TÍNH TẠI MỘT SỐ BỆNH VIỆN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : Tâm lý học Mã số : 8310401 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU Thành phố Hồ Chí Minh - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả trong luận văn “Tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất ngủ mạn tính tại một số bệnh viên thành phố Hồ Chính Minh” là trung thực, chưa được sử dụng trong bất kỳ luận văn nào. Tp Hồ Chí Minh, ngày…. tháng…. năm 2019 Học viên ký tên Trần Quang Trọng LỜI CẢM ƠN Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giảng dạy lớp Cao học Tâm lý học, quý thầy cô Phòng Sau đại học, Trường Đại học Sư Phạm Tp.HCM đã nhiệt tình truyền đạt những kiến thức, những kinh nghiệm tinh thông, sâu sắc quý báu, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi trong quá trình tôi học tập. Xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến GS.TS. Đoàn Văn Điều, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên, đồng thời tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám đốc và cán bộ nhân viên bệnh viện Quận 2 đã nhiệt tình tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp. Xin chân thành cảm ơn đến các bạn học viên cao học đã chia sẻ, trao đổi kiến thức và đóng góp ý kiến quý báu, nhằm giúp đỡ động viên tôi. Cuối cùng, xin gửi đến gia đình, tất cả bạn bè thân thuộc, những người luôn giúp đỡ động viên tôi rất nhiều trong cuộc sống, trong quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp. TP.HCM, ngày tháng năm 2019 MỤC LỤC Trang bìa phụ Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ Mở đầu ..........................................................................................................................1 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN TỔN THƯƠNG TÂM LÝ CỦA BÊNH NHÂN MẤT NGỦ MẠN TÍNH ..........................................................................7 1.1. Lịch sử nghiên cứu về tổn thương tâm lý .........................................................7 1.1.1. Nghiên cứu tổn thương tâm lý ở nước ngoài .............................................7 1.1.2. Nghiên cứu tổn thương tâm lý ở Việt Nam .............................................11 1.2. Khái niệm chung về tổn thương tâm lý ..........................................................15 1.3. Khái niệm trầm cảm .......................................................................................18 1.3.1. Định nghĩa trầm cảm................................................................................18 1.3.2. Nguyên nhân và cơ chế bẩm sinh của trầm cảm......................................20 1.3.3. Chẩn đoán trầm cảm theo DSM-IV .........................................................23 1.3.4. Các biểu hiện của trầm cảm .....................................................................24 1.4. Khái niệm lo âu ..............................................................................................26 1.4.1. Định nghĩa rối loạn lo âu .........................................................................26 1.4.2. Các biểu hiện của rối loạn lo âu...............................................................28 1.4.3. Căn nguyên rối loạn lo âu ........................................................................30 1.4.4. Chẩn đoán rối loạn lo âu theo DSM-IV: ..................................................31 1.5. Khái niệm mất ngủ .........................................................................................32 1.6. Các yếu tố liên quan trầm cảm, lo âu .............................................................34 1.7. Mất ngủ mạn tính, trầm cảm, lo âu mối liên quan .........................................46 1.8. Bộ công cụ đánh giá trầm cảm, lo âu .............................................................47 Tiểu kết Chương 1 .......................................................................................................52 Chương 2. THỰC TRẠNG TỔN THƯƠNG TÂM LÝ CỦA BỆNH NHÂN MẤT NGỦ MẠN TÍNH ........................................................................53 2.1. Thể thức và phương pháp nghiên cứu tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất ngủ mạn tính ..........................................................................................53 2.2. Thực trạng chung về tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất ngủ mạn tính ...59 2.2.1. Đánh giá chung thực trạng lo âu, trầm cảm ở bệnh nhân mất ngủ mạn tính .................................................................................................60 2.3. Mô tả đặc điểm khách thể nghiên cứu ...........................................................62 2.4. Mối liên quan giữa trầm cảm, lo âu với các yếu tố liên quan........................69 2.4.1. Mối liên quan trầm cảm lo âu với đặc điểm hôn nhân gia đình ..............69 2.4.2. Mối liên quan trầm cảm, lo âu với dặc điểm kinh tế ...............................72 2.4.3. Mối liên quan giữa trầm cảm lo âu với đặc điểm mất ngủ......................73 2.4.4. Mối liên quan giữa trầm cảm, lo âu với đặc bệnh đồng mắc ..................75 Tiểu kết Chương 2 .......................................................................................................78 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................................79 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................80 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ ĐẦY ĐỦ CHỮ VIẾT TẮT OCD AIDS APA BV CDC CES-D DALY DASS21 Obsessive compulsive disorder (Rối loạn ám ảnh cưỡng chế) Acquired immunodeficiency syndrome (Hội chứng suy giảm miễn dịch) American Psycholofical Association (Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ) Bệnh viện Centers for Disease Control and Prevention (Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ) Center for Epidemiological Studies Depression (Trung tâm nghiên cứu dịch tể trầm cảm) Disability- Adjusterd Life Years (Số năm sống được điều chỉnh theo mức độ bệnh tật) Depression Anxiety and Stress Scales (Thang đánh giá mức độ trầm cảm, lo âu, stress 21) Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders DSM-IV (Hướng dẫn chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần IV) HADS HAMA HAMD HIV ICD Hospital Anxiety and Depression Scale (Thang dó lo âu và trầm cảm tại bệnh viện) Hamilton Anxiety Rate Scale (Thang đo lo âu của Hamilton) Hamilton Depression Rating Scale (Thang đo trầm cảm của Hamilton) Human Immunodeficiency virus (Vi rút suy giảm miễn dịch ở người) Internationnal Classification of Diseases (Phân loại quốc tế về bệnh) RLLATT OR PHQ-9 PR PTSD ASR TTTL WHO Rối loạn lo âu toàn thể Odds ratio (Tỉ số số chênh) Patient Health Questionnaire 9 (Bảng hỏi đánh giá sức khỏe bệnh nhân 9) Prevalence ratio (Tỉ lệ hiện hành) Post Trauma Stress Disorder (Rối loạn stress sau sang chấn) Actue stress reaction (Rối loạn stress cấp) Tổn thương tâm lí World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới) DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Đánh giá chung mức độ lo âu trầm cảm .................................................... 60 Bảng 2.2. Tỉ lệ trầm cảm, lo âu. ................................................................................. 61 Bảng 2.3. Đặc tính thông tin cá nhân ......................................................................... 62 Bảng 2.4. Đặc điểm hôn nhân gia đình của khách thể nghiên cứu ........................... 64 Bảng 2.5. Đặc điểm kinh tế nghề nghiệp của khách thể nghiên cứu......................... 65 Bảng 2.6. Đặc điểm chứng mất ngủ của khách thể nghiên cứu ............................... 66 Bảng 2.7. Đặc điểm bệnh đồng mắc của khách thể nghiên cứu ................................ 67 Bảng 2.8. Tự đánh giá cảm nhận của khách thể về tình trạng bệnh ........................... 68 Bảng 2.9. Mối liên quan giữa trầm cảm với đặc điểm hôn nhân gia đình ................ 69 Bảng 2.10. Mối liên quan giữa lo âu với đặc điểm hôn nhân gia đình...................... 70 Bảng 2.11. Mối liên quan trầm cảm với đặc điểm kinh tế. ....................................... 72 Bảng 2.12. Mối liên quan giữa lo âu với đặc điểm kinh tế. ...................................... 72 Bảng 2.13. Mối liên quan giữa trầm cảm với đặc điểm mất ngủ .............................. 73 Bảng 2.14. Mối liên quan giữa lo âu với đặc điểm giấc ngủ ..................................... 74 Bảng 2.15. Mối liên quan trầm cảm với đặc điểm bệnh đồng mắc ........................... 75 Bảng 2.16. Mối liên quan lo âu với đặc điểm bệnh đồng mắc .................................. 76 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1. Mối tương quan rối loạn lo âu và trầm cảm........................................... 61 Biểu đồ 2.2. Tuổi trung bình khách thể nghiện cứu ................................................... 63 Biểu đồ 2.3. Thời gian trung bình ngủ thực tế của khách thể .................................... 67 1 Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Tổn thương tâm lý là một hiện tượng tâm lý phức tạp, không dễ chẩn đoán với nhiều biểu hiện khác nhau ở các cá nhân như: rối loạn dạng cơ thể, vấn đề về tư duy, chú ý, giao tiếp xã hội, hành vi, và phổ biến nhất là lo âu và trầm cảm (Nguyễn Thị Như Thúy, 2017). Trầm cảm, lo âu gây ảnh hưởng tiêu cực đến cảm xúc, suy nghĩ và hành vi của con người, tạo nên một gánh nặng bệnh tật rất lớn cho cả bản thân, gia đình và xã hội (Lecrubier, 2001). Trầm cảm và lo âu là những rối loạn tâm thần thường gặp, người bị trầm cảm hay có các biểu hiện như buồn bã, mất hứng thú, mặc cảm tội lỗi hoặc ngủ ít, cảm giác mệt mỏi, và tập trung kém; những đặc trưng cơ bản của rối loạn lo âu là cảm giác căng thẳng, suy nghĩ lo lắng và sự thay đổi về thể chất. (World Health Organization, 2014). Thông thường mất ngủ được xác định khi có sự than phiền của một cá nhân về việc khó ngủ hay không ngủ được. Đôi khi mất ngủ được sử dụng như một thuật ngữ để chỉ về việc xáo trộn trong giấc ngủ của một cá nhân với các biểu hiện như ngủ trễ giấc, thức dậy về đêm với những kích thích thoáng qua trong thời gian ngắn, do đó mất ngủ thường được xem như là một triệu chứng của những bệnh lý khác. Mặc dù thường được xem là triệu chứng trầm cảm, nhưng mất ngủ cũng là một tiền đề dẫn đến trầm cảm và có liên quan đến sự gia tăng đáng kể trong nguy cơ của trầm cảm. Mất ngủ liên quan đến suy giảm tâm trạng, hoạt động cá nhân và chất lượng cuộc sống, trong một số trường hợp với tình trạng buồn ngủ ban ngày có thể làm tăng rủi ro dẫn đến tai nạn (Walsh J. K, 2004). Những người bị chứng mất ngủ mạn tính thường đi kèm với những rối loạn tâm lý phổ biến là lo âu và trầm cảm, theo kết quả của nhiều nghiên cứu được tiến hành trên thế giới, ước tính rằng 40% người có chứng mất ngủ mạn tính có thể đang mắc một rối loạn tâm lý song song (AncoliIsrael, 2006; Katz D. A và McHorney, 1998). Do tính mạn tính kéo dài của chứng mất ngủ nên đây là một trong những yếu tố liên quan gián tiếp đến chất lượng cuộc sống của một cá nhân. Trong nhiều nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng yếu tố trầm cảm, lo âu và mất ngủ có mối liên quan với nhau, trầm cảm hay lo âu là những biểu hiện rất phổ biến của những bệnh nhân có 2 chứng mất ngủ mạn tính, trong khi ngược lại chứng mất ngủ có tỷ lệ xuất hiện gấp đôi ở những người có tâm trạng buồn chán, lo lắng quá nhiều (Soldatos, 1994). Mẫu nghiên cứu trên cộng đồng 1014 thanh thiếu niên tuổi từ 13-16 tuổi của Johnson tiến hành năm 2016, mất ngủ được đánh giá dựa trên các tiêu chí từ DSM-IV, đã cho kết quả những người có chứng mất ngủ kéo dài có tỉ suất nguy cơ bị rối loạn lo âu và trầm cảm cao hơn nhưng người bình thường lần lượt là 3,2 và 6,8 lần (Johnson E. O, Roth, & Breslau, 2006). Các ảnh hưởng của việc mất ngủ, lo âu, trầm cảm không chỉ gây cho cá nhân nhiều lo lắng và mệt mỏi, ảnh hưởng xấu đến tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần mà cũng đòi hỏi chi phí rất cao đối với cộng đồng và thiệt hại rất đáng kể về thời gian làm việc và năng suất lao động, điều này đã được nhiều nghiên cứu nước ngoài công bố tuy nhiên tại Việt Nam các công trình nghiên cứu chưa nhiều. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất ngủ mạn tính tại một số bệnh viện thành phố Hồ Chí Minh”. 2. Mục đích nghiên cứu Qua nghiên cứu lý luận, thực trạng rối loạn lo âu, trầm cảm và các yếu tố tác động ở bệnh nhân mất ngủ mạn tính, đưa ra một số kiến nghị nhằm cải thiện sức khỏe của bệnh nhân mạn tính. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu Đối tượng Tổn thương tâm lý liên quan đến mất ngủ mạn tính Khách thể Bệnh nhân mất ngủ mạn tính 4. Giới hạn nghiên cứu Giới hạn đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu được giới hạn thành hai biểu hiện của tổn thương tâm lý là lo âu và trầm cảm. Đề tài quan tâm đến những bệnh nhân có lo âu và trầm cảm ở mức độ nặng và rất nặng được xác định bởi điểm số từ thang đo đánh giá mức độ trầm cảm, lo âu, stress (DASS-21). 3 Giới hạn khách thể nghiên cứu Bệnh nhân đến khám và điều trị tại khoa khám bệnh và phòng khám bác sĩ gia đình bệnh viện Quận 2, được sàng lọc và đánh giá tình trạng mất ngủ mạn tính bằng chẩn đoán theo DSM-IV và ICD-10 với các biểu hiện để chẩn đoán mất ngủ như: (1) bệnh nhân có các than phiền về mất ngủ; (2) thời gian có các than phiền về giấc ngủ kéo dài trên 1 tháng; (3) không do hiệu quả sinh lý của một số chất (café, rượu, bia,..); (4) bệnh nhân có mệt mỏi hoặc suy giảm hoạt động vào ban ngày; (5) làm suy giảm hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc trong các lĩnh vực quan trọng khác. Giới hạn địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành lấy mẫu và thực hiện tại bệnh viện Quận 2 thành phố Hồ Chi Minh. 5. Giả thuyết khoa học Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các yếu tố liên quan đến lo âu, trầm cảm ở bệnh nhân mất ngủ mạn tính (1) yếu tố gia đình, (2) kinh tế xã hội, (3) tình trang sức khỏe 6. Nhiệm vụ nghiên cứu Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn các khái niệm trong nghiên cứu Xác định thực trạng rối loạn lo âu và trầm cảm của bệnh nhân mất ngủ mạn tính Xác định mối liên quan giữa lo âu, trầm cảm với các yếu tố (giới tính, tuổi, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe, cảm nhận kinh tế, mâu thuẫn gia đình) 7. Phương pháp nghiên cứu tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất ngủ mạn tính 7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất ngủ mạn tính. Mục đích: Nghiên cứu lý luận xác lập cơ sở lý luận của đề tài luận văn Nội dung: Thu thập, phân tích, tổng hợp các loại sách, báo, tạp chí, công trình nghiên cứu, văn bản, tài liệu trong và ngoài nước có liên quan đến rối loạn lo âu và mất ngủ để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. Làm rõ khái niệm rối loạn lo âu, trầm cảm, mất ngủ mạn tính. 4 Cách tiến hành: Hệ thống hóa những lý thuyết, những tranh luận hay sự khác nhau trong các công trình nghiên cứu có liên quan đến rối loạn lo âu, trầm cảm, giấc ngủ, mất ngủ của các tác giả trong nước và ngoài nước được đăng tải trên các sách, báo, tạp chí khoa học, về rối loạn lo âu và mất ngủ ở bệnh nhân mạn tính. Tham khảo nhiều nguồn tài liệu khác nhau trên các lĩnh vực có liên quan đến đề tài nghiền cứu. Phân tích, tổng hợp các nguồn tài liệu một cách cẩn trọng. 7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất ngủ mạn tính  Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Mục đích: Xác định thực trạng rối loạn lo âu, trầm cảm, mất ngủ, đặc điểm chung khách thể, các yếu tố có liên quan đến rối loạn lo âu ở bệnh nhân mạn tính. Cách tiến hành: Đầu tiên nghiên cứu sử dụng tiêu chí phân loại mất ngủ mạn tính theo DSM-IV để sàng lọc những người bệnh có than phiền mất ngủ. Sau đó sử dụng bộ câu hỏi có cấu trúc gồm 2 phần để người tham gia trả lời Phần A: Gồm 21 câu hỏi nhằm lấy thông tin chung của đối tượng tham gia nghiên cứu. Phần B: Sử dụng thang đo DASS21 để đánh giá lo âu và trầm cảm trên bệnh nhân. Đây là thang đo được sử dụng rộng rãi để đánh giá lo âu, trầm cảm, stress trong bệnh viện và ngoài cộng đồng.  Phương pháp phỏng vấn Mục đích: Tiến hành phỏng vấn 1 số bệnh nhân mạn tính, nhằm tìm hiểu sâu hơn tình trạng giấc ngủ của bệnh nhân trong 1 tháng qua. Cách thực hiện: Chọn 1 số bệnh nhân trả lời có ở câu hỏi bệnh nhân tự cho mình bị mất ngủ trong 1 tháng qua, ở bảng hỏi trực tiếp. Cách xử lý kết quả: Thông tin thu thập được dùng để minh họa, làm rõ, các bảng đo kết quả nghiên cứu thực trạng, giải thích 1 số vấn đề trong nghiên cứu. Nội dung phỏng vấn: Nội dung phỏng vấn xoay quanh các vấn đề về mất ngủ, thời gian kéo dài của việc mất ngủ, ảnh hưởng tiêu cực của mất ngủ lên sinh hoạt hằng ngày, tình trạng bệnh, tâm lý của bệnh nhân. 5  Phương pháp toán thống kê Mục đích: Đưa ra những kết luận định lượng cho vấn đề nghiên cứu. Cách tiến hành: Các bộ câu hỏi phỏng vấn sau khi thu thập sẽ được tiến hành làm sạch. Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1; xử lý thống kê bằng phần mềm Stata 13.0. Thống kê mô tả: Sử dụng tần số và tỉ lệ phần trăm để mô tả cho các biến số định tính: Giới tính, hôn nhân, sự hỗ trợ, tình trạng kinh tế, v.v… Sử dụng trung bình và độ lệch chuẩn nếu biến số phân phối bình thường hoặc trung vị và khoảng tứ phân vị nếu biến số phân phối không bình thường để mô tả cho các biến số định lượng: rối loạn lo âu, mất ngủ, thời gian ngủ ban ngày. Thống kê phân tích: Dùng kiểm định chi bình phương để xác định mối liên quan giữa biến kết cuộc và biến tiên lượng là biến nhị giá hoặc biến danh định. Thay thế bằng kiểm định Fisher cho phép kiểm chi bình phương nếu trên 20% tổng số các ô vọng trị <5 hoặc có ô vọng trị nhỏ hơn 1. Mối liên quan được ước lượng bằng tỉ số tỉ lệ hiện hành PR với khoảng tin cậy 95%. 7.3. Đạo đức trong nghiên cứu Ảnh hưởng đến đối tượng nghiên cứu Trước khi tham gia nghiên cứu đối tượng được cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu hoàn toàn có quyền quyết định tự nguyện tham gia vào nghiên cứu. Nghiên cứu không làm ảnh hưởng đến quyền lợi tham gia khám chữa bệnh và điều trị tại bệnh viện của đối tượng tham gia nghiên cứu. Mọi thông tin mà đối tượng nghiên cứu cung cấp sẽ hoàn toàn được bảo mật và chỉ phục vụ cho mục đích của nghiên cứu. Ảnh hưởng lên xã hội Nghiên cứu chỉ nhằm tìm ra tỉ lệ trầm cảm, lo âu trên những đối tượng bị chứng mất ngủ mạn tính và không gây ảnh hưởng tiêu cực tới tình trạng xã hội hiện tại. 6 Xin phép và phê duyệt Nghiên cứu được xin phép và phê duyệt tại Hội đồng khoa học của khoa tâm lý Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh số 361/QĐ-ĐHSP Ngày 06/02/2018 Được sự chấp nhận và cho phép của Ban giám đốc bệnh viện quận 2 và lãnh đạo khoa khám bệnh và phòng khám bác sĩ gia đình nghiên cứu mới được tiến hành. Nghiên cứu thực hiện lấy mẫu trên những đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu. 7 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN TỔN THƯƠNG TÂM LÝ CỦA BÊNH NHÂN MẤT NGỦ MẠN TÍNH 1.1. Lịch sử nghiên cứu về tổn thương tâm lý 1.1.1. Nghiên cứu tổn thương tâm lý ở nước ngoài Trên thế giới những vấn đề về sức khỏe tâm thần và những tổn thương tâm lý bắt đầu được quan tâm và nghiên cứu vào cuối thế kỷ XIX. Những nghiên cứu ban đầu chủ yếu tập trung vào những vấn đề về nguyên nhân, triệu chứng lâm sàng của những tổn thương tâm lý. Năm 1889, nhà tâm thần học người Đức Herman Oppenheim là người đầu tiên đưa ra những miêu tả về triệu chứng lâm sàng của tổn thương tâm lý ở những bệnh nhân trải qua tai nạn đường sắt hoặc tai nạn lao động, ông miêu tả như sau: “Ở họ luôn có nỗi lo thường trực, họ sợ phải đối mặt với những kích thích gợi lại sự kiện gây ra tai nạn, rối loạn giấc ngủ kèm theo cơn ác mộng, dễ cáu gắt, quá cảnh giác và thu mình lại” (Holdorff, 2011). Jean Martin Charcot (1825 - 1893) người sáng lập khoa thần kinh học ở Pháp và là một trong những nhà nghiên cứu y học xuất sắc nhất trong thời đại của ông, được xem như người đầu tiên nghiên cứu mối quan hệ giữa chấn thương và bệnh tâm thần. Chứng cuồng loạn (hysteria) rất phổ biến tại châu Âu vào cuối thế kỷ XIX và được coi là một thách thức đối với giới khoa học đương thời. Những nghiên cứu trước thời Charcot đa phần cho rằng nguyên nhân của chứng cuồng loạn ở phụ nữ là do nguyên nhân sinh lý nên hầu hết những bệnh nhân là phụ nữ khi có triệu chứng này đều bị điều trị bằng phương pháp cắt bỏ tử cung, thì qua quá trình làm việc với phụ nữ tổn thương trong bệnh viên Salpetriere, Charcot đã chỉ ra nguồn gốc của trị chứng cuồng loạn không phải là sinh lý mà có bản chất tâm lý, đồng thời nhấn mạnh vai trò của sự kiện gây sợ hãi (Von Plessen, 1996). Kế thừa tư tưởng của Charlot nghiên cứu về chứng cuồng loạn, năm 1895, Sigmud Freud đã thực hiện nghiên cứu, ông cho rằng nguyên nhân cụ thể của chứng hysteria xuất phát từ việc bị lạm dụng tình dục và chỉ ra rằng những triệu chứng lâm sàng đặc trưng là sự tái hiện trở lại những ý nghĩ, hình ảnh, ý tưởng, sự sợ hãi khi chủ thể đối diện với sự kiện gây nên tổn thương tâm lý. Ông đã phát triển khái niệm 8 chứng cuồng loạn trở thành lý thuyết tình dục, sau đó phát triển thành “lý thuyết quyến rũ” (seduction theory), tuy nhiên lý thuyết này sau đó không được chấp nhận. Năm 1919, Pierre Janet người đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về những ảnh hưởng của những ký ức đau thương với những tổn thương tâm lý mới, ông đã chỉ những triệu chứng lâm sàng: suy nhược thần kinh và tâm thần, run chân tay, căng trương lực cơ, mất cảm giác, liệt hoặc sợ hãi, rối nhiễu hành vi (Sullivan, 1990). Từ nửa sau của thế kỷ XX đến nay, những nghiên cứu về tổn thương tâm lý thường tập trung vào những biểu hiện triệu chứng của phản ứng stress sau sang chấn (Post – traumatic stress disorder). Bên cạnh đó là những sự tranh cãi trái chiều của các nhà khoa học khi cho rằng khái niệm PTSD là quá nghiêm khắc, không xác định thỏa đáng hết các đối tượng tổn thương tâm lý, nhưng quy tụ lại đồng ý rằng một người có tổn thương tâm lý không nhất thiết sẽ phát triển thành PTSD, nhưng một người có triệu chứng PTSD thì luôn chứng tỏ rằng họ đã trải qua sang chấn và có tổn thương tâm lý (Lê Thị Tường Vân, 2016). Các nghiên cứu rối loạn lo âu và trầm cảm trên thế giới Trầm cảm, lo âu là các rối loạn tâm lý gây ảnh hưởng đến cảm xúc, hành vi, suy nghĩ của con người, là vấn đề đang được quan tâm trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng ngày nay. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan trên nhiều đối tượng bệnh nhân khác nhau: Tỉ lệ trầm cảm trên các đối tượng bệnh nhân mạn tính dao động từ 11% đến hơn 50%. Tác giả Kenneth B. Wells (1993) đưa ra tỉ lệ trầm cảm khá cao ở các đối tượng bệnh nhân tăng huyết áp, đái tháo đường và nhồi máu cơ tim với tỉ lệ lần lượt là 57,6%, 53,3% và 56,5% (Wells KB, Rogers W, Burnam MA, & Camp P, 1993). Kết quả nghiên cứu của tác giả Mark Peyrot ở Mỹ trên bệnh nhân đái tháo đường (1997) có tỉ lệ trầm cảm là 41,3% trong khoảng tin cậy 95% từ 37,4% đến 45,2%, trong đó tỉ lệ trầm cảm ở nữ cao hơn nam gấp 2,08 lần trong khoảng tin cậy 95% từ 1,49 đến 2,90. (Peyrot M và Rubin RR, 1997). Trong nghiên cứu của P. de Jonge (2006) ở Tây ban nha thực hiện trên những người từ 55 tuổi trở lên thì tỉ lệ trầm cảm ở những bệnh nhân tăng huyết áp là 15,4% (De Jonge, Roy, Saz, Marcos, & Lobo, 9 2006). Nghiên cứu của tác giả Ali Khan Khuwaja ở Pakistan (2010) thực hiện trên bệnh nhân đái tháo đường cũng cho tỉ lệ tương tự (Khuwaja et al., 2010). Nghiên cứu của tác giả Giorgio Ciprandi (2015) cho thấy tỉ lệ trầm cảm ở bệnh nhân hen là 11% (Ciprandi, Schiavetti, Rindone, & Ricciardolo, 2015). Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng tâm lý là một yếu tố nguy cơ cao cho sự xuất hiện của chứng mất ngủ. Trầm cảm và lo âu là những biểu hiện khá phổ biến của chứng mất ngủ, ngược lại sự than phiền về mất ngủ nhiều hơn gấp đôi ở những người chán nản. Hơn nữa, các nghiên cứu gần đây cho thấy mối liên hệ nhân quả mạnh mẽ của chứng mất ngủ cho cả trầm cảm và lo âu. Tuy nhiên, mối quan hệ nhân quả và hiệu quả chính xác giữa chứng mất ngủ và rối loạn tâm lý vẫn chưa được xác định rõ ràng. Điều này có lẽ do sự khác biệt về phương pháp nghiên cứu, liên quan đến đặc điểm thiết kế và phương pháp chẩn đoán mất ngủ cũng như các mức độ khác nhau của các rối loạn tâm lý đã được xác định và phát hiện (Soldatos, 1994). Nhưng nếu thực hiện trên cộng đồng thì tỉ lệ trầm cảm thấp hơn đáng kể, cụ thể trong nghiên cứu của Kay Wilhelm ở Úc (2003) là 3,2% (Wilhelm, Mitchell, Slade, Brownhill, & Andrews, 2003). Sự khác biệt của các nghiên cứu có thể là do tình trạng trầm cảm của bệnh nhân được đánh giá dựa trên các thang đo khác nhau hay cũng có thể là do đặc tính mẫu, thời gian nghiên cứu và nơi thực hiện của các nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, từ các nghiên cứu ta có thể thấy tỉ lệ trầm cảm ở những bệnh nhân mắc các bệnh mạn tính khá cao, nhất là ở những bệnh nhân mắc các bệnh như tăng huyết áp và đái tháo đường. Kết quả nghiên cứu được lấy mẫu trên cộng đồng với 1.014 thanh niên tuổi từ 13-16 tuổi bằng phương pháp sống còn. Các cuộc phỏng vấn có cấu trúc được tiến hành để đánh giá dựa trên chuẩn DSM-IV. Có mối liên quan giữa chứng mất ngủ với mỗi rối loạn lo âu và trầm cảm (OR = 3.2-6.8) (Johnson E. O et al., 2006). Giấc ngủ bị quấy rầy có ảnh hưởng lớn đến hoạt động hàng ngày và có liên quan với các rối loạn tâm lý. Nghiên cứu đoàn hệ tại Hà Lan trên 2.619 khách thể về trầm cảm và lo âu được chẩn đoán dựa trên DSM-IV. Kết quả cho thấy cả rối loạn trầm cảm và rối loạn lo âu đều liên quan đến chứng mất ngủ và thời gian ngủ ngắn với tỉ lệ chênh lệch (ORs) cho chứng mất ngủ lần lược là 1,42 và 3,23 và thời gian 10 ngủ ngắn lần lược là 1,41 và 2,53. Thời gian ngủ quá dài cũng liên quan đến rối loạn trầm cảm và rối loạn lo âu hiện với khoảng tin cậy từ 1,53 đến 2,66. Nghiên cứu “Tỉ lệ lo âu, trầm cảm và các yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân ưng thư tại Trung Quốc” của nhóm tác giả Jin Sheng Hong, Jun Tian, nghiên cứu phân tích tiến hành năm 2012, sử dụng thang đo HADS. Tổng cộng có 1217 bệnh nhân ung thư thỏa điều kiện sau phẫu thuật 2 tuần và không có tiền sử bệnh tâm thần được đưa vào nghiên cứu từ tháng 12/2010 đến tháng 6/2012 tại Bệnh viện Phúc Kiến, Trung Quốc. Kết quả cho thấy tỉ lệ lo âu và trầm cảm lần lượt là 6,49% và 6,72%, tỉ lệ hiện mắc trầm cảm ở các loại ung thư khác nhau là khác nhau, trầm cảm phổ biến nhất là ở những bệnh nhân ung thư phổi kế đến là ung thư cổ tử cung, tỉ lệ hiện mắc trầm cảm đối với ung thư cổ tử cung là 71,13%. Nghiên cứu cũng chỉ ra một số yếu tố liên quan, bệnh nhân ≥ 60 tuổi có mức độ lo lắng và trầm cảm cao hơn (với p<0,001 và p=0,034), trình độ học vấn thấp có tỉ lệ hiện mắc trầm cảm cao hơn bệnh nhân >6 năm học (p<0,001), giai đoạn bệnh không ảnh hưởng đến lo lắng và trầm cảm (p=0,197), mối liên quan giữa sự hỗ trợ xã hội và trầm cảm, lo âu không có ý nghĩa thống kê (p=0,183 và 0,282), có sự liên quan giữa trạng thái đau và tình trạng hoạt động đến lo lắng và trầm cảm (p<0,001). Vì là nghiên cứu cắt ngang nên tỉ lệ lo lắng và trầm cảm ở bệnh nhân ung thư chỉ mô tả ở một thời điểm cần có một thiết kế nghiên cứu theo chiều dọc để làm rõ hơn đặc điểm tâm lý ở bệnh nhân ung thư, ngoài ra công cụ xác định hỗ trợ xã hội chưa được chuẩn hóa cũng là hạn chế của nghiên cứu (Jin Sheng Hong và Jun Tian, 2012). Nghiên cứu “Các biến đổi tâm lý tích cực liên quan đến trầm cảm và lo âu trong số những bệnh nhân ung thư cổ tử cung tại Trung Quốc” của nhóm tác giả Yi-Long Yang, nghiên cứu cắt ngang tiến hành trên 224 bệnh nhân ung thư cổ tử cung tại Trung Quốc năm 2013. Sử dụng thang đo độ lo âu và trầm cảm bệnh viện (HADS), chỉ số Herth Hope Index (HHI) đo lường niềm hy vọng, quy mô định hướng cuộc sống (LOT-R) được phát triển bởi Scheier và Carver để đánh giá sự lạc quan và thang đo tổng thể tự đánh giá (GSES) để đánh giá sự tự tin. Kết quả cho thấy tỉ lệ trầm cảm (52,2%) và lo âu (65,6%) ở bệnh nhân ung thư cổ tử cung các yếu tố niềm hy vọng, sự lạc quan và sự tự tin có những tác động đáng kể đến lo âu và trầm cảm
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan