Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng vấn đề sức khỏe tâm thần ở trẻ em từ 6 đến 18 tuổi tại hai cơ sở chăm...

Tài liệu Thực trạng vấn đề sức khỏe tâm thần ở trẻ em từ 6 đến 18 tuổi tại hai cơ sở chăm sóc, giáo dục trẻ mồ côi

.PDF
102
1800
113

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ĐOÀN THỊ HƢƠNG THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN Ở TRẺ EM TỪ 6 – 18 TUỔI TẠI 02 CƠ SỞ CHĂM SÓC, GIÁO DỤC TRẺ MỒ CÔI chuyên nghành: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC HÀ NỘI – 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ĐOÀN THỊ HƢƠNG THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN Ở TRẺ EM TỪ 6 – 18 TUỔI TẠI 02 CƠ SỞ CHĂM SÓC, GIÁO DỤC TRẺ MỒ CÔI chuyên nghành: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Hoàng Minh TS. Amie Pollack HÀ NỘI - 2014 2 LỜI CAM KẾT Tôi xin cam đoan đề tài này là công trình nghiên cứu khoa học do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Đặng Hoàng Minh và TS.Amie Polack – Giảng viên khoa Tâm lý – Giáo dục – Trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc Gia Hà Nội. Những số liệu, kết quả nêu trong đề tài là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào trước đây. Hà Nội, tháng 06 năm 2013 Học viên thực hiện Đoàn Thị Hƣơng 3 LỜI CẢM ƠN Tác giả xin gởi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS Đặng Hoàng Minh. Trong suốt quá trình nghiên cứu, cô luôn cảm thông, đồng hành và đưa ra những định hướng, những góp ý sâu sắc cho luận văn. Sự gương mẫu, tận tâm và chân thành của cô đã giúp tác giả rất nhiều trong quá trình hoàn thành luận văn của mình. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc TS. Amie Pollack, dù bất đồng về ngôn ngữ nhưng cô đã nỗ lực trong việc giúp tác giả định hướng cho luận văn. Hơn hết là lòng nhiệt thành cùng với thái độ nghiêm túc trong nghiên cứu của cô đã tạo cho tác giả một ấn tượng hết sức sâu sắc. Những ấn tượng này chắc chắn sẽ không phai nhòa trong con đường học vấn và nghiên cứu tác giả đang quyết tâm theo đuổi. Tôi xin gửi lời cảm ơn tha thiết đến GS. TS Barh Weiss, dù bất đồng về ngôn ngữ và cách trở về địa lý nhưng thầy đã luôn sẵn sàng dành những khoảng thời gian quý báu của mình để giúp tác giả trong việc định hướng xử lý và phân tích số liệu. Tôi gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô giáo trong khoa tâm lý, quý thầy cô ở phòng đào tạo trường ĐH Giáo Dục đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này. Xin bày tỏ lòng cảm ơn tới Ban quản lý, các cán bộ nhân viên và những em nhỏ tại TTBTXH tỉnh Lâm Đồng và Làng trẻ SOS Hải Phòng đã nhiệt tình hợp tác và giúp đỡ tác giả trong việc tiếp cận cơ sở và thu thập thông tin nghiên cứu. Cuối cùng, bằng cả tấm lòng, xin cảm ơn những bạn bè, người thân, đặc biệt là Nguyễn Cao Minh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Trịnh Thị Mai - những người bạn, người đồng nghiệp chân thành, đáng tin cậy đã luôn sẵn sàng giúp đỡ và động viên tác giả trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn tất cả mọi người! Hà Nội, Ngày 25 tháng 06 năm 2013 4 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT Xin đọc là Chữ viết tắt SKTT Sức khỏe tâm thần CBGD Cán bộ giáo dục CBQL Cán bộ quản lý TTBTXH Trung tâm bảo trợ xã hội CSCSGD Cơ sở chăm sóc, giáo dục ĐTB Điểm trung bình ĐRG Điểm ranh giới Bộ LĐ - TBXH Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH Chữ viết Xin đọc là Xuất phát từ cụm từ tiếng anh tắt CBCL YSR Child Behavior Cheklist Bảng liệt kê hành vi trẻ em Youth Self Report Bảng tự thuật của thanh thiếu niên DSM-IV Diagnostic and Statistical Manual of Disorders, 4th Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần (Hội tâm thần học hoa kỳ), lần thứ IV. ICD-10 International Classification of Diseases, 10th WHO Phân loại bệnh quốc tế lầ thứ 10 Wolrd Health Organization 5 Tổ chức Y tế Thế giới MỤC LỤC Lời cảm ơn ............................................................................................................ ii Danh mục viết tắt ................................................................................................. iii Mục lục ................................................................................................................. iv Danh mu ̣c bảng..................................................................................................... vi Danh mu ̣c biể u đồ ............................................................................................... vii MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ............................................... 8 1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu SKTT trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi ...................... 8 1.1.1. Những nghiên cứu về hệ quả của việc “bị mất mẹ, thiếu thốn mẹ đối với SKTT trẻ em ......................................................................................................... 9 1.1.2 Những nghiên cứu về ảnh hưởng của việc nuôi dưỡng trong điều kiện thiếu thốn về vật chất, tình cảm, sự kích thích đối với sự phát triển cũng như các vấn đề SKTT ở trẻ em trong các cơ sở chăm sóc, giáo dục trẻ ................... 12 1.1.3. Những nghiên cứu đánh giá sự phát triển trí tuệ của trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi ................................................................................................................... 15 1.1.4. Những nghiên cứu các vấn đề hành vi của trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi ........ 17 1.1.5. Nghiên cứu các vấn đề cảm xúc, xã hội của trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi ...... 18 1.1.6. Những nghiên cứu dịch tễ về sức khỏe tâm thần trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi ............................................................................................................................. 20 1.2. Một số khái niệm cơ bản được sử dụng trong luận văn ............................... 23 1.2.1. Khái niệm Trẻ em trong các cơ sở chăm sóc, giáo dục trẻ mồ côi, bị bỏ rơi 1.2.2. Khái niệm vấn đề sức khỏe tâm thần ........................................................ 25 1.2.3. Phân loại các nhóm vấn đề SKTT ...................................................................... 30 1.2.4. Nguyên nhân của các vấn đề SKTT .................................................................... 32 1.2.5. Đánh giá các vấn đề SKTT ................................................................................. 37 CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................. 40 2.1. Xác định biến nghiên cứu ............................................................................ 40 6 2.2. Xác định mẫu nghiên cứu ............................................................................ 41 2.2.1. Cách thức xác định mẫu nghiên cứu ......................................................... 41 2.2.2. Đặc điểm mẫu nghiên cứu thực tế............................................................. 42 2.3. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................. 43 2.3.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận............................................................... 43 2.3.2. Phương pháp điều tra ............................................................................... 43 2.3.3. Phương pháp thống kê toán học ................................................................ 45 2.4. Quy trình điều tra bằng bảng hỏi ................................................................. 47 2.5. Một số đặc điểm của địa bàn nghiên cứu ..................................................... 49 2.5.1. Làng trẻ SOS Hải Phòng ........................................................................... 49 2.5.2. Trung tâm Bảo Trợ Xã Hội Lâm Đồng..................................................... 52 2.6. Tiến độ thực hiện đề tài ................................................................................ 56 CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................... 58 3.1 Thực trạng sức khỏe tâm thần của trẻ em từ 6 – 12 tuổi............................... 58 3.1.1 Điểm trung bình của thang đo .................................................................... 58 3.1.2 Điểm trung bình tám hội chứng SKTT ..................................................... 62 3.1.3. Tỉ lệ trẻ em có vấn đề SKTT ở mức ranh giới .......................................... 66 3.1.4.Tỉ lệ trẻ em có vấn đề SKTT ở mức lâm sàng ........................................... 70 3.1.5. Tỉ lệ trẻ em gặp vấn đề SKTT nói chung ......................................................... 77 3.2. Một số nhân tố ảnh hưởng đến thực trạng vấn đề SKTT của trẻ em..................... 81 3.2.1. Mối quan hệ giữa biến độ tuổi và vấn đề SKTT của trẻ em ............................... 81 3.2.2. Mối quan hệ giữa biến giới tính và vấn đề SKTT của trẻ em .................. 82 3.2.3. Mối quan hệ giữa biến CSCSGD trẻ và vấn đề SKTT của trẻ em .................... 85 KẾT LUẬN & KHUYẾN NGHỊ ..................................................................... 89 1. Kết Luận .......................................................................................................... 89 2. Khuyến Nghị ................................................................................................... 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 91 7 DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Cơ cấu bảng hỏi nhận được từ trẻ em và người chăm sóc............................ 42 Bảng 2.2. Đặc điểm của mẫu nghiên cứu...................................................................... 42 Bảng 3.1. Điểm trung bình của tổng thang đo CBCL ................................................... 58 Bảng 3.2. Điểm trung bình của tổng thang đo YSR .................................................... 59 Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh ĐTB tổng thang đo YSR và CBCL............................... 62 Bảng 3.4. Điểm trung bình thang CBCL và YSR cho trẻ em từ 12 đến 18 tuổi........... 65 Bảng 3.5. Tỉ lệ trẻ em 6 - 18 tuổi có biểu hiện vấn đề SKTT ở mức ranh giới theo tám hội chứngcủa Achenbach ....................................................................................... 67 Bảng 3.6. Tổng tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi từ 6 – 18 có vấn đề ở mức ranh giới theo CBCL 68 Bảng 3.7. Tỉ lệ trẻ trong độ tuổi 12 - 18 tuổi có biểu hiện có biểu hiện có vấn đề SKTT ở mức ranh giới .................................................................................................. 69 Bảng 3.8. Tổng số trẻ em trong độ tuổi 12 - 18 có biểu hiện có vấn đề ở mức ranh giới .... 70 Bảng 3.9. Tỉ lệ trẻ em 6 - 18 tuổi có vấn đề SKTT theo từng hội chứng (CBCL) ....... 71 Bảng 3.10. Tổng số trẻ từ 6 – 18 tuổi có vấn đề SKTT ở mức lâm sàng (CBCL) ....... 72 Bảng 3.11. Tỉ lệ trẻ từ 12 – 18 tuổi có vấn đề SKTT ở mức lâm sàng theo từng hội chứng ............................................................................................................................. 73 Bảng 3.12. Tổng số trẻ từ 12 – 18 tuổi có vấn đề SKTT ở mức lâm sàng (YSR và CBCL)7 ........................................................................................................................................... 6 Bảng 3.13. Tổng tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi 6 – 18 có vấn đề SKTT ở mức ranh giới và lâm sàng nói chung ................................................................................................... 77 Bảng 3.14. Tổng tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi 12 – 18 có biểu hiện có vấn đề SKTT ở mức ranh giới và lâm sàng nói chung ............................................................................................................... 79 Bảng 3.15. Mối quan hệ giữa yếu tố độ tuổi và thực trạng vấn đề SKTT của trẻ em (theo kết quả CBCL cho trẻ em từ 6 - 18 tuổi) ............................................................. 81 Bảng 3.16. Mối quan hệ giữa giới tính và các vấn đề SKTT ở trẻ em (CBCL 6 – 18 tuổi) .... 82 Bảng 3.16. Mối quan hệ giữa biến giới tính và vấn đề SKTT ở trẻ em từ 12 – 18 tuổi ................................................................................................................................. 83 Bảng 3.17. Mối quan hệ giữa biến CSCSGD trẻ và SKTT trẻ em ............................... 85 8 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh ĐTB tổng thang đo YSR và CBCL............................... 60 Biểu đồ 3.2. Biểu đồ biểu diễn ĐTB tám nhóm hội chứng SKTT ở trẻ em 12 – 18 tuổi (theo CBCL và YSR) ............................................................................................. 64 Biểu đồ 3.4.Biểu đồ biểu diến tỉ lệ % trẻ mắc vấn đề SKTT ở mức lâm sàng theo từng hội chứng (YSR và CBCL) ................................................................................... 75 9 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đối tượng trẻ mồ côi/ bị bỏ rơi là nhóm đối tượng yếu thế, có nhiều nguy cơ mắc các vấn đề SKTT, cần đặc biệt quan tâm, trợ giúp. Thiên tai, nghèo đói, bệnh tật, tai nạn giao thông, các tệ nạn xã hội, HIV/AIDS… đang hàng ngày, hàng giờ cướp đi cha mẹ của rất nhiều trẻ em trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Ước tính trên toàn thế giới có khoảng 153 triệu trẻ em từ 0 – 17 tuổi mồ côi hoặc bị bỏ rơi (UNAIDS); trên 2,6 triệu trẻ em Việt Nam sống trong hoàn cảnh “đặc biệt”, trong đó bao gồm 168,000 trẻ mồ côi và bị bỏ rơi. Theo thống kê của Bộ LĐ –TBXH, Việt Nam hiện có khoảng 14,000 trẻ mồ côi, bị bỏ rơi sống trong các cơ sở bảo trợ của nhà nước [4-tr16]. Nghịch cảnh mồ côi không chỉ tước đi tình yêu thương, sự che chở của cha mẹ mà còn là một cú sốc tinh thần đau đớn đối với trẻ em. Đây cũng là một đòn giáng đẩy trẻ em vào tình cảnh đầy rẫy nguy cơ, cụ thể như: đối diện với đói nghèo, thất học, tự lao động để kiếm sống; bị lạm dụng, xâm hại, buôn bán; nguy cơ gặp các vấn đề SKTT, sử dụng chất gây nghiện hoặc có hành vi vi phạm pháp luật. Một số nghiên cứu về trẻ mồ côi cho thấy: Sự mất mát cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ thường dẫn tới các nguy cơ: ly tán của thành viên còn lại trong gia đình, nghèo đói, bị hạn chế cơ hội tiếp cận với các dịch vụ cơ bản, bị kỳ thị, tẩy chay [16]; nhiều trẻ mồ côi phải đảm đương vai trò chủ gia đình, chăm sóc các em nhỏ hơn khi bản thân cũng đang ở độ tuổi trẻ em hoặc vị thành niên [40]. Trẻ mồ côi thường bị buộc phải chấp nhận tình trạng lạm dụng và bóc lột lao động để tồn tại [16]. Tình cảnh mồ côi đặc biệt gây ảnh hưởng đến những em gái bởi các em thường là những em đầu tiên trong số những thành viên còn lại phải bỏ học, chăm sóc em và đảm nhận những nhiệm vụ như một người lớn [20]; Nhiều trẻ em bị buộc phải tham gia vào hoạt động bán dâm, những em này phải đối diện với nguy cơ cao về thể chất và tâm lý [17]. Nhiều nghiên cứu khi so sánh các vấn đề SKTT và tổn thương tâm lý ở trẻ mồ côi và các nhóm trẻ khác đã cho biết: “Những trải nghiệm chấn thương, mất mát thời thơ ấu có thể gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý và sự phát triển của trẻ, bởi khi đó hệ thống thần kinh trung ương và các chức năng nhận thức vẫn 10 chưa hoàn toàn trưởng thành, trẻ rơi vào tình huống không thể kiểm soát, và những trẻ em phải trải nghiệm chấn thương thời thơ ấu dễ có xu hướng bị trầm cảm ở tuổi trưởng thành" [12]. Trẻ mồ côi gặp nhiều vấn đề SKTT hơn và “phải trải nghiệm trạng thái đau khổ hơn nhóm trẻ không mồ côi cả về tần suất và mức độ” [37]. Cụ thể, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng: Trẻ mồ côi cảm thấy bất hạnh và lo lắng hơn những nhóm khác; trẻ mồ côi có mức độ lạc quan thấp; trẻ mồ côi có mức độ lo lắng và điểm số trầm cảm cao hơn; hay giận dữ hơn, tuyệt vọng có ý tưởng tự sát cao hơn những trẻ em khác; trẻ mồ côi có ít khả năng có những người bạn tốt, nguy cơ PTSD cao… [29]. Các nhà nghiên cứu cũng đưa ra bằng chứng về những tổn thương tâm lý ở trẻ mồ côi bao gồm: lo lắng, trầm cảm, tức giận, cô đơn, lòng tự trọng thấp, thu mình, và các vấn đề giấc ngủ. Sự đau khổ này thường có liên quan đến các yếu tố như: cú sốc tâm lý do mất cha, mẹ; phải nghỉ học; không được chăm sóc hoặc được chăm sóc không đầy đủ bởi người không phải cha, mẹ mình; bị bạo hành, bị lạm dụng sức lao động, bị kỳ thị và phân biệt đối xử [37]. Theo thống kê của Unicef năm 2004 [65], mỗi ngày trên toàn thế giới có thêm 5.760 trẻ em trở thành trẻ mồ côi. Mỗi năm 14, 505, 000 trẻ mồi côi lớn lên (trên 16 tuổi) và buộc phải ra ngoài hệ thống quản lý, chăm sóc trẻ mồ côi của nhà nước và các tổ chức xã hội. Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng 10% - 15% trong số những trẻ em nói trên tự tử trước khi chúng đến tuổi mười tám. Những nghiên cứu này cũng cho thấy rằng 60% các trẻ em gái trở thành gái mại dâm và 70% trẻ trai trở thành tội phạm. Một nghiên cứu khác báo cáo rằng mỗi năm có tới 15.000 trẻ em mồ côi bị ra khỏi hệ thống quản lý chăm sóc của nhà nước. 10% trong số những trẻ em nói trên đã thực hiện hành vi tự tử, 5.000 em bị thất nghiệp, 6.000 em vô gia cư và 3.000 em bị vào nhà tù trong vòng ba năm sau khi bị ra khỏi hệ thống ... [65]. Những thông tin và những con số thống kê đã chứng minh rằng: Trẻ mồ côi/bị bỏ rơi là nhóm đối tượng phải trải qua chấn thương tâm lý từ thơ ấu, có nhiều thiệt thòi về tình cảm, điều kiện chăm sóc, giáo dục; là đối tượng phải đối diện với nhiều nguy cơ về sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe tâm thần, cần được ưu tiên quan tâm, trợ giúp. 11 Vấn đề SKTT nếu không được can thiệp, trợ giúp thường gây ra những hệ quả tiêu cực đối với đời sống cá nhân và cộng đồng. Theo nghiên cứu của WHO, hầu hết các rối loạn tâm thần đều khởi phát trước năm 14 tuổi. Trẻ em nhỏ và trẻ em trong độ tuổi vị thành niên đang ở giai đoạn phát triển nền tảng của mỗi cá nhân, do đó ở góc độ cá nhân những vấn đề SKTT có thể gây xáo trộn đến toàn bộ đời sống, từ việc học hành, đến hoạt động tìm kiếm việc làm, lập gia đình cũng như thiết lập các mối quan hệ xã hội. Rối loạn tâm thần có thể dẫn đến thất nghiệp, vô gia cư, bị bỏ tù, và nghèo đói. Việc không được can thiệp sớm khiến vấn đề có thể kéo dài, hoặc trở nên trầm trọng hơn, ảnh hưởng đến cá nhân trong giai đoạn trưởng thành. Hiệp hội Y học Anh Quốc đã củng cố luận điểm này bằng con số: 50% thanh niên có rối loạn hành vi, cảm xúc khởi phát từ tuổi 15 mà không được can thiệp hỗ trợ. Kết quả của nhiều nghiên cứu khác cũng khẳng định[69]: “Rối loạn trầm cảm chủ yếu thường khởi phát ở tuổi niên thiếu, và có liên quan tới sự suy giảm một cách đáng kể các chức năng tâm lý xã hội cũng như nguy cơ tự tử”; “Rối loạn hành vi có xu hướng kéo dài đến tuổi vị thành niên và thanh niên, đồng thời có liên quan tới tình trạng phạm pháp, vấn đề hôn nhân, thất nghiệp và cũng như sức khỏe thể chất ở tuổi trưởng thành”(WHO)… Ở góc độ xã hội, các vấn đề SKTT luôn được xếp vào danh sách những nguyên nhân hàng đầu gây gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Các nghiên cứu thống kê cho biết: Các vấn đề SKTT là rối loạn trầm cảm chủ yếu; rối loạn sử dụng rượu; tự làm hại bản thân; tâm thần phân liệt và rối loạn lưỡng cực là 5 trong 10 nguyên nhân hàng đầu dẫn đến khuyết tật ở thanh thiếu niên và người trưởng thành [60]. Tự tử đứng hàng thứ ba trong số những nguyên nhân gây ra tử vong ở thanh thiếu niên trên toàn thế giới và 90% các vụ tự tử có nguyênnhân từ các vấn đề SKTT [67]. Mỗi năm có tới 10% - 15% trong tổng số 14, 505, 000 trẻ mồ côi từ 16 – 17 tuổi bị ra khỏi hệ thống chăm sóc, bảo trợ của nhà nước có hành vi tự tử [65]. Bên cạnh những hệ quả nghiêm trọng đối với sức khỏe và sự phát triển nói chung của cá nhân, cộng đồng, các vấn đề SKTT cũng đòi hỏi các quốc gia, cộng đồng phải tiêu tốn rất nhiều kinh phí cho việc can thiệp, dự phòng cũng như giảm thiểu tác hại do chúng gây ra. 12 Theo báo cáo năm 2001 của Tổ chức Y Tế thế giới, phí tổn cho các vấn đề SKTT chiếm tỉ lệ khoảng 12% trên tổng số bệnh [68]. Cụ thể phí tổn cho các vấn đề SKTT ở một số quốc gia cũng cho những con số đáng kinh ngạc: Mỗi năm Mỹ tiêu tốn trên 150 tỷ USD cho việc điều trị, các dịch vụ xã hội, các khoản thanh toán và trợ cấp cho những người bị mắc bệnh tâm thần [67]. Ở Canada số tiền để chi trả cho các vấn đề SKTT lên tới 51 tỷ USD [15] nhưng mới chỉ đáp ứng nhu cầu trợ giúp của 25% trẻ em có vấn đề SKTT, 75% trẻ em có vấn đề SKTT còn lại chưa được điều trị và trợ giúp [53]. Kết quả nghiên cứu theo chiều dọc tại Anh cho biết các chi phí đầu tư cho trẻ em bị rối loạn tâm thần cao gấp 10 lần cho trẻ em không có những vấn đề này. Xét về lâu dài, với những trường hợp rối loạn tâm thần không được điều trị, những chi phí thường để dành chi trả cho các dịch vụ bên ngoài hệ thống chăm sóc y tế, chẳng hạn như tư pháp, hình sự, giáo dục đặc biệt, chăm sóc nuôi dưỡng và hỗ trợ thu nhập [41]. Ở Việt Nam, mặc dù thiệt hại do các vấn đề SKTT gây ra chưa được thống kê đầy đủ, nhưng thông tin từ Dự án Chăm sóc SKTT cho cộng đồng cho biết kinh phí hàng năm chính phủ dành cho việc chăm sóc SKTT của toàn dân ngà y mô ̣t tăng (năm 2010 là 60 tỷ đồng còn năm 2011 là 70 tỷ đồng ). Tuy nhiên, đây còn là một con số khiêm tốn và thường được dùng để chi trả cho việc điều trị cho một số bệnh nhân có vấn đề SKTT nặng, bao gồm cả người lớn và trẻ em. Ở Việt Nam có rất ít các chương trình phòng ngừa vấn đề SKTT cho trẻ em, có rất ít trẻ em mồ côi có vấn đề SKTT được chẩn đoán và chăm chữa. Ở Việt Nam hiện nay còn thiếu những nghiên cứu, những chương trình can thiệp, phòng ngừa vấn đề SKTT cho trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi Trong những năm gần đây, Chính phủ và các tổ chức xã hội ở Việt Nam đã quan tâm đến nhóm trẻ em dễ bị tổn thương và có nhu cầu cần được quan tâm đặc biệt nói trên, do đó đã triển khai nhiều chính sách, chương trình hành động vì nhóm đối tượng này. Tuy nhiên những chương trình can thiệp, hỗ trợ này thường chỉ tập trung vào việc trang bị các điều kiện cơ sở vật chất, chăm lo về vấn đề giáo dục, sức khỏe thể chất mà chưa quan tâm một cách thỏa đáng đến các vấn đề SKTT. Ở Việt 13 Nam cho đến nay cũng chưa có nghiên cứu nào khảo sát vấn đề thực trạng SKTT của trẻ em sống trong các cơ sở chăm sóc, giáo dục (CSCSGD) trẻ mồ côi. Việc nghiên cứu đề tài “Thực trạng vấn đề sức khỏe tâm thần trẻ em từ 6 – 18 tuổi tại TTBTXH Lâm Đồng và Làng trẻ SOS Hải Phòng” sẽ là cuộc khảo sát đầu tiên về thực trạng SKTT của trẻ em sống trong các cơ sở chăm sóc, giáo dục trẻ mồ côi, bị bỏ rơi ở Việt Nam. Nghiên cứu này nhằm trả lời câu hỏi:  Tỉ lệ trẻ em trong 02 cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mồ côi/ bị bỏ rơi trên đang có vấn đề SKTT là bao nhiêu?  Những yếu tố về mặt độ tuổi, giới tính, đặc điểm cơ sở chăm sóc, giáo dục trẻ có liên quan như thế nào đến tình trạng SKTT của các em? Câu trả lời cho những câu hỏi nghiên cứu trên sẽ chính là căn cứ để xây dựng các chương trình can thiệp hiệu quả tại hai địa bàn nghiên cứu, đồng thời sẽ là bằng chứng khoa học để các cơ sở chăm sóc, giáo dục trẻ mồ côi khác có thể tham khảo trong quá trình xây dựng chương trình can thiệp SKTT tại cơ sở mình quản lý. 2. Mục đích nghiên cứu Chỉ ra thực trạng các vấn đề SKTT và phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề SKTT của trẻ em tại 02 cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mồ côi/ bị bỏ rơi nhằm đưa ra những khuyến nghị thúc đẩy hoạt động chăm sóc sức khỏe tâm thần cho trẻ mồ côi. 3. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Thực trạng các vấn đề SKTT của trẻ em trong độ tuổi 6 đến 18 tuổi tại Làng trẻ SOS Hải Phòng và Trung tâm BTXH Lâm Đồng. 3.2 . Khách thể nghiên cứu Khách thể tham gia vào khảo sát của chúng tôi là: - 150 trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 18 tuổi tại TTBTXH Lâm Đồng và Làng Trẻ SOS Hải Phòng. - 22 người đóng vai trò trực tiếp chăm sóc, quản lý, giáo dục 150 trẻ em nói trên tại 02 địa bàn nghiên cứu (bao gồm các mẹ nuôi tại làng trẻ SOS và các cán bộ giáo dục và quản lý trực tiếp ở TTBTXH Lâm Đồng). 14 4. Giả thuyết nghiên cứu - Tỉ lệ trẻ em có vấn đề SKTT ở trẻ em từ 6 đến 18 tuổi dao động trong khoảng 25 – 30%. - Có sự khác biệt nhất định giữa kết quả đánh giá của người chăm sóc và trẻ em về thực trạng vấn đề SKTT của chính các em. - Những yếu tố về mặt độ tuổi, giới tính, đặc điểm cơ sở chăm sóc giáo dục trẻ có liên quan đến thực trạng vấn đề SKTT của trẻ em. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về sức khỏe tâm thần - Chỉ ra thực trạng vấn đề SKTT của trẻ em từ 6 – 18 tuổi tại TTBTXH Lâm Đồng và Làng trẻ SOS Hải Phòng. - Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề SKTT của trẻ em tại 02 cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mồ côi/ bị bỏ rơi. - Đề xuất một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động chăm sóc SKTT cho trẻ em trong các cơ sở chăm sóc, giáo dục trẻ mồ côi, bị bỏ rơi. 6. Giới hạn nghiên cứu 6.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu - Trong nghiên cứu này tôi chỉ tập trung đánh giá tỷ lệ, phân loại các vấn đề SKTT, đánh giá mức độ của các vấn đề SKTT ở trẻ em từ 6 – 18 tuổi tại 02 địa bàn nghiên cứu và phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề SKTT của trẻ em tại 02 cơ sở chăm sóc, giáo dục trẻ mồ côi/ bị bỏ rơi mà chưa có điều kiện đi sâu phân tích nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên. - Kết quả nghiên cứu này chỉ dừng lại ở mức độ sàng lọc, chưa có giá trị chẩn đoán về tình trạng SKTT ở các khách thể nghiên cứu. 6.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu này chưa có điều kiện triển khai rộng khắp tại các cơ sở chăm sóc, giáo dục trẻ mồ côi/ bị bỏ rơi đang có ở Việt Nam mà chỉ triển khai nghiên cứu tại TTBTXH Lâm Đồng và Làng trẻ SOS Hải Phòng, do vậy kết quả nghiên cứu không đủ hiệu lực để kết luận về thực trạng các vấn đề SKTT của trẻ mồ côi/ bị bỏ rơi nói chung trên toàn lãnh thổ Việt Nam. 15 6.3. Nguồn thông tin - Thông tin do trẻ tự cung cấp - Thông tin do người trực tiếp chăm sóc, quản lý trẻ cung cấp 7. Phƣơng pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sử dụng phương pháp này nhằm nghiên cứu các tài liệu, văn bản có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài. Từ đó định hướng cho việc xây dựng, chọn lọc công cụ nghiên cứu. Nghiên cứu tài liệu cũng giúp tác giả giới hạn lại phạm vi cũng như các mức độ nghiên cứu của đề tài. 7.2. Phương pháp điều tra (bằng bảng hỏi chuẩn hóa): Sử dụng hai thang đo trong hệ thống đánh giá dựa trên thực chứng của Achenbach. Cụ thể các thang đo được sử dụng trong nghiên cứu này là: Phiếu liệt kê hành vi trẻ em - Dành cho trẻ em tự điền (YSR), Phiếu liệt kê các hành vi trẻ em tuổi từ 6-18 tuổi - dành cho người chăm sóc, quản lý trẻ (CBCL). 7.3. Phương pháp thống kê toán học: Phương pháp này được sử dụng nhằm xử lý các số liệu thu được từ phương pháp điều tra bằng hai thang đo trong hệ thống đánh giá dựa trên thực chứng của Achenbach. Các phép tính được sử dụng là: Tính ĐTB, đếm, phân tích T-test. 8. Đóng góp mới của luận văn - Đây là luận văn đầu tiên đánh giá thực trạng vấn đề SKTT của trẻ em sống trong CSCSGD trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, sử dụng công cụ sàng lọc đã được tiêu chuẩn hóa. - Kết quả của nghiên cứu là nguồn dữ liệu mang tính dự báo cho các vấn đề SKTT của trẻ em sống trong hai CSCSGD trẻ mồ côi, là nguồn tài liệu tham khảo cho các cá nhân, tổ chức quan tâm đến SKTT trẻ mồ côi trong việc xây dựng những chương trình phòng ngừa và can thiệp SKTT cho trẻ mồ côi, bị bỏ rơi. 9. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu Chương 3: Kết quả nghiên cứu. 16 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Một số khái niệm cơ bản đƣợc sử dụng trong luận văn 1.1.1. Khái niệm trẻ em sống trong TTBTXH và Làng trẻ mồ côi 1.1.1.1. Khái niệm trẻ em Theo công ước quốc tế về Quyền trẻ em: Trẻ em được coi là những người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên dựa trên những cơ sở khác nhau, căn cứ theo những mục tiêu riêng, trẻ em được quy định trong Luật bảo vệ chăm sóc – giáo dục trẻ em Việt Nam năm 2004 “ là những công dân Việt Nam dưới 16 tuổi“. Độ tuổi thực tế của trẻ em được nuôi dưỡng, giáo dục tại Làng trẻ SOS Hải Phòng và TTBTXH tỉnh Lâm Đồng hầu hết là những trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi trong độ tuổi từ 0 – 18 tuổi do vậy trong nghiên cứu này tôi xác định độ tuổi trẻ em từ 0 – 18 tuổi dựa theo Công ƣớc Quốc Tế về Quyền trẻ em và tập trung nghiên cứu các vấn đề SKTT của nhóm trẻ em từ 6 – 18 tuổi. 1.1.1.2. Trẻ mồ côi, bị bỏ rơi Trẻ mồ côi được định nghĩa là những em trong độ tuổi từ 0 – 18 tuổi có cha hoặc mẹ, hoặc cả cha lẫn mẹ bị tử vong. Trẻ em bị bỏ rơi là những trẻ em không được cha mẹ thừa nhận, yêu thương, chăm sóc. Cha mẹ bỏ rơi trẻ ở các địa điểm khác nhau như: bệnh viện, nhà chùa, làng trẻ mồ côi, hoặc bất kỳ một địa điểm nào khác. Hầu hết những trẻ em này đều bị bỏ rơi từ khi mới sinh ra và không biết cha mẹ mình là ai, chỉ trừ một số trường hợp cha mẹ đột nhiên bỏ đi biệt tích khi trẻ đang sống cùng cha mẹ hoặc bỏ đi kết hôn với người khác mà không hề quan tâm đến trẻ. Nhìn chung, có thể nói tất cả trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi đều thuộc nhóm trẻ đặc biệt (trẻ có nhu cầu đặc biệt), hoặc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (theo Luật bảo vệ, chăm sóc trẻ em) cần được sự quan tâm, chăm sóc của nhà nước và cộng đồng xã hội. 1.1.1.3. Trẻ em trong các cơ sở chăm sóc, giáo dục trẻ mồ côi, bị bỏ rơi 17 Trung tâm bảo trợ xã hội (TTBTXH) và làng trẻ mồ côi hiện đang là hai mô hình chăm sóc, giáo dục trẻ em mồi côi, bị bỏ rơi nói riêng và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nói chung phổ biến nhất ở Việt Nam. Nhìn chung theo quy định của Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em tại Việt Nam, các TTBTXH và Làng trẻ mồ côi có chức năng, nhiệm vụ là chăm sóc, quản lý, giáo dục các nhóm trẻ em dưới đây: (1) Trẻ mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng; (2) Trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là cha hoặc mẹ mất tích theo quy định tại Điều 78 Bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật; (3) Ngoài ra, trong một số trường hợp trung tâm chăm sóc, giáo dục trẻ có thể xét duyệt và tiếp nhận một số ít trẻ thuộc diện đối tượng: Trẻ em có cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, không còn người nuôi dưỡng; Trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ gia đình nghèo, thuộc diện đặc biệt khó khăn không tự lo được cuộc sống; Người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nhưng đang đi học văn hóa, học nghề, có hoàn cảnh như trẻ em nêu trên thuộc diện đặc biệt khó khăn không tự lo được cuộc sống; Tuy nhiên, theo quy định riêng về việc tiếp nhận đối tượng chăm sóc và theo đặc điểm thực tế nhóm trẻ em tại Trung tâm bảo trợ xã hội Lâm Đồng và Làng trẻ SOS Hải Phòng tại thời điểm tiến hành nghiên cứu, tất cả trẻ em trong mẫu của chúng tôi là trẻ mồ côi, bị bỏ rơi (Chúng tôi sẽ trình bày cụ thể về mẫu nghiên cứu trong chương 2, chương tổ chức nghiên cứu). 1.2. Khái niệm vấn đề sức khỏe tâm thần 1.2.1. Khái niệm sức khỏe Từ năm 1947 đến nay khái niệm sức khỏe đã được hầu hết các quốc gia, các tổ chức làm việc trong lĩnh vực sức khỏe hiểu một cách thống nhất như sau: "Sức khỏe không chỉ là tình trạng không có bệnh tật mà còn là tình trạng hoàn toàn thoải mái về thể chất, tâm thần, và xã hội". (Tổ chức Y tế thế giới - WHO) - Hoàn toàn thoải mái về mặt thể chất là một trạng thái khỏe mạnh, không có bệnh tật hay dị tật về mặt thế chất; hoạt động thể lực, hình dáng cũng như các hoạt 18 động khác như ăn, ngủ, tình dục, tiêu tiểu bình thường; có đủ năng lượng để thực hiện các hoạt động thường nhật trong cuộc sống… Sức khỏe thể chất còn biểu hiện ở sức lực con người với cơ bắp mạnh mẽ, con người có khả năng mang vác; phản ứng nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, sự dẻo dai, thoải mái trong các thao tác lao động và trong cuộc sống hàng ngày. Con người khỏe mạnh có thể làm việc không mệt mỏi khá lâu, khả năng chống đỡ bệnh tật tốt, ít đau ốm và nếu có ốm đau thì mau khỏi; khả năng thích nghi tốt với các thay đổi thường xuyên và đột ngột của môi trường. - Hoàn toàn thoải mái về mặt tâm thần là một trạng thái không chỉ không có rối loạn hay dị tật tâm thần mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái, bình an, cân bằng về xúc cảm, có khả năng đương đầu với những áp lực, căng thẳng trong cuộc sống; có cảm xúc tình cảm và hành vi ứng xử phù hợp với nhu cầu của xã hội. Sức khỏe tâm thần còn biểu hiện ở chỗ con người cảm thấy hài lòng, thỏa mãn, vui tươi, yêu đời, tự tin, từ đó mà quản lí được hành vi của mình và cư xử đúng mực và tôn trọng mọi người xung quanh trên cơ sở ý thức đầy đủ về giá trị của bản thân…, có ý nghĩa quan trọng vô cùng trong đời sống con người nói riêng và xã hội nói chung. - Hoàn toàn thoải mái về mặt xã hội là trạng thái thể hiện khả năng hòa nhập của một cá nhân vào môi trường xã hội (gia đình, trường học, cộng đồng...) và khả năng tác động nhằm cải biến môi trường đó. Ba thành phần trên có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Cơ thể bị tổn thương, ốm yếu dễ gây tâm trạng bi quan, lo âu, phiền muộn, cáu gắt, uể oải, giảm hứng thú…, tức gây ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần. Ngược lại, khi trạng thái tinh thần không thoải mái, thường xuyên lo âu, sợ hãi, buồn chán… hoăc bị rối loạn tâm thần nặng đều kéo theo các rối loạn hoạt động chức năng cũng như làm giảm khả năng miễn dịch của cơ thể [1, tr 22]. Mặt khác khi sức khỏe thể chất và tâm thần không khỏe mạnh cũng dễ dẫn tới những biểu hiện không khỏe mạnh về mặt xã hội như: giảm nhu cầu, hứng thú giao tiếp; làm hạn chế khả năng hòa nhập, thích ứng với môi trường xã hội; hạn chế khả năng đóng góp cho xã hội. 1.2.2. Khái niệm Sức khỏe tâm thần (SKTT) Trước đây sự khỏe mạnh về tâm thần từng được hiểu là không bị chẩn đoán với bất cứ một loại bệnh tâm thần nào như bị tâm thần phân liệt (dân gian vẫn gọi là 19 điên), trầm cảm, động kinh… Song gần đây quan niệm về SKTT đã thay đổi, nhiều người đã nhận ra và đồng ý rằng SKTT không đơn thuần là sự vắng mặt của bệnh tâm thần. Mặc dù vậy, cho đến nay ở Việt Nam vẫn đang tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về SKTT. Theo Từ điển Tâm lý học, sức khỏe tâm thần „„là trạng thái thoải mái, dễ chịu về tinh thần, không có các biểu hiện rối loạn về tâm thần, một trạng thái đảm bảo cho sự điều khiển hành vi, hoạt động phù hợp với môi trường"[1]. Theo Lâm Xuân Điền "Sức khỏe tâm thần là khả năng của bộ máy tâm lý hoạt động một cách hoàn toàn hợp lý, có hiệu quả và đương đầu một cách mềm dẻo trước những tình huống khó khăn mà vẫn có thể tìm lại được sự cân bằng cho mình"[2]. Hoàng Cẩm Tú lại sử dụng định nghĩa “SKTT là một trạng thái không chỉ có rối loạn hay dị tật tâm thần mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái, cân bằng về cảm xúc, hòa hợp giữa các mối quan hệ gia đình, xã hội, có cảm xúc, hòa hợp giữa các mối quan hệ gia đình, xã hội, có cảm xúc, tình cảm và hành vi ứng xử phù hợp với nhu cầu của xã hội” [5]. Các quan niệm kể trên đều có điểm chung là nhìn nhận SKTT theo nghĩa rộng, coi SKTT không đơn thuần là tình trạng không có dị tật hay bệnh lý về mặt tinh thần. Chúng cũng khá tương đồng với định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế Giới (WHO), coi SKTT “là một trạng thái hoàn toàn thoải mái, trong đó con người cảm nhận được năng lực của chính mình, có thể đối mặt với những căng thẳng thường gặp trong cuộc sống, có thể làm việc hiệu quả và có khả năng đóng góp cho cộng đồng” [68]. Như vậy theo các định nghĩa trên SKTT cần được xem xét ở cả 2 góc độ: Sự khỏe mạnh về SKTT và tình trạng có vấn đề về SKTT. Trong 1.2.3. Phân biệt tình trạng SKTT tốt và tình trạng có vấn đề SKTT Nếu xem xét trên một phổ liên tục từ bình thường đến bất thường bệnh lý, từ nhẹ đến nặng, có tính chất nhất thời hoặc kéo dài, SKTT bao gồm các trạng thái sau: 1.2.3.1. SKTT tốt Nhiều tác giả đã đề cập đến việc xác định như thế nào là một trạng thái SKTT tốt. Lâm Xuân Điền cho rằng cá nhân có trạng thái SKTT tốt nếu: “Tạo được sự thích nghi với môi trường sống, một sự sảng khoái về tinh thần, một mối quan hệ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan