Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tương quan giữa mức độ dùng internet và các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sin...

Tài liệu Tương quan giữa mức độ dùng internet và các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh trung học cơ sở

.PDF
119
1760
144

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC NGUYỄN THỊ PHƢƠNG TƢƠNG QUAN GIỮA MỨC ĐỘ SỬ DỤNG INTERNET VÀ CÁC VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC HÀ NỘI – 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC NGUYỄN THỊ PHƢƠNG TƢƠNG QUAN GIỮA MỨC ĐỘ SỬ DỤNG INTERNET VÀ CÁC VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN (CHUYÊN NGÀNH ĐÀO TẠO THÍ ĐIỂM) Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Hoàng Minh HÀ NỘI – 2013 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 6 CHƢƠNG 1 ................................................................................................. 10 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...................................... 10 Các khái niệm .............................................................................................. 10 Internet ......................................................................................................... 10 Sức khỏe tâm thần ........................................................................................ 16 Học sinh trung học cơ sở.............................................................................. 21 Tổng quan vấn đề nghiên cứu ....................................................................... 25 Ảnh hưởng của mức độ sử dụng Internet đến cuộc sống của thanh thiếu niên .... 25 Ảnh hưởng của Internet đến sức khỏe........................................................... 30 Các nhân tố tâm lý tác động đến mức độ sử dụng Internet ........................... 34 Kết luận chương 1 ........................................................................................ 37 CHƢƠNG 2 ................................................................................................. 38 TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................ 38 Xác định biến nghiên cứu ............................................................................. 38 Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 39 2.2.1. Nghiên cứu lý luận.............................................................................. 39 2.2.2. Nghiên cứu bằng bảng hỏi chuẩn hóa................................................. 39 2.2.2.1. Nghiên cứu bằng trắc nghiệm IAT ................................................... 39 2.2.3. Phương pháp thống kê ........................................................................ 40 Xác định mẫu nghiên cứu ............................................................................. 42 Xác định mẫu nghiên cứu ............................................................................. 42 2.3.2. Lấy số liệu nghiên cứu ........................................................................ 42 3 2.3.3. Mẫu nghiên cứu thu thập được trên thực tế: ....................................... 43 Tiến trình nghiên cứu ................................................................................... 45 CHƢƠNG 3 ................................................................................................. 45 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................................... 45 3.1. Thực trạng mức độ sử dụng Internet của học sinh THCS ....................... 45 3.1.1. Điểm trung bình thang đo IAT ........................................................... 45 3.1.2. Mức độ sử dụng Internet của học sinh THCS theo thang đo IAT ........ 46 3.1.3. Các nhân tố trong mức độ sử dụng Internet của học sinh THCS......... 47 3.1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến mức độ sử dụng Internet của học sinh THCS ........................................................................................................... 51 3.2. Thực trạng các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh THCS ............... 53 3.2.1. Điểm số trung bình của thang đo YSR ................................................ 53 3.2.2. Tỷ lệ học sinh THCS có vấn đề về sức khỏe tâm thần theo thang đo YRS .............................................................................................................. 56 3.2.3. Điểm trung bình tám hội chứng theo Achenbach ............................... 56 3.2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến điểm trung bình thang đo YSR của học sinh THCS ............................................................................................................ 59 3.3. Tƣơng quan giữa mức độ sử dụng Internet và các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh THCS ............................................................................... 61 3.3.1. Tương quan giữa mức độ sử dụng Internet và kết quả thang đo YSR của học sinh THCS ............................................................................................. 61 3.3.2. Tương quan giữa các nhân tố của mức độ sử dụng Internet và điểm thang đo YSR ................................................................................................ 62 3.3.3. Tương quan giữa mức độ sử dụng Internet và 8 hội chứng sức khỏe tâm thần của học sinh THCS ............................................................................... 64 3.3.4. Ảnh hưởng của một số yếu tố đến mối tương quan giữa mức độ sử dụng Internet và tổng điểm thang đo YSR ............................................................. 70 4 Kết luận chƣơng 3 ........................................................................................ 71 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 77 PHỤ LỤC .................................................................................................... 81 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sự ra đời của mạng Internet là mốc đánh dấu cho bƣớc ngoặt phát triển của khoa học và công nghệ. Từ khi đƣợc đƣa vào sử dụng rộng rãi trên thế giới cho đến nay, mạng Internet với rất nhiều tác dụng hữu ích đã và đang khẳng định vai trò không thể thiếu đối với nhiều hoạt động của con ngƣời, nhất là trong công việc và giải trí. Cùng với sự ra đời và phổ biến đó, nhu cầu của con ngƣời trong việc sử dụng những ứng dụng của mạng Internet cũng không ngừng tăng lên: nhu cầu phục vụ công việc, nhu cầu học tập, đặc biệt nhu cầu giải trí nhƣ: xem phim, nghe nhạc, chơi game vv Với những ứng dụng mang tính cách mạng, Internet ngày càng trở thành phƣơng tiện hữu ích cho đời sống con ngƣời và số lƣợng ngƣời sử dụng Internet ngày càng tăng nhanh từ khi nó mới bắt đầu xuất hiện đến nay [2, tr.1]. Trên thực tế, bên cạnh những hữu dụng không thể thay thế của Internet, ngày càng nhiều ngƣời ở nhiều nƣớc trên thế giới than phiền rằng Internet khiến họ sa sút việc học, mất việc, ảnh hƣởng đến sức khỏe, các mối quan hệ xã hội... Hiện tƣợng này có nguy cơ gia tăng nhanh bởi các dịch vụ Internet đang ngày càng thâm nhập sâu hơn vào đời sống tâm thần của con ngƣời, đặc biệt là thế hệ trẻ. Nghiên cứu của Greenfield (Trung tâm dành cho ngƣời nghiện Internet và công nghệ) vào năm 1999 trên 18.000 ngƣời lạm dụng Internet quá mức. Ông cũng cho rằng có nhiều dịch vụ trên Internet tạo ra sự chia ly, sự sai lệch về thời gian, ảnh hƣởng đến cuộc sống. Ông cũng khẳng định tình dục, trò chơi, đánh bạc và mua sắm trực tuyến có thể tác động làm thay đổi tâm trạng ngƣời sử dụng [29, tr. 4-9]. Châu Á đƣợc coi là khu vực mới nổi với sự công nghệ hóa diễn ra chóng mặt, số lƣợng ngƣời sử dụng Internet cũng không ngừng tăng lên nhanh chóng. Trong nhiều công trình nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mức độ sử dụng Internet ở tần suất cao không ngừng tăng lên. Tại Trung Quốc, các nghiên cứu cho thấy khoảng 8,4% ngƣời sử dụng Internet ở mức độ nghiện, nghiên cứu tƣơng tự tại Đài Loan là 17,55%, tại Hàn Quốc là 11,50% vv. [32, tr.26-28]. Các nghiên cứu chủ yếu trên cộng đồng thanh thiếu niên. Kể từ khi chính sách “đổi mới” ra đời vào năm 1986, Việt Nam đã có những biến đổi nhanh chóng do sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và cơ sở hạ tầng. Việc 6 chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng mở cửa hơn đã tạo ra một lối sống tiêu dùng, phong cách sống, sinh hoạt, quan hệ xã hội trong thanh thiếu niên. Một yếu tố quyết định trong sự chuyển đổi này là việc tăng tiếp cận với các phƣơng tiện truyền thông điện tử, chẳng hạn nhƣ Internet. [34, tr. 5-7]. Thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam hiện nay là thế hệ đầu tiên đƣợc tiếp cận với Internet một cách rộng rãi. Điều tra quốc gia về thanh thiếu niên mới đây (Bộ y tế, Tổ chức y tế thế giới và Quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc, 2005) cho thấy 50% thanh thiếu niên ở thành thị và 13% thanh thiếu niên ở nông thôn đã sử dụng Internet. Phần lớn thanh thiếu niên trong nghiên cứu này (69%) cho biết họ sử dụng Internet để trò chuyện và (62%) cho biết họ sử dụng Internet để chơi trò chơi trực tuyến. Một nghiên cứu (2004) đã xác định Internet là một không gian mới ở Việt Nam, nơi mà thanh thiếu niên có thể trao đổi khá thoải mái [34, tr.10-15]. Nhƣ vậy, không thể phủ nhận những hữu dụng mà Internet mang lại đối với hoạt động làm việc, học tập vv. Nhƣng khi ngƣời sử dụng internet cuốn hút đến mức ảnh hƣởng đến cuộc sống, công việc, học hành vv. thì thực sự là vấn đề đáng báo động cần đƣợc quan tâm, xem xét đề xuất hƣớng giải quyết. Với học sinh THCS các em đang trong giai đoạn phát triển, những nét nhân cách của các em chƣa định hình rõ nét, dễ thay đổi. Ở giai đoạn tuổi này nhu cầu khám phá, tự khẳng định bản thân của các em rất lớn nhƣng khả năng tự kiềm chế, khả năng làm chủ những hành động của mình lại chƣa cao. Hơn nữa, các em cũng chƣa có khả năng phân biệt đƣợc đúng sai, ƣu điểm, nhƣợc điểm của tất cả các hoạt động mà mình đang tiến hành. Vì vậy, khi tiếp xúc với những hoạt động mới lạ, hấp dẫn của Internet, các em rất dễ tiếp nhận, bị cuốn hút, sẵn sàng dành nhiều thời gian cho những hoạt động này và điều đó có thể ảnh hƣởng đến các vấn đề về sức khỏe tâm thần của các em. Nếu nhƣ vấn đề này sớm đƣợc nghiên cứu, phát hiện sẽ góp phần trong việc đƣa ra những giải pháp nhằm phòng ngừa giúp các em tránh rơi vào tình trạng sử dụng Internet quá mức. Đồng thời, trên cơ sở đó kiến nghị những biện pháp giải quyết tình trạng sử dụng internet nếu nhƣ các em sử dụng quá nhiều. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về mức độ sử dụng Internet và những tác động của Internet tới đời sống của con ngƣời đã bắt đầu đƣợc nhiều nhà nghiên cứu ở những lĩnh vực khác nhau quan tâm. Năm 2009, Hội khoa học Tâm lý - Giáo dục Đồng 7 Nai tổ chức hội thảo khoa học “Nghiện Internet – Game online: Thực trạng và giải pháp” với 10 báo cáo khoa học tham dự. Tuy nhiên, các báo cáo tại hội thảo mới chỉ dừng ở mức độ đề cập đến các vấn đề lý luận, chƣa đi sâu vào nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề liên quan đến việc sử dụng Internet. Báo cáo tham luận của Trung tâm tham vấn tâm lý (thuộc Bệnh viện tâm thần trung ƣơng 2) cho thấy hàng năm có khoảng 5 – 7% trên tổng số ngƣời đến khám và điều trị rơi vào trạng thái sử dụng Internet quá mức ở mức độ nghiện, đa số là thanh thiếu niên. Tuy nhiên, cho đến nay ở Việt Nam vẫn chƣa có các nghiên cứu sâu sắc và hệ thống về tác động của Internet đến đời sống tâm thần của ngƣời sử dụng. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi thấy rằng việc nghiên cứu đề tài “Mối tương quan giữa mức độ sử dụng internet và các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh THCS ở địa bàn thành phố Hà Nội” là cần thiết. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu mối tƣơng quan giữa mức độ sử dụng internet và các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh THCS ở thành phố Hà Nội. Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu tác động của mức độ sử dụng internet đến các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. - Tìm hiểu thực trạng mức độ sử dụng internet của học sinh THCS. - Tìm hiểu về thực trạng sức khỏe tâm thần của học sinh THCS. - So sánh mối tƣơng quan giữa mức độ sử dụng internet và các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh THCS. - Tìm hiểu về các yếu tố tác động đến mối tƣơng quan giữa mức độ sử dụng Internet và các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh THCS. - Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu tác động của internet đến các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh THCS 3. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Tƣơng quan giữa mức độ sử dụng internet và các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh THCS. 8 3.2. Khách thể nghiên cứu Trong đề tài này, chúng tôi nghiên cứu trên 4 trƣờng ở thành phố Hà Nội với tổng số 288 học sinh: khối 6: 72 học sinh, khối 7: 72 học sinh, khối 8: 72 học sinh, khối 9: 72 học sinh. 4. Giả thuyết khoa học Có sự tƣơng quan giữa mức độ sử dụng Internet và các vấn đề sức khỏe tâm thần ở học sinh THCS: - Học sinh THCS có sử dụng Internet ở mức độ khác nhau. - Mức độ sử dụng Internet của học sinh THCS càng cao thì mức độ có các vấn đề về sức khỏe tâm thần càng cao. 5. Phƣơng pháp và công cụ nghiên cứu 5.1. Phƣơng pháp nghiên cứu 5.1.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận 5.1.2. Phương pháp nghiên cứu bằng bảng hỏi chuẩn hóa - Trắc nghiệm đánh giá mức độ sử dụng internet của Kimberly Young. - Bảng tự báo cáo hành vi của Anchebach. 5.1.3. Phương pháp xử lý bằng thống kê toán học 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn đƣợc trình bày trong 4 chƣơng: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu. Chƣơng 2: Tổ chức và phƣơng pháp nghiên cứu Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu 9 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Các khái niệm Internet 1.1.1.1. Khái niệm Internet Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể đƣợc truy nhập công cộng gồm các mạng máy tính đƣợc liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng đã đƣợc chuẩn hóa (giao thức IP). Hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trƣờng đại học, của ngƣời dùng cá nhân, và các chính phủ trên toàn cầu. Internet là mạng thông tin diện rộng bao trùm toàn cầu, hình thành trên cơ sở kết nối các máy tính điện tử, cho phép liên kết con ngƣời lại bằng thông tin và kết nối nguồn tri thức đã tích luỹ đƣợc của toàn nhân loại trong một mạng lƣu thông thống nhất. Quy mô, phạm vi ảnh hƣởng của thông tin trên mạng Internet rộng lớn hơn nhiều so với các phƣơng tiện thông tin thông thƣờng khác. Với Internet, mọi ngƣời có khả năng và điều kiện rất thuận lợi trong việc tiếp cận trực tiếp với các nguồn thông tin. Internet là môi trƣờng truyền thông mới với ý nghĩa là sự kết nối của các máy tính đầu cuối, bao gồm cả máy tính cá nhân, hộ gia đình, của các cơ quan, tổ chức vv. Tạo điều kiện cho tất cả các loại hình truyền thông khác hoạt động đƣợc. Sau đây là định nghĩa về Internet đƣơc nhiều nhà khoa học và cá nhân sử dụng phổ biến hiện nay: Internet là hệ thống thông tin toàn cầu mà: - Đƣợc nối với nhau hợp lý bằng một không gian địa chỉ độc đáo dựa trên giao thức mạng (IP). - Có thể tạo điều kiện cho các máy tính giao tiếp với nhau thông qua bộ giao thức (TCP/IP). - Công khai hoặc bí mật cung cấp, cho phép sử dụng, cho phép truy cập các dịch vụ cao cấp đƣợc xếp trên các mục giao tiếp và cơ sở liên quan. 10 - Không thể có đƣợc sơ đồ cụ thể của mạng Internet vì các máy tính và các máy tính liên tục đăng ký thêm vào mạng Internet cũng nhƣ các thông tin trên mạng liên tục thay đổi, cập nhật. - Internet mang đến cho bạn hạ tầng kỹ thuật để giao dịch trên mạng (online). Internet là cấu trúc kỹ thuật giúp cho mọi ngƣời trên thế giới thu lợi khi thâm nhập vào liên mạng toàn cầu. Những ứng dụng cơ bản của Internet Từ khi Internet xuất hiên với tƣ cách là một phƣơng tiện truyền thông, nó đã tạo ra một cuộc cách mạng thực sự, hệ thống truyền thông đã và đang làm thay đổi toàn diện và sâu sắc cách thức mà con ngƣời thực hiện giao tiếp, giải trí, làm việc, học tập, nghiên cứu khoa học hay xử lý thông tin vv. có thể nói khó tiện ích nào của phƣơng tiện truyền thông có thể thay thế cho tiện ích của Internet. Các ứng dụng của Internet: - Thƣ điện tử (E-mail). - Truyền tệp (file transfer). - Chat (đàm thoại). - Dịch vụ nhóm tin (Use Net Newsgroup). - Web (World Wide Web). Ngƣời dùng trên khắp thế giới có thể truy cập mạng Internet. Với giao thức liên lạc chuẩn, nó cho phép truy cập đối với bất kỳ loại máy tính nào, hệ điều hành gì, kích cỡ máy ra sao, ngƣời dùng mạng này có thể trao đổi thƣ điện tử với một ngƣời khác ở bất cứ đâu trên thế giới và thƣ sẽ đƣợc chuyển đi ngay lập tức. Nó trợ giúp truyền thông thời gian trực tuyến cho phép mọi thành viên truy cập có thể thực hiện hoạt động giao tiếp, kinh doanh hay học tập, quản lý vv. một cách trực tiếp và tức thời. Rõ ràng các hoạt động trên Internet rất phong phú và đa dạng, nó đã tạo nên những bƣớc nhảy vọt chƣa từng có trên thế giới, tác động đến mọi lĩnh vực đời sống - kinh tế - xã hội. Sự phát triển nhanh chóng của Internet đã khiến cho nó còn có thêm một khái niệm là “siêu lộ thông tin”, ngoài ra nó còn là nguồn tài nguyên vô giá cho các nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục, các quan chức chính phủ và các thủ thƣ vv. 11 Internet đã trở thành một công cụ thiết yếu cho mọi cá thể đang sử dụng thƣ điện tử, đang nghiên cứu mà mọi việc liên quan đến hoạt động thông tin. Internet thâm nhập sâu vào tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, nó cho phép truy cập và khai thác các cơ sở dữ liệu thuộc nhiều lĩnh vực xã hội, các ngành nghề khác nhau nhƣ: các thông tin về khoa học kỹ thuật, giáo dục và đào tạo, kết quả nghiên cứu khoa học, thông tin thƣơng mại, thị trƣờng giá cả, dự báo thời tiết vv. tùy theo ngành nghề khác nhau sẽ tìm thấy những lợi ích khác nhau từ việc sử dụng Internet. 1.1.1.2. Mức độ sử dụng Internet Từ năm 1991, tác giả Shotton đã nghiên cứu về nghiện vi tính và năm 1996, tác giả Griffuths đã nghiên cứu về nghiện ứng dụng kỹ thuật. Tuy nhiên, Young (1996) là ngƣời tiến hành nghiên cứu đầu tiên về các mức độ sử dụng Internet và đƣa ra khái niệm nghiện internet (Internet addiction). Báo cáo của bà dựa trên 600 trƣờng hợp sử dụng Internet quá mức và biểu lộ dấu hiệu của nghiện Internet đƣợc đánh giá theo bảng hỏi dựa trên bảng phỏng theo đánh bạc quá mức có trong Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn sức khoẻ tâm thần, do hiệp hội tâm thần Hoa Kỳ biên soạn (DSM-IV), nghiên cứu đƣợc trình bày tại Hội nghị thƣờng niên của Hội Tâm lý học Hoa Kỳ [29, tr. 4-15]. Sau khi khái niệm nghiện internet đƣợc đƣa ra, đã dẫn tới những tranh cãi giữa các nhà khoa học và các nhà lâm sàng. Vấn đề tranh cãi đầu tiên là thuật ngữ “nghiện”. Một số quan niệm cho rằng chỉ có những chất đƣợc đƣa vào cơ thể mới gọi là nghiện, và chỉ nên dùng cho những trƣờng hợp sử dụng thuốc phiện hoặc các chất gây nghiện tổng hợp khác. Một số quan niệm đã mở rộng hơn, cho rằng thuật ngữ nghiện có thể bao gồm một số hành vi không liên quan đến chất gây nghiện nhƣ đánh bạc quá mức, ăn quá nhiều, trong thể dục, trong quan hệ tình dục, xem vô tuyến và chơi game quá mức. Vấn đề tranh cãi khác liên quan đến quan niệm nghiện sử dụng internet là: Internet không giống sự phụ thuộc vào ma tuý, nó có lợi ích rõ ràng nhƣ sự tiến bộ về ứng dụng kỹ thuật trong thời đại chúng ta và sự ứng dụng kỹ thuật không thể bị chỉ trích nhƣ “nghiện”. Mặt khác ngƣời ta cũng thừa nhận lợi ích tâm lý cũng nhƣ chức năng của việc sử dụng internet trong cuộc sống hàng ngày. Internet cho phép 12 ngƣời sử dụng những lĩnh vực ứng dụng thực tế, chẳng hạn nhƣ khả năng thực hiện nghiên cứu, giao dịch kinh doanh, truy nhập thƣ viện quốc tế hoặc thực hiện những chƣơng trình cho kỳ nghỉ. Young (1999) đƣa ra đánh giá và xác định các mức độ sử dụng Internet. Bà cho rằng để xác định các mức độ sử dụng Internet bao gồm 20 tiêu chí trong đó tập trung vào: mối bận tâm liên tục về Internet; không thành công trong việc cố gắng kiểm soát sử dụng Internet; Sự thèm muốn dai dẳng; sức chịu đựng; chống đỡ với thời gian trực tuyến hơn dự định; sử dụng Internet nhƣ là cách thoát khỏi các vấn đề khó khăn; nói dối để che đậy tình trạng rắc rối với Internet; mối nguy hiểm vì mất các mối quan hệ có ý nghĩa, công việc, giáo dục hay cơ hội chăm sóc vv. Mỗi tiêu chí này đƣợc đánh giá ở 5 mức độ khác nhau: 5: Luôn luôn; 4: Rất thƣờng xuyên; 3: Thƣờng xuyên; 2: Thỉnh thoảng; 1: Hiếm khi; 0 = Không bao giờ. Tổng hợp điểm của 20 tiêu chí đánh giá Young bà đã phân loại các mức độ sử dụng khác nhau: - 0 – 19 điểm: sử dụng Internet ở mức độ dƣới trung bình. Ở mức độ này ngƣời sử dụng kiểm soát tốt hoạt động sử dụng Internet của mình. - 20 – 39 điểm: sử dụng Internet ở mức độ trung bình. Ở mức độ này ngƣời sử dụng có thể trực tuyến hơi dài nhƣng vẫn có thể kiểm soát đƣợc hoạt động sử dụng của mình. - 40 – 69 điểm: sử dụng Internet ở mức độ thƣờng xuyên.Ở mức độ này ngƣời sử dụng thƣờng xuyên gặp phải những vấn đề do Internet mang lại, cần phải xem xét về những tác động đó đến cuộc sống. - 70 – 100 điểm: sử dụng Internet ở mức độ rất thƣờng xuyên. Ở mức độ này ngƣời sử dụng đang chịu những tác động nghiêm trọng do Internet, cần phải đƣợc đánh giá và đƣa ra các giải pháp phù hợp để giải quyết những vấn đề do Internet gây ra. Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi đồng ý với các mức độ sử dụng Internet của Young và sử dụng làm căn cứ phân loại các mức độ sử dụng Internet của đối tƣợng nghiên cứu trong đề tài là học sinh THCS. 1.1.1.3. Tiêu chí đánh giá mức độ sử dụng Internet 13 Tác giả Young (1996), đƣa ra danh sách câu hỏi gồm 8 mục, sửa chữa theo tiêu chuẩn chẩn đoán “đánh bạc quá mức” làm phƣơng tiện sàng lọc cho mức độ sử dụng internet: (1) Bạn có cảm thấy bận tâm với internet không? (thí dụ nhƣ suy nghĩ về hoạt động online phiên trƣớc hoặc mong đợi phiên online sắp đến) (2) Bạn có cảm thấy cần phải tăng thời gian sử dụng internet để đạt đƣợc sự thoả mãn không? (3) Bạn đã có những nỗ lực lặp đi lặp lại nhƣng không thành công trong việc kiểm soát, giảm bớt sử dụng hoặc ngƣng sử dụng internet không? (4) Bạn có cảm thấy bồn chồn , ủ rũ, trầm cảm hoặc dễ bị kích thích khi cố gắng giảm sử dụng hoặc ngƣng sử dụng internet không? (5) Bạn có lên mạng với thời gian lâu hơn dự định ban đầu không? (6) Bạn có huỷ hoại hoặc có nguy cơ mất mối quan hệ quan trọng , mất việc , mất cơ hội đề bạt hoặc học tập vì internet không? (7) Bạn có nói dối những ngƣời trong gia đình , nhà trị liệu hoặc những ngƣời khác để che dấu mức độ bị cuốn hút vào internet của bạn không? (8) Có phải bản sử dụng internet nhƣ một cách thức để thoát khỏi những vấn đề của bạn hoặc giải phóng trạng thái rối loạn cảm xúc không? ( thí dụ những cảm nhận về thất vọng , tội lỗi, lo âu, trầm cảm) Những ngƣời đƣợc xem là sử dụng ở mức độ cao khi trả lời có cho 5 (hoặc nhiều hơn) trong 8 câu hỏi trên. Tuy nhiên, những ngƣời này phải không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán cho trạng thái hƣng cảm. Theo hai tác giả Beard & Wolf (2001) thì các tiêu chuẩn của Young còn một số hạn chế trong việc xác định mức độ sử dụng, đặc biệt là mức độ lạm dụng. Chính vì thế hai tác giả cho rằng tiêu chuẩn cho việc nhận diện mức độ lạm dụng Internet đƣợc xác định nhƣ sau: Tất cả các trƣờng hợp phải hội tụ đủ (1-5) tiêu chuẩn có mặt [20]: - Mối bận tâm về sử dụng Internet (Suy nghĩ về hành động trực tuyến trƣớc hay đề cập trƣớc hoạt động kế tiếp). - Những mong muốn sử dụng Internet cùng với sự gia tăng trong sự nỗ lực đạt đƣợc sự thèm muốn. 14 - Có sự cố gắng không thành công trong việc kiểm soát, cắt sử dụng Internet nhiều lần, hay dừng sử dụng Internet. - Bồn chồn, buồn rầu, chán nản, cáu kỉnh khi cố gắng cắt hay dừng sử dụng Internet. - Sử dụng Internet nhiều hơn dự kiến. Và có ít nhất một trong các tiêu chuẩn sau: - Gây hủy hoại hay chịu rủi ro mất các quan hệ có ý nghĩa, công việc, giáo dục hay cơ hội nghề nghiệp bởi Internet. - Nói dối các thành viên trong gia đình, nhà trị liệu hay ngƣời khác để che dấu phạm vi sử dụng Internet của mình. - Sử dụng Internet nhƣ là để thoát khỏi những vấn đề hay giảm đi những khó khăn cảm xúc (ví dụ nhƣ cảm giác của tình trạng không thể tự lo liệu, tội lỗi, lo âu, trầm cảm). Theo Griffihs (2008), một trƣờng hợp sử dụng quá mức Internet thì đáp ứng các tiêu chuẩn sau: - Sự thèm muốn trong việc chơi game online mà không cƣỡng lại đƣợc; - Có những triệu chứng của các rối loạn về khí sắc; - Tính dung nạp các trò chơi cao độ đến nỗi quên tất cả mọi sự việc đang xảy ra; - Kèm theo các triệu chứng nhƣ hung tinh, hay xung đột, nóng nảy,.. Nhiều nhà nghiên cứu khác thì đƣa ra tiêu chuẩn [1] : - Ngồi trƣớc máy vi tính lâu hơn dự định, hoặc không có cảm giác về thời gian khi sử dụng máy tính; - Cố gắng tách ra khỏi cảm giác trò chơi nhƣng không thể thực hiện; - Luôn nghĩ về các sự kiện trò chơi khi không sử dụng máy tính, hoặc lúc nào cũng tìm cơ hội đƣợc sử dụng máy tính; - Nói dối về thời gian sử dụng máy tính; - Tìm đến máy tính nhƣ một sự giải thoát mỗi khi gặp tình huống stress; - Quên mất các sự kiện quan trọng, hoặc không thực hiện đƣợc đầy đủ các công việc không liên quan tới máy tính do dành quá nhiều thời gian dùng máy. Việc này có thể dẫn tới hiệu xuất làm việc giảm hoặc thờ ơ với các hoạt động xã hội; 15 - Tiếp tục sử dụng máy tính trong thời gian dài bất chấp những hậu quả tiêu cực nhƣ trục trặc trong hôn nhân, công việc hay học hành. Năm 1998, Young đã đƣa ra 20 câu trắc nghiệm đánh giá mức độ sử dụng Internet. Giống nhƣ bộ câu hỏi chẩn đoán đầu tiên, các câu hỏi này đƣợc lấy từ cuốn DSM-IV dựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh nghiện đánh bạc và nghiện rƣợu. Mỗi câu hỏi đƣợc đánh giá trên một thang điểm gồm các mức độ từ 0 đến 5. Và đây cũng là công cụ nghiên cứu đƣợc sử dụng trong đề tài này. Sức khỏe tâm thần 1.1.1.4. Khái niệm sức khỏe tâm thần Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), Sức khỏe tâm thần nói đến một loạt các yếu tố có thể trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến sự lành mạnh về tâm trí, một yếu tố quan trọng trong định nghĩa của WHO về sức khỏe: “là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tâm thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng không có bệnh hay thương tật” [40]. Theo từ điển tâm lý học, sức khỏe tâm thần “là một trạng thái thoải mái, dễ chịu về tâm thần, không có các biểu hiện rối loạn về tâm thần, một trạng thái đảm bảo cho sự điểu khiển hành vi, hoạt động phù hợp với môi trường” [4, tr. 719]. Nhƣ vậy cách định nghĩa này cũng thống nhất với cách định nghĩa của WHO. Ở Việt Nam, khái niệm sức khỏe tâm thần và sức khỏe tâm thần thƣờng đƣợc dùng lẫn lộn với nhau nhƣng với ý nghĩa nhƣ nhau và cùng có từ tƣơng đƣơng trong tiếng Anh là “mental health”. Trong Tiếng Việt, từ tâm thần mang rất nhiều định kiến vì nó gắn liền với những bệnh tâm thần nhƣ tâm thần phân liệt, động kinh (điên, cuồng, lên cơn giật...) nên những nhà tâm lý thƣờng sử dụng từ sức khỏe tâm thần nhằm làm giảm nhẹ những định kiến xã hội với sức khỏe tâm thần. Tuy nhiên để thống nhất với chung với các nghiên cứu trong y học, chúng tôi xin sử dụng thuật ngữ tâm thần trong luận văn này. 1.1.1.5. Khái niệm các vấn đề sức khỏe tâm thần Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho rằng các vấn đề sức khỏe tâm thần bao gồm rất nhiều các vấn đề khác nhau từ nhẹ đến nặng với nhiều triệu chứng khác nhau. Tuy nhiên, một cách khái quát, những triệu chứng này là sự kết hợp của những suy nghĩ, cảm xúc, hành vi lệch lạc và mối quan hệ với ngƣời khác lệch lạc, 16 các vấn đề tâm thần có thể là: trầm cảm, lo âu, stress vv. đến chậm phát triển và những rối loạn liên quan đến việc lạm dụng chất gây nghiện. Những biểu hiện này ảnh hƣởng đến chức năng cuộc sống hiện tại của cá nhân đó [40]. Vấn đề sức khỏe tâm thần rất phổ biến với con ngƣời nói chung. Cũng theo WHO, cứ ba ngƣời thì có một ngƣời có vấn đề về sức khỏe tâm thần, và trong đời ngƣời ai cũng có một lần trải qua các vấn đề về sức khỏe tâm thần [40]. Khi đề cập đến khái niệm các vấn đề sức khỏe tâm thần, có một số thuật ngữ hay đƣợc sử dụng kèm là rối loạn tâm thần, bệnh tâm thần. Rối loạn tâm thần là thuật ngữ dùng để chỉ những suy nghĩ, cảm xúc, hành vi lệch lạc ở mỗi cá nhân và những biểu hiện này ảnh hưởng đến chức năng cuộc sống hiện tại của cá nhân đó. Một ngƣời trong suốt cuộc đời của mình có thể có vấn đề về sức khỏe tâm thần nhƣng không bị rối loạn tâm thần nếu nhƣ vấn đề đó không ảnh hƣởng đến chức năng cuộc sống (gia đình, công việc, xã hội, v.v) của họ. Ví dụ một ngƣời sợ độ cao, ngƣời đó có vấn đề về sức khỏe tâm thần nhƣng sẽ không đƣợc coi là mắc rối loạn tâm thần nếu chứng sợ độ cao của họ không cản trở họ sống bình thƣờng. Trong trƣờng hợp nếu ngƣời đó khi làm việc, sinh sống hoặc đến những nơi có đọ cao, chứng sợ độ cao đó cản trở họ thực hiện công việc, ảnh hƣởng đến cuộc sống. Trƣờng hợp này sẽ đƣợc xác định là có rối loạn tâm thần. Các vấn đề sức khỏe tâm thần là một tình trạng sức khỏe do bị rối loạn các chức năng nhận thức, cảm xúc, xã hội. Những vấn đề này có thể tƣơng quan với nhiều yếu tố hoặc do nhiều yếu tố gây ra. Trong nghiên cứu này chúng tôi quan tâm đến mối tƣơng quan giữa mức độ sử dụng Internet và các vấn đề sức khỏe tâm thần. 1.1.1.6. Phân loại những vấn đề sức khỏe tâm thần Hiện nay trên thế giới có hai bảng phân loại về sức khỏe tâm thần đƣợc sử dụng rộng rãi. Đó là Cẩm nang chuẩn đoán và thống kê các bệnh tâm thần lần thứ tƣ của Hiệp hội tâm thần Mỹ lần thứ 4 (DSM IV) và Bảng phân loại bệnh tật quốc tế lần thứ 10 (ICD 10). Sự ra đời của hai loại bảng phân loại này đƣợc đánh giá là mang lại nhiều lợi ích với những tiêu chuẩn chẩn đoán rõ ràng và hợp lý của chúng, đƣợc đánh giá nền tảng cho sự tiến bộ lớn về phƣơng pháp cho các nghiên cứu dịch tễ học [1], [18, tr. 222]. 17 Cẩm nang chuẩn đoán và thống kê các bệnh tâm thần lần thứ tư [34] là bảng phân loại bệnh do Hiệp hội tâm thần Mỹ xuất bản, nhằm mục đích cung cấp những thuật ngữ và tiêu chí thống nhất trong việc phân loại các bệnh tâm thần. Phiên bản đầu tiên của bảng phân loại bệnh này là vào năm 1952. Bảng phân loại bệnh này đƣợc sử dụng rộng rãi tại Mỹ và một số nơi trên thế giới. Bảng phân loại bệnh này là một hệ thống đa trục, và trạng thái tâm thần của mỗi cá nhân có thể đƣợc đánh giá theo 5 trục khác nhau: - Trục I: có hoặc không có hầu hết các hội chứng lâm sàng, bao gồm chủ yếu các rối loạn tâm thần và rối loạn học tập. Các rối loạn thƣờng gặp bao gồm rối loạn cảm xúc, trầm cảm, rối loạn lo âu, rối loạn lƣỡng cực, tăng động giảm chú ý, chứng tự kỷ, chứng ám sợ, tâm thần phân liệt, rối loạn tình dục, rối loạn ăn… - Trục II: có hoặc không có trạng thái bệnh lí kéo dài, bao gồm các rối loạn nhân cách và rối loạn phát triển tâm trí (mặc dù các rối loạn phát triển, nhƣ Tự kỷ, đã đƣợc mã hoá trên trục II trong phiên bản trƣớc đó, các rối loạn này đang có trên trục I). Các rối loạn thƣờng gặp bao gồm các rối loạn nhân cách nhƣ nhân cách bị hại, nhân cách phân liệt, nhân cách kiểu phân liệt, rối loạn nhân cách chống đối xã hội, rối loạn nhân cách ái kỷ, rối loạn nhân cách không thành thâ,̣t rối loạn nhân cách lảng tránh, rối loạn nhân cách phụ thuộc, ám ảnh-cƣỡng bức, chậm phát triển tâm trí. - Trục III: thông tin về trạng thái sức khỏe cơ thể của cá nhân. Các rối loạn thƣờng gặp bao gồm các tổn thƣơng não và các rối loạn sức khỏe thể chất vv. - Trục IV: Các vấn đề tâm lý và các yếu tố môi trƣờng - Trục V: Đánh giá tổng quát về hoạt động chức năng (từ 1 điểm cho kích động liên tục, hành vi tự sát hoặc bất lực cho đến 100 điểm đối với duy trì nhân cách hài hoà, không có các triệu chứng). Bảng phân loại bệnh tật quốc tế lần thứ 10 (ICD 10) [40] đƣợc WHO xuất bản và đƣợc đƣa vào sử dụng từ năm 1994. Phiên bản đầu tiên của ICD đƣợc công bố vào năm 1900. ICD 10 là hệ thống phân loại bệnh theo tiêu chuẩn quốc tế cho tất cả các lĩnh vực liên quan đến y tế nói chung, mục đích quản lý sức khỏe và sử dụng trong lâm sàng. Phần các vấn đề về sức khỏe tâm thần thuộc chƣơng 5 của Bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10. Nó gồm các mảng sau đây: 18 - Rối loạn tâm thần thực thể bao gồm rối loạn tâm thần triệu chứng - Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất tác động tâm thần - Tâm thần phân liệt, rối loạn dạng phân liệt và rối loạn hoang tƣởng - Rối loạn cảm xúc - Loạn thần kinh, rối loạn liên quan đến stress và rối loạn dạng cơ thể - Hội chứng hành vi kết hợp với rối loạn sinh lý và yếu tố thể chất - Rối loạn nhân cách và hành vi ở ngƣời trƣởng thành - Chậm phát triển tâm thần - Rối loạn phát triển tâm lý - Rối loạn về hành vi và cảm xúc với sự khởi bệnh thƣờng xảy ra ở lứa tuổi trẻ em và thiếu niên - Rối loạn tâm thần không xác định Trong nghiên cứu của chúng tôi, một số vấn đề sức khỏe tâm thần phổ biến đƣợc tìm hiểu bao gồm (tổng hợp dựa trên DSM IV) [41]: Lo âu: là một dạng rối loạn cảm xúc, đặc trƣng bởi sự sự lo sợ quá mức trƣớc một tình huống xảy ra, có tính chất vô lý, lặp lại và kéo dài gây ảnh hƣởng tới sự thích nghi với cuộc sống, mặc dù tình huống đó không thực sự nguy hiểm vẫn gây ra những lo âu. Trầm cảm/thu mình: là một rối loạn tâm thần thƣờng gặp bao gồm nhiều triệu chứng, nhƣng hay gặp nhất là sự buồn bã sâu sắc và ngƣời bệnh không còn quan tâm hay thích thú đối với tất cả những gì xảy ra chung quanh hoặc đối với bản thân mình. Ngƣời bệnh luôn cảm thấy mệt mỏi, mất hy vọng vào tƣơng lai, nghĩ rằng thế giới xung quanh dƣờng nhƣ lúc nào cũng u ám. Tăng động giảm chú ý: là một rối loạn về khả năng chú ý, bao gồm những biểu hiện kém tập trung chú ý và từ đó dẫn đến khó hoàn thành bất cứ việc gì, thƣờng nhảy từ việc này sang việc khác, nhảy trong quá trình làm. Hành vi hung tính: là một dạng rối loạn hành vi, đặc trƣng bằng những biểu hiện lời nói hoặc hành động thể chất có chủ đích làm tổn thƣơng hoặc làm hại ngƣời khác hoặc thứ khác (đồ vật, động vật). Hành vi phá bỏ qui tắc: những biểu hiện hành vi không phù hợp với lứa tuổi, đƣợc lặp đi lặp lại có tính phá bỏ những qui tắc luật lệ tại môi trƣờng sống hay trong học 19 đƣờng. Hành vi phá bỏ qui tắc có một số triệu chứng đặc trƣng sau đây: uống rƣợu, nói dối, bỏ học, không cảm thấy tội lỗi. Vấn đề suy nghĩ: là một rối loạn liên quan đến suy nghĩ, với những triệu chứng thể hiện sự không kỳ lạ và mất chức năng trong tƣ duy. Vấn đề suy nghĩ có một số triệu chứng đặc trƣng nhƣ nhìn thấy, nghe thấy những gì kì lạ, có những ý tƣởng kỳ lạ. Vấn đề xã hội: là một rối loạn liên quan đến chức năng xã hội của trẻ, bao gồm những triệu chứng điển hình sau: cô đơn, quá phụ thuộc, thích chơi với những trẻ bé hơn. Vấn đề tâm thể: là một rối loạn liên quan đến những vấn đề sức khỏe thể chất mà không có nguyên nhân thực thể. Bệnh tâm thể có những triệu chứng điển hình sau: đau đầu, đau bụng không rõ nguyên nhân. 1.1.1.7. Những yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần Theo tổ chức Mental Health Foundation của Anh [42], có một số yếu tố, gọi là yếu tố nguy cơ, sẽ khiến cho trẻ em dễ dàng mắc phải các vấn đề vế sức khỏe tâm thần hơn. Đó là những yếu tố sau đây: - Bị những bệnh (thể chất) mãn tính - Bố hoặc mẹ có vấn đề về sức khỏe tâm thần, hoặc có vấn đề lạm dụng chất kích thích hoặc bố/mẹ dính líu đến pháp luật. - Trải qua đau buồn do ngƣời thân mới mất. - Bố mẹ ly dị hay ly thân. - Bị bắt nạt, hoặc lạm dụng cơ thể hoặc tình dục. - Sống trong nghèo đói hoặc không có nhà cửa. - Bị kỳ thị có thể là đó là kỳ thị về giới tính, dân tộc hoặc vùng miền. - Đảm nhận vai trò của ngƣời chăm sóc cho họ hàng, hoặc phải nhận những nhiệm vụ của ngƣời lớn. - Gặp những khó khăn trong học tập ở tình trạng kéo dài. Nghiên cứu của Browne, John và Alexander, thấy rằng những gia đình kinh tế khó khăn, bố mẹ lo kiếm sống, thậm chí bắt cả các con chƣa đến tuổi thành niên cũng phải lao động. Sự tất bật, vất vả dễ gây căng thẳng, cáu gắt khiến không khí trong gia đình thiếu đi sự ấm cúng. Đứa trẻ sẽ là nạn nhân của sự cáu giận đó. Mặt khác, do kinh tế khó khăn, một số bố mẹ thiếu gƣơng mẫu, phạm luật trong khi 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan