Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5 t...

Tài liệu Mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại hà nội

.PDF
138
1278
113

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC HOÀNG THU HUYỀN MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA TỰ ĐÁNH GIÁ BẢN THÂN VÀ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH LỚP 5 TẠI HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Hoàng Minh HÀ NỘI – 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC HOÀNG THU HUYỀN MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA TỰ ĐÁNH GIÁ BẢN THÂN VÀ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH LỚP 5 TẠI HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Hoàng Minh HÀ NỘI – 2012 2 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1 2. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................ 2 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................ 3 5. Khách thể nghiên cứu ............................................................................................... 3 6. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................. 3 7. Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................................... 4 8. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 4 9. Đóng góp mới của nghiên cứu .................................................................................. 4 10. Cấu trúc luận văn ...................................................................................................... 4 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................. 5 1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu mối tương quan giữa tự đánh giá và kết quả học tập ............................................................................................................................. 5 1.1.1. Mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập ............................. 5 1.1.2. Cơ chế tác động trong mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập ...................................................................................................................... 9 1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập ................................................................................................................ 11 1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài ....................................................................... 14 1.2.1. Tự đánh giá bản thân ............................................................................................ 14 1.2.2. Kết quả học tập ..................................................................................................... 32 1.3. Đặc điểm phát triển tâm lý của học sinh lớp 5 ....................................................... 34 1.3.1. Đặc điểm phát triển tâm lý chung của học sinh lớp 5 ........................................... 34 1.3.2.Tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 ............................................................... 36 Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................. 41 2.1.Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................................... 41 2.2.Thiết kế nghiên cứu .................................................................................................. 41 2.2.1.Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 41 2.2.2.Công cụ nghiên cứu ............................................................................................... 43 2.2.3.Quy trình nghiên cứu ............................................................................................. 45 2.2.4.Khách thể nghiên cứu ............................................................................................ 45 2.3.Tổ chức nghiên cứu .................................................................................................. 47 4 2.3.1.Địa bàn nghiên cứu ................................................................................................ 47 2.3.2.Tiến trình thực hiện nghiên cứu ............................................................................. 47 Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU........................................................................ 50 3.1.Thực trạng tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 tại Hà Nội ............................... 50 3.1.1.Thực trạng tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 vào đầu năm học (lần 1) ....... 50 3.1.2.Thực trạng tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 khi kết thúc học kỳ 1 (lần 2 – sau 3 tháng) ........................................................................................................ 63 3.2.Kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Hà Nội ......................................................... 72 3.3.Mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Hà nội ............................................................................................................... 75 3.3.1.Sự thay đổi tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 tại Hà Nội qua ba tháng ............................................................................................................................... 75 3.3.2.Ảnh hưởng của kết quả học tập đến sự thay đổi tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 tại Hà Nội ................................................................................................ 76 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................................... 86 1.Kết luận ....................................................................................................................... 86 2. Khuyến nghị ................................................................................................................ 89 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 92 PHỤ LỤC 5 MỞ ĐẦU 10. Lý do chọn đề tài Tự đánh giá bản thân là một hạt nhân cơ bản của nhân cách, thực thi chức năng bảo vệ và ảnh hưởng đến mọi khía cạnh tâm lý của con người. Quá trình tự đánh giá bản thân giúp con người biết mình là ai và đang tồn tại trên thế giới này như thế nào . Cụ thể hơn , nó nói cho chúng ta biết được rằng chúng ta là ai với tư cách là những cá thể độc nhất vô nhị tồn tại trên trái đất, chúng ta đang hành động như thế nào với ý nghĩa của mỗi hành động là gì, mục tiêu ngắn hạn và dài hạn trong cuộc đời của chúng ta ra sao, các mối quan hệ của chúng ta với người khác như thế nào hay định hướng trong cuộc đời của chúng ta ra sao. Tự đánh giá bản thân tồn tại trong tất cả các tình huống, trải nghiệm của con người, dù là tiêu cực hay tích cực [56, tr. 3]. Những người có tự đánh giá bản thân mình phù hợp với năng lực thực tế thường có sức mạnh tinh thần để vượt qua khó khăn trở ngại trong cuộc sống và đạt được sự hài lòng về bản thân. Việc tự đánh giá quá cao hay quá thấp đều gây nên mâu thuẫn bên trong nhân cách. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng những người tự đánh giá bản thân mình là người vô dụng, thấp kém thường không có khả năng cải thiện tình thế mà họ phải đối diện [24, tr. 96 – 117]. Ở những lứa tuổi khác nhau thì tự đánh giá bản thân cũng nghiêng về những khía cạnh, nội dung và theo những cách thức khác nhau. Lớp 5 là lớp cuối cấp, thời điểm các học sinh đã trải qua một quá trình gần 5 năm kể từ khi bắt đầu bước vào môi trường học tập chính thức. Đây là khoảng thời gian quan trọng để các em nhìn nhận, đánh giá lại bản thân mình về khả năng học tập, giao tiếp và các mối quan hệ xã hội với vai trò, ý nghĩa của mình trong các mối quan hệ này. Bên cạnh đó, các em cũng sắp kết thúc cấp học tiểu học để chuyển sang một cấp học mới có nhiều thách thức hơn. Chính vì vậy, tại thời điểm này, tự đánh giá bản thân có một vai trò rất quan trọng. Tự đánh giá bản thân một cách phù hợp sẽ giúp các em điều khiển , điều chỉnh hành vi của mình và định hình tương lai theo hướng hợp lý 6 , tích cực. Những đánh giá không phù hợp, dù quá cao hay quá thấp sẽ không giúp các em có được cái nhìn chính xác về bản thân, có những chiến lược tốt để thích nghi và phát triển trong cuộc sống. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá bản thân của học sinh và một trong những yếu tố quan trọng cần phải kể đến đó chính là kết quả học tập. Ở độ tuổi này, khi mối quan tâm của các em còn chưa được mở rộng như lứa tuổi mà các em sắp bước vào sau đó (lứa tuổi dậy thì) thì hoạt động học tập vẫn là hoạt động chủ đạo của học sinh. Và kết quả học tập chính là một trong số những yếu tố giúp các em nhận biết khả năng và giá trị của bản thân mình. Vậy cụ thể mối tương quan giữa kết quả học tập và tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 hiện nay là như thế nào? Trên thế giới, từ những năm 70 của thế kỷ trước đến nay, đã có rất nhiều nghiên cứu tìm hiểu mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh. Tuy vậy, các nghiên cứu trên thế giới, do những khác biệt về văn hóa, nên không thể phản ánh được thực tế của Việt Nam. Ở nước ta, cho đến thời điểm này chỉ có nghiên cứu của tác giả Đỗ Ngọc Khanh về tự đánh giá bản thân của học sinh trung học cơ sở đề cập đến mối tương quan giữa kết quả học tập và tự đánh giá bản thân của học sinh như một nội dung thành phần [9]. Như vậy, ở Việt Nam, cho đến thời điểm chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài này, chưa có nghiên cứu nào đề cập đến mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5. Từ những lý do đó, chúng tôi triển khai đề tài "Mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Hà Nội". 11. Đối tƣợng nghiên cứu Mối tương quan giữa tự đán h giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Hà Nội. 12. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu mối tương quan giữa kết quả học tập và tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 và các yếu tố có thể ảnh hưởng đến mỗi quan hệ này. 7 - Đề xuất g iải pháp để tác động tích cực đến mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập, giúp các em học sinh có tự đánh giá bản thân phù hợp hơn và kết quả học tập tốt hơn. 13. Nhiệm vụ nghiên cƣ́u - Nghiên cứu lý luậ n: hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5. - Nghiên cứu thực tiễn : Điều tra thực trạng mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5. - Đưa ra những kết luận và kiến nghị góp phần giúp các em học sinh có tự đánh giá bản thân phù hợp hơn, kết quả học tập tốt hơn. 14. Khách thể nghiên cứu 290 học sinh lớp 5 tại 3 trường tiểu học trong đị a bàn Hà Nội. 15. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn tập trung vào mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5. - Về thời gian : Đề tài được thực hiện trong 6 tháng: từ tháng 7 năm 2011 đến tháng 1 năm 2012. Thời gian thực hiện điều tra được chia thành 2 đợt, cách nhau 3 tháng:  Thời điểm 1: tháng 10/2011: nghiên cứu tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 tại Hà Nội vào đầu năm học (lần 1).  Thời điểm 2: tháng 1/2012: nghiên cứu tự đánh giá bản thân của học sinh lớp 5 tại Hà Nội khi kết thúc học kỳ 1 và học sinh đã biết kết quả học tập của mình (lần 2). - Về đị a điểm : Tại 3 trường tiểu học trên đị a bàn Hà Nội : trường tiểu học dân lập Đoàn Thị Điểm , trường tiểu học công lập Thành Công và trường tiểu học dân lập Đồng Nhân. Chúng tôi lựa chọn 3 trường tiểu học trên để đảm bảo mẫu nghiên cứu của chúng tôi có những học sinh thuộc trường dân lập cũng như công lập. 8 16. Giả thuyết nghiên cứu Nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu mang tính dự báo. Giả thuyết chúng tôi đặt ra là: tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Hà Nội có mối tương quan với nhau: - Tự đánh giá bản thân của học sinh có sự thay đổi qua 2 thời gian nghiên cứu cách nhau 3 tháng. - Sự thay đổi này chịu ảnh hưởng trực tiếp của kết quả học tập. 17. Phƣơng pháp nghiên cƣ́u - Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, bao gồm: Thang đo tự đánh giá bản thân Toulouse, phiên bản việt Nam Kết quả học tập: điểm trung bình tất cả các môn học của học kỳ 1 - Phương pháp xử lý số liệu 18. Đóng góp mới của nghiên cƣ́u - Đây là một trong những luận văn thạc sỹ đầu tiên nghiên cứu về mối tương quan giữa kết quả học tập và tự đá nh giá của học sinh lớp 5. - Luận văn góp phần làm sáng tỏ mối tương quan giữa kết quả học tập và tự đánh giá của học sinh lớp 5 tại Hà Nội. 10. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương. Chƣơng 1: Cơ sở lý luận Chƣơng 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu 9 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.3. Tổng quan lịch sử nghiên cứu mối tƣơng quan giữa tự đánh giá và kết quả học tập 1.3.1. Mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập Trong tâm lý học, mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Những câu hỏi đặt ra trong mối quan hệ giữa hai yếu tố này là: tự đánh giá bản thân đóng vai trò như thế nào với quá trình học tập? Phải chăng thất bại trong học tập đã huỷ hoại tự đánh giá bản thân của con người? Phải chăng học sinh học kém bởi chúng có tự đánh giá bản thân thấp và ngược lại? Một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trực tiếp ảnh hưởng đến thành tích học tập là khả năng. Nhưng trên thực tế chúng ta có thể thấy rằng khả năng không phải là điều có thể lý giải hoàn toàn cho kết quả học tập của con người. Có nhiều yếu tố được các nhà nghiên cứu đưa ra lý giải và một trong số những yếu tố quan trọng phải kể đến đó là tự đánh giá bản thân. Đã có rất nhiều nghiên cứu về mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập được thực hiện từ nửa cuối thể kỷ trước đến nay và cũng từ đó cho đến nay kết quả về mối tương quan vẫn luôn là điều gây ra nhiều tranh luận trong lĩnh vực tâm lý học. a. Những quan điểm cho rằng không có tƣơng quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập Đầu tiên phải kể đến là những tác giả cho rằng có mối tương quan rất nhỏ, thậm chí là không có ý nghĩa và không đáng kể giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập. Đi đầu trong quan điểm này là hai tác giả Simon và Simon (1975): khi kiểm tra mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân với kết quả học tập và chỉ số thông minh IQ, hai tác giả đã nhận thấy có mối tương quan rất nhỏ giữa những yếu tố trên (r = 0,33). Như vậy, mặc dù cá nhân có tự đánh giá bản 10 thân cao thường nói rằng mình thông minh hơn nhưng trên thực tế thì không có bằng chứng nào chỉ ra mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và chỉ số thông minh cũng như kết quả học tập [72, tr. 97-100]. Để tổng hợp lại kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, Hansford và Hattie (1982) đã tiến hành phân tích 128 nghiên cứu về mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập, liên quan tới 200.000 người tham gia. Kết quả cho thấy mối tương quan giữa hai yếu tố này ở một khoảng giới hạn rất rộng từ -0,77 đến +0,96, trung bình là 0,21. Điều này cho thấy mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập yếu [33, tr. 123-142]. Tuy vậy, kết quả của phần phân tích này lại bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau như khách thể, tình trạng kinh tế xã hội, dân tộc, khả năng, thang đo tự đánh giá bản thân và thang đo thành tích học tập, độ tin cậy của các thang đo đó. Trong nghiên cứu về vai trò của tự đánh giá bản thân trong sự phát triển của vị thành niên, các tác giả Zimmerman, Copeland, Shope và Dielman (1997) đã kết luận rằng những tác động làm tăng hoặc giảm tự đánh giá bản thân đều có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả của thanh niên. Trong nghiên cứu của mình, các tác giả đã đo sự thể hiện của khách thể bằng cách đưa ra những câu hỏi về điểm số của họ (ví dụ: điểm của bạn hầu hết là A, A và B hay…?). Tuy vậy, mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập mà họ tìm được rất thấp và điều này đã không giúp ủng hộ niềm tin của họ vào việc tự đánh giá bản thân cao sẽ dẫn đến kết quả học tập cao hơn [80, tr. 117-141]. Trong thời gian gần đây, Wilma, Patrick và Josep (2005) đã tổ chức một nghiên cứu trường diễn về mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập ở những học sinh có năng lực cao. Sử dụng thang đo về khả năng viết và toán học, họ lựa chọn 10% học sinh có điểm số đo cao nhất. Sau đó, họ dùng thang đo tự đánh giá bản thân của Rogenberg để đo mức độ tự đánh giá bản thân của mỗi cá nhân, và dùng điểm số trung bình cuối năm học là kết quả học tập. Các tác giả đã dùng phần mềm SPSS và hệ số tương quan Pearson để phân tích 11 mối tương quan giữa hai yếu tố là tự đánh giá bản thân và kết quả học tập ở những học sinh thiên tài. Kết quả cho thấy, không có mối tương quan đáng kể giữa các biến này ở học sinh thiên tài (r = 0,02) [78, tr. 39-45]. Từ những nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy rằng trong suốt quá trình nghiên cứu về mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập gần 50 năm nay, có nhiều nhà nghiên cứu đã nhận thấy mối tương quan giữa hai yếu tố này là rất nhỏ, thậm chí, chúng không hề có tương quan với nhau. b. Những quan điểm cho rằng có mối tƣơng quan chặt chẽ giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập Trong lịch sử nghiên cứu về mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập, song song với những nghiên cứu tìm ra rằng không có mối tương quan hoặc có mối tương quan không đáng kể giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập, vẫn luôn có những nhà khoa học tìm ra được kết quả ngược lại và họ nhận thấy rằng giữa hai yếu tố này có mối tương quan chặt chẽ với nhau. Mở đầu cho quan điểm này là tác giả Kifer (1973). Ông cho rằng có mối tương quan đáng kể giữa thành công trong học tập và tự đánh giá bản thân. Khi thời gian trôi qua, khoảng cách về quan điểm tự đánh giá của người thành công trong học tập và không thành công trong học tập được tạo dựng. Những học sinh có kết quả học tập cao cũng sẽ có tự đánh giá cao và những học sinh có kết quả học tập thấp sẽ có tự đánh giá thấp. Điều này ủng hộ lý thuyết thành công hay thất bại trong học tập có ảnh hưởng đến tự đánh giá bản thân của người học [45]. Cùng chung quan điểm với Kifer, các tác giả Dorle, Rubin và Sandidge (1977) nhận thấy tự đánh giá bản thân có mối tương quan đáng kể với những thang đo về thành tích học tập cũng như đánh giá của giáo viên về hành vi và sự thể hiện của học sinh. Phân tích thống kê chỉ ra rằng có những yếu tố chung ảnh hưởng đến cả thành tích học tập và tự đánh giá bản thân như khả năng và tình trạng kinh tế [67, tr. 503-507]. 12 Năm 1999, hai nhà nghiên cứu Davies và Brember đã tiến hành một nghiên cứu kéo dài tám năm về tự đánh giá bản thân, kết quả học tập môn đọc và môn toán của học sinh năm thứ 2 và năm thứ 6 trong giai đoạn giới thiệu chương trình giảng dạy quốc gia và quy trình đánh giá vào các trường tiểu học. Mẫu nghiên cứu là 1.513 học sinh năm thứ hai và 1.488 học sinh năm thứ sáu. Kết quả cho thấy với học sinh năm hai, không có mối tương quan đáng kể giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập. Nhưng sau chương trình kiểm tra quốc gia và với học sinh năm sáu thì mối tương quan này là quan trọng và đáng kể [27, tr. 145-157]. Tại Việt Nam, khi nghiên cứu về tự đánh giá bản thân của học sinh trung học phổ thông, tác giả Đỗ Ngọc Khanh (2005) đã đưa ra kết luận: Các học sinh có học lực yếu có mức độ tự đánh giá bản thân về học tập, cảm xúc và đạo đức thấp nhất và mức độ này của các em tăng lên dần theo mức độ tăng của xếp hạng học lực. Tuy nhiên, học lực không ảnh hưởng nhiều đến tự đánh giá bản thân về khả năng xã hội - giao tiếp, bất kể sức học thế nào học sinh vẫn có thể giao tiếp bình thường. Mức độ tự đánh giá bản thân về thể chất theo học lực lại có xu hướng ngược với tự đánh giá bản thân về học tập, cảm xúc và đạo đức: các em có học lực càng cao thì lại có xu hướng đánh giá về thể chất của mình càng thấp [8, tr. 109]. Cần lưu ý rằng có nhiều nghiên cứu chỉ ra mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập không có nghĩa rằng đó là mối quan hệ nhân quả. Giáo viên, bố mẹ và những người xung quanh có thể quan sát thấy tự đánh giá bản thân và kết quả học tập đi liền với nhau và đưa ra kết luận tự đánh giá bản thân cao dẫn đến thành tích học tập tốt. Tuy vậy, trên thực tế đó lại không phải là mối quan hệ nhân quả [18, tr.11]. Qua quá trình tổng quan tài liệu chúng tôi nhận thấy một số nghiên cứu đã khuyến khích niềm tin tự đánh giá bản thân cao có thể dẫn đến kết quả học tập cao hơn khi mối tương quan giữa chúng là tích cực và đáng kể. Và ngược lại, tự đánh giá bản thân thấp cũng có thể ảnh hưởng đến thành tích học tập 13 của học sinh. Từ kết luận này mà ở nhiều nước trên thế giới, các chương trình xây dựng tự đánh giá bản thân ở học sinh trong các trường học phát triển mạnh nhằm thúc đẩy sự phát triển nhân cách, trí tuệ và thành tích học tập của học sinh. Như vậy, cho tới thời điểm hiện tại, với rất nhiều nghiên cứu đã được thực hiện trong lĩnh vực tâm lý về mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh, các nhà khoa học vẫn chưa có được một kết luận ngã ngũ về mối tương quan này. Những kết quả khác nhau đó đặt ra cho chúng tôi một băn khoăn là điều gì dẫn đến mối tương quan cao hay thấp giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập. Sau đây là một số lý giải về cơ chế tác động và những yếu tố ảnh hưởng đến mối tương quan này. 1.3.2. Cơ chế tác động trong mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập a. Quan điểm cho rằng không có mối tƣơng quan đáng kể giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập Mức độ tự đánh giá bản thân toàn thể không ảnh hưởng nhiều đến việc con người muốn hay cố gắng để thành công trong học tập nhưng nó lại ảnh hưởng đến mong đợi của họ. McFarlin và Blaskovich (1981): cho rằng người có tự đánh giá bản thân thấp có mong muốn và cố gắng để thành công như bất cứ ai khác. Nhưng không giống như những người có tự đánh giá bản thân cao, họ lại mong đợi thất bại. Tuy nhiên, vì sự thực hiện và thành công bị ảnh hưởng bởi những nỗ lực hơn là mong đợi về thành công hay thất bại, nên có rất ít sự khác nhau về thành công giữa những người có tự đánh giá bản thân cao và những người có tự đánh giá bản thân thấp [53, tr. 521-31]. Khác với quan điểm của McFarlin và Blaskovich, hai nhà nghiên cứu Robinson và Tayler (1991) đã đưa ra cách giải thích về cơ chế bảo vệ tự đánh giá như sau: dựa vào lý thuyết của họ về nhận d ạng xã hội và áp dụng lý thuyết này vào việc duy trì tự đánh giá trong các tình huống liên quan đến kết quả học tập thấp, họ đưa ra một khuôn mẫu cách thức trong đó học sinh giải 14 quyết với những đe doạ tự đánh giá thấp do kết quả học tập th ấp bằng cách giữ mình ở ngoài quan niệm văn hoá cho rằng chúng không tốt khi đi học. Cùng giải thích về mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập bằng cơ chế bảo vệ của tự đánh giá bản thân, tác giả Harter (1998) cho rằng học sinh sẽ giảm sự đầu tư vào những lĩnh vực có tính đe doạ đến tự đánh giá của bản thân và đầu tư vào những lĩnh vực khác có khả năng thành công cao hơn. Với cách này, những học sinh có kết quả học tập thấp, có thể bảo vệ tự đánh giá của mình bằng cách giảm sự đầu tư trong lĩnh vực học tập, thay vào đó sẽ đầu tư vào những lĩnh vực khác mà các em có thể làm tốt như mối quan hệ liên nhân cách hay trong lĩnh vực thể thao [34, tr. 553-617]. b. Những quan điểm cho rằng có mối tƣơng quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập Khi cho rằng có mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập, các nhà nghiên cứu thường lý giải mối tương quan này thông qua mối quan hệ giữa nhận thức, cảm xúc và hành vi của con người. Có thể kể tới một số quan điểm của các nhà tâm lý sau: Holly (1987) cho rằng sự ảnh hưởng của tự đánh giá đến kết quả học tập có thể xảy ra theo ba cách thức khác nhau: đầu tiên, cảm giác vô giá trị có thể dẫn đến trầm cảm và trầm cảm có thể hạn chế việc học tập. Nếu một học sinh không cảm thấy việc học đáng để mình bỏ công sức, họ sẽ không học hết khả năng của mình. Thứ hai, nỗi sợ thất bại có thể khiến cho học sinh chùn bước, trái lại, đối với những học sinh có tự đánh giá cao, các em sẵn sàng nắm lấy cơ hội thử thách. Những người chấp nhận mạo hiểm có khả năng đạt điểm cao hơn vì các em có thể đoán được những câu trả lời cho những câu hỏi mà mình không biết. Cuối cùng, thất bại liên tiếp cộng với cảm giác bất tài có xu hướng làm cho các em cảm thấy chán nản và mất tinh thần. Một số học sinh bị thuyết phục rằng các em thiếu khả năng để thành công cho nên việc cố gắng nhiều hơn cũng không có nghĩa lý gì [39]. 15 Những quan điểm chung cho thấy suy nghĩ của chúng ta ảnh hưởng đến cảm xúc và hành vi của chúng ta. Như một kết quả, hành vi của chúng ta lại ảnh hưởng đến việc thực hiện hoạt động của chúng ta. Một học sinh nghi ngờ chính bản thân mình và thiếu sự chấp nhận bản thân không có khả năng đạt được thành tích học tập xuất sắc. Làm thế nào để một học sinh có thể thiết lập được mục tiêu thử thách nếu như chúng thiếu ý thức về cái tôi năng lực? Mark R. Leary và Deborah L. Downs đã nói rằng “Những người cảm thấy có giá trị, có năng lực có thể đạt được mục tiêu họ đặt ra hơn những người cảm thấy vô giá trị, yếu đuối, bất lực” [51]. Ở Mỹ, tự đánh giá bản thân là một vấn đề rất được coi trọng trong các trường học vì họ nghĩ rằng nâng cao tự đánh giá bản thân sẽ mang lại sự cải thiện trong thành tích học tập. Những cá nhân có tự đánh giá bản thân cao có thể đặt kỳ vọng cao hơn những cá nhân có tự đánh giá bản thân thấp. Họ kiên trì đối diện với những thất bại ban đầu và ít khi có cảm giác bất lực và nghi ngờ bản thân. Theo định nghĩa, học tập là sự tiếp thu kiến thức và kỹ năng mà một người chưa có, và tự đánh giá bản thân cao có thể giúp ngăn chặn suy nghĩ về sự thiếu hụt năng lực ban đầu, điều có thể sản sinh ra cảm giác vô vọng. Tự đánh giá bản thân cao có thể nuôi dưỡng sự tự tin để xử trí các vấn đề khó khăn và làm tăng khả năng đạt được cảm giác hài lòng của con người khi làm việc và đạt được thành công [19, tr. 10]. 1.3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập a. Văn hoá Văn hoá ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa tự đánh giá và kết quả học tập. Điều được coi trọng trong nền văn hoá này có thể không còn được coi trọng trong nền văn hoá khác. Mỗi nền văn hoá lại có những ưu tiên riêng về mặt quan điểm giá trị và những khác biệt này mang lại những cách thức tự đánh giá khác nhau phụ thuộc vào nền văn hoá đó. Ví dụ, học sinh ở Caribbean thường hình thành hình ảnh bản thân tích cực từ những hành vi đạo 16 đức phù hợp: “Tôi là một người lịch sự và biết cách ứng xử” (Delacourt, & Others 1997). Ở Mỹ, học sinh có thể có tự đánh giá cao vì chúng có kỹ năng bắn súng thành thạo hay là những thiên tài âm nhạc. Cũng ở quốc gia này, tác giả Kester (1994) nhận thấy “Đối với nhiều học sinh người Mỹ gốc Phi, việc tạo dựng hình ảnh đường phố như trên MTV quan trọng hơn là thành công tại trường học”. Điều này ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập. Không thể đo chính xác thành tích học tập khi học sinh không chủ định học một cách tốt nhất. Một số học sinh nhìn thành tích học tập như một đặc điểm tiêu cực và sẽ làm bất cứ điều gì để tránh cho mình trông thông minh trước mặt những người bạn khác. Theo quan điểm này, trong những nền văn hoá coi trọng vấn đề học tập thì sẽ có mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập cao hơn trong những nền văn hoá không thực sự đề cao việc học tập. b. Giới tính Giới tính cũng đóng một vai trò quan trọng trong tự đánh giá. Con trai có thể hình thành hình ảnh bản thân tích cực từ thể thao và học tập. Con gái lại nhìn vào nhóm mà chúng thuộc về và mối quan hệ với những người trong nhóm trước để hình thành hình ảnh bản thân tích cực. Con gái có thể sẽ hành động một cách thông minh nếu nhóm bạn các em tham gia vào coi trọng khả năng học tập hơn vẻ bề ngoài [21, tr. 1]. c. Tầm quan trọng của việc học tập đối với mỗi cá nhân William James cho rằng thành công phải nằm trong lĩnh vực có ý nghĩa đối với cá nhân thì mới có ý nghĩa đối với tự đánh giá bản thân. Ví dụ, đánh răng không có ý nghĩa gì đáng kể đối với hầu hết chúng ta nhưng lại là thành tích cá nhân lớn đối với những người có khuyết tật về tinh thần hoặc thể chất. Có những thành công cực kỳ đặc biệt ảnh hưởng tới tự đánh giá bản thân theo một cách vô cùng mạnh mẽ. Jackson (1984) và Mruk (1983) đã chỉ ra rằng khi chúng ta hướng tới một mục tiêu yêu cầu có cách thức giải quyết vấn đề hiệu quả hay những trở ngại quan trọng, chúng ta có thể chứng minh năng lực của mình nhiều hơn trong việc giải quyết những thử thách trong cuộc sống. 17 Những thành công như vậy là thành tích trong sự phát triển tinh thần, khiến cho thành tích có ý nghĩa thích đáng [40]. Ứng dụng quan điểm của James trong mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập, chúng tôi thấy rằng nếu học sinh càng coi trọng việc học tập thì kết quả học tập như thế nào sẽ càng tác động tới tự đánh giá bản thân của học sinh. Đi sâu vào kết quả học tập, một số tác giả cho rằng kết quả học tập có mối tương quan với nhau hay không phụ thuộc vào mức độ quan trọng của việc học đối với học sinh. Các tác giả Alves-martins, Peixoto, GouveiaPereira, Amaral và Pedro đã nghiên cứu 838 học sinh cấp hai từ lớp 7 đến lớp 9 về chiến lược bảo vệ tự đánh giá bản thân của học sinh khi có kết quả học tập thấp tại trường học. Họ sử dụng công cụ là thang đo Tự đánh giá bản thân dành cho thanh thiếu niên của Harter và Thang đo thái độ hướng tới trường học. Kết quả cho thấy, đối với lớp 7, những học sinh có kết quả học tập thấp hơn có mức độ tự đánh giá thấp hơn những học sinh có kết quả học tập cao. Sự khác biệt này được thu hẹp lại ở lớp 8 và lớp 9 khi mức độ tự đánh giá ở những học sinh có kết quả học tập thấp lại cao hơn một chút. Với học sinh lớp 8 và lớp 9, thái độ tiêu cực hướng tới trường học có thể giúp những học sinh với thành tích học tập thấp không bị giảm giá trị của chúng. Với những học sinh lớp 7 thì điều này không xảy ra và do vậy không giúp những em học sinh có kết quả học tập thấp đạt được tự đánh giá cao. Một trong số những cách giải thích cho điều này có thể là việc học sinh lớp 7 coi trọng trường học hơn, điều này có thể thấy rõ trong kết quả nghiên cứu về thái độ của các em hướng đến trường học. Còn với học sinh lớp 8, việc bảo vệ tự đánh giá của bản thân liên quan đến việc đầu tư vào những mối quan hệ liên nhân cách như mối quan hệ khác giới. Tuy vậy hạn chế của nghiên cứu là chưa chỉ ra được sự thay đổi trong tự đánh giá bản thân từ lớp 7 đến lớp 8 và lớp 9 là do thất bại trong trường học hay do những đặc điểm của quá trình phát triển [15, tr. 51-62]. 18 1.4. Một số khái niệm cơ bản của đề tài Qua tổng quan các nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số khái niệm cơ bản của đề tài như sau: 1.4.1. Tự đánh giá bản thân 1.4.1.1. Định nghĩa khái niệm tự đánh giá bản thân Trong đời sống hàng ngày của con người, đánh giá là một khái niệm được sử dụng rộng rãi, thường xuyên và đã trở thành rất quen thuộc đối với mỗi người. Cũng như vậy, trong tâm lý học, khái niệm tự đánh giá bản thân là một khái niệm phổ biến, được nhiều học giả quan tâm, nghiên cứu. Vậy đánh giá và tự đánh giá bản thân là gì? Trước hết, chúng ta hãy xem xét khái niệm đánh giá trong đời sống con người và trong quan điểm khoa học. a. Khái niệm đánh giá Từ xa xưa, trong xã hội cổ đại, những người Hy Lạp coi “oikeiosis” hay tự yêu bản thân như mục tiêu cuối cùng và ý tưởng tự biết bản thân như là một cách thức để biết về Chúa. Sau đó, thuật ngữ tự đánh giá bản thân, trong tiếng Anh là “self esteem” được sử dụng lần đầu tiên trong từ điển tiếng Anh Oxford từ những năm 1.600 và nó đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau [52]. Vào thế kỷ 15, thuật ngữ “esteem” xuất hiện trong tiếng Anh và nó liên quan đến mọi thứ về đánh giá (tìm ra giá trị) của người hoặc vật. Trong thị trường mua bán ở châu Âu, thuật ngữ “fair” (đúng, công bằng) được dùng để ước định khoản tiền tương xứng với giá trị của một vật. Từ “high” (cao) chỉ sự đánh giá về giá trị cao hơn giá trị thực tế của nó. Để xem xét việc đánh giá đúng hay đánh giá cao hơn so với giá trị thực tế, các chuyên gia định giá của thời Phục Hưng đã xem xét ba yếu tố: thứ nhất là quan tâm: nhận ra một người có những thành tích và giá trị nào đó; thứ hai là tôn trọng: xếp loại một người trên bậc thang về mức độ quan trọng, dựa trên thành tựu được biết đến của người đó; thứ ba là đánh giá: cảm giác về thành tựu đạt được đi kèm với sự hài lòng, biết ơn [17]. 19 Theo quan điểm thông thường tại Việt Nam thì “đánh giá là nhận thức cho rõ giá trị của một người hoặc một vật” [11, tr. 142]. Từ những quan điểm trên có thể thấy rằng khái niệm đánh giá chỉ việc định giá về giá trị của một con người, một sự vật, một hiện tượng. b. Khái niệm tự đánh giá bản thân Trong tâm lý học thế giới hiện nay, các tác giả đưa ra ba quan điểm khi định nghĩa về tự đánh giá bản thân. Quan điểm thứ nhất coi tự đánh giá bản thân như năng lực của con người và quan điểm thứ hai coi tự đánh giá bản thân như giá trị của con người và quan điểm thứ ba là sự kết hợp của hai quan điểm trên. Tự đánh giá bản thân nhƣ năng lực: William James (1890) là người đi đầu trong quan điểm này. Ông cho rằng tự đánh giá bản thân phát triển từ sự tích luỹ những kinh nghiệm, trong đó con người đạt được những kết quả dựa trên mục tiêu mình đề ra trong những lĩnh vực quan trọng. Ông đặt ra công thức: Tự đánh giá bản thân = thành công/ kỳ vọng Theo quan điểm này thì cá nhân phải kiểm tra được sự khác nhau có thể xảy ra giữa sự đánh giá về thành công ở hiện tại và kỳ vọng về mục tiêu cũng như động cơ của con người. Hơn nữa, kỹ năng tự nhận thức cho phép con người đạt được mục đích cũng cần phải được đánh giá [41]. Như vậy, tự đánh giá bản thân có thể tăng lên bằng cách đạt được những thành công lớn hơn và tránh những thất bại hoặc bằng cách giảm đi những mục tiêu tham vọng đặt ra. Công thức của James cũng cho thấy rằng mức độ thành công mà con người đạt được không thể dự đoán được tự đánh giá bản thân mà điều quan trọng chính là sự thành công của họ liên quan như thế nào đến khát vọng của họ. Vì vậy, với những cá nhân cụ thể, dù đạt được thành công lớn trong cuộc sống và được những người khác ngưỡng mộ nhưng lại vẫn có những đánh giá tiêu cực về bản thân mình vì thành công của họ không liên quan hoặc thấp hơn so với mong đợi của họ. 20 Tự đánh giá bản thân nhƣ giá trị: Morris Rosenberg (1965) là tác giả có quan điểm chủ chốt trong vấn đề này. Ông coi tự đánh giá bản thân như một kiểu thái độ đặc biệt, dựa trên sự nhận thức của chúng ta về giá trị của mình: tự đánh giá bản thân là thái độ tích cực hoặc tiêu cực hướng tới một đối tượng cụ thể, có tên tuổi hay đó chính là cái tôi. Tự đánh giá cao phản ảnh cảm xúc về việc một người đã “đủ tốt” và khi đó, đơn giản là cá nhân cảm thấy anh ta có giá trị. Anh ta tôn trọng chính mình và không cần phải coi mình ở vị thế cao hơn người khác [65, tr. 30-31]. Cùng chung quan điểm với Morris Rosenberg, Coopersmith (1967) cho rằng: Sự đánh giá của mỗi cá nhân về bản thân mình biểu lộ một thái độ về sự đồng ý hay không đồng ý, cho biết sự đánh giá mà cá nhân tin tưởng vào khả năng, tầm quan trọng, thành công và giá trị của mình. Tóm lại, tự đánh giá bản thân là sự phán xét của cá nhân về giá trị được thể hiện qua thái độ của cá nhân đó hướng tới bản thân mình [24, tr.4-5]. Tự đánh giá bản thân gồm cả năng lực và giá trị: Năm 1969, Nathaniel Branden đã đưa ra đề xuất định nghĩa về tự đánh giá bản thân: tự đánh giá bản thân có hai khía cạnh liên quan đến nhau: cảm giác về khả năng tự thực hiện và cảm giác về giá trị cá nhân. Hai điều này hợp thành sự tự tin và tự trọng. Sự kết hợp đó cũng cho thấy một người có năng lực để sống và có giá trị trong cuộc sống. Việc tác giả nhìn tự đánh giá bản thân theo cả hai khía cạnh năng lực và giá trị giúp chúng ta có cái nhìn trọn vẹn hơn về tự đánh giá bản thân, từ đó có thể hiểu khái niệm này tốt hơn và đặt nó vào một vị trí xứng đáng hơn [20, tr. 110]. Như vậy, tự đánh giá bản thân là thái độ của mỗi người về bản thân mình, liên quan đến niềm tin về khả năng và giá trị của chính mình. Nó không chỉ là những điều cá nhân biết về bản thân mình như tên tuổi, sở thích, niềm tin, giá trị, đặc điểm ngoại hình, chiều cao, cân nặng mà là phản ứng cảm xúc mà con người có khi họ “ngắm nhìn” và đánh giá những điều khác nhau về bản thân mình đặc biệt là về giá trị và năng lực. Và cũng chính vì thế, tự đánh 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan