Phương Tây có câu: “Gặp nhau nhìn quần áo, tiễn nhau nhìn tâm hồn”. Quả đúng như vậy, khi đánh giá, nhìn nhận một con người, người ta không chỉ đánh giá họ qua hình thức bề ngoài, mà còn quan tâm đến nhân cách – chủ thể của các hoạt động và giao tiếp. Nhân cách trong tâm lý học là một phạm trù nền tảng, và là một “mắt xích” quan trọng trong khoa học xã hội, nắm vững những vấn đề nhân cách giúp ta hiểu rõ hơn các vấn đề xã hội – lịch sử. Nhân cách là mặt cốt lõi của sự phát triển tâm lý con người, của sự tự ý thức và điều chỉnh bản thân, nên khi giải quyết các vấn đề nhân cách cho phép giải quyết những vấn đề khác của Tâm lý học và nhiều lĩnh vực khác như giáo dục, y học… Vì vậy, nghiên cứu các vấn đề về nhân cách có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Quá trình hình thành nhân cách chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: yếu tố bẩm sinh – di truyền, môi trường tự nhiên, hoàn cảnh xã hội, giáo dục, hoạt động cá nhân… Có nhiều quan điểm khác nhau bàn về các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách: quan điểm tuyệt đối hóa yếu tố này hoặc yếu tố khác. Vậy sự hình thành và phát triển nhân cách chịu sự ảnh hưởng của yếu tố nào? Và ảnh hưởng ra sao?
Trong xã hội hiện nay, môi trường toàn cầu hóa, ngoài những cơ hội, thuận lợi còn những thách thức lệch lạc của các yếu tố dễ dẫn đến sự phát triển méo mó về nhân cách cá nhân. Như thế, vấn đề nhân cách cần được đặt ra một cách cấp thiết hơn. Hay nói một cách rõ hơn, thời kì hội nhập, bên cạnh những giá trị văn hóa, văn minh tốt đẹp của các nước bạn đáng để chúng ta tiếp thu, học hỏi thì còn có sự du nhập của những chuẩn mực ngoại lai, trong những chuẩn mực này có cái là văn hóa, giá trị tích cực, nhưng có cái lại là những giá trị đi sai chuẩn mực tốt đẹp của xã hội. Những chuẩn mực về nhân cách đan xen làm cho nhân cách khó khăn trong việc xác định phương hướng lựa chọn và thực hiện hành vi. Vì thế, việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách là rất cần thiết, không những giúp ta hoàn thiện hơn về mặc lý luận mà còn có vai trò rất quan trọng trong thực tiễn nhằm có sự định hướng phát triển nhân cách cho mỗi cá nhân cũng như bản thân theo hướng tích cực.
Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: “Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách” để tìm hiểu.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
A. MỞ ĐẦU.
1.
Lý do chọn đề tài
Phương Tây có câu: “Gặp nhau nhìn quần áo, tiễn nhau nhìn tâm hồn”. Qua
đúng như vâ ây, khi đánh giá, nhìn nhận một con người, người ta không chỉ đánh giá họ
qua hình thức bề ngoài, mà còn quan tâm đến nhân cách – chủ thể của các hoạt động
và giao tiếp. Nhân cách trong tâm lý học là một phạm trù nền tang, và là một “mắt
xích” quan trọng trong khoa học xã hội, nắm vững những vấn đề nhân cách giúp ta
hiểu rõ hơn các vấn đề xã hội – lịch sử. Nhân cách là mặt cốt lõi của sự phát triển tâm
lý con người, của sự tự ý thức và điều chỉnh ban thân, nên khi giai quyết các vấn đề
nhân cách cho phép giai quyết những vấn đề khác của Tâm lý học và nhiều lĩnh vực
khác như giáo dục, y học… Vì vậy, nghiên cứu các vấn đề về nhân cách có ý nghĩa lý
luận và ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Quá trình hình thành nhân cách chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: yếu tố bẩm
sinh – di truyền, môi trường tự nhiên, hoàn canh xã hội, giáo dục, hoạt động cá nhân…
Có nhiều quan điểm khác nhau bàn về các yếu tố anh hưởng đến sự hình thành và phát
triển nhân cách: quan điểm tuyệt đối hóa yếu tố này hoặc yếu tố khác. Vậy sự hình
thành và phát triển nhân cách chịu sự anh hưởng của yếu tố nào? Và anh hưởng ra
sao?
Trong xã hội hiện nay, môi trường toàn cầu hóa, ngoài những cơ hội, thuận lợi
còn những thách thức lệch lạc của các yếu tố dễ dẫn đến sự phát triển méo mó về nhân
cách cá nhân. Như thế, vấn đề nhân cách cần được đặt ra một cách cấp thiết hơn. Hay
nói một cách rõ hơn, thời kì hội nhập, bên cạnh những giá trị văn hóa, văn minh tốt
đẹp của các nước bạn đáng để chúng ta tiếp thu, học hỏi thì còn có sự du nhập của
những chuẩn mực ngoại lai, trong những chuẩn mực này có cái là văn hóa, giá trị tích
cực, nhưng có cái lại là những giá trị đi sai chuẩn mực tốt đẹp của xã hội. Những
chuẩn mực về nhân cách đan xen làm cho nhân cách khó khăn trong việc xác định
phương hướng lựa chọn và thực hiện hành vi. Vì thế, việc nghiên cứu các yếu tố anh
hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách là rất cần thiết, không những giúp ta
hoàn thiện hơn về mặc lý luận mà còn có vai trò rất quan trọng trong thực tiễn nhằm
có sự định hướng phát triển nhân cách cho mỗi cá nhân cũng như ban thân theo hướng
tích cực.
Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: “Các yếu tố anh hưởng đến sự hình thành và
phát triển nhân cách” để tìm hiểu.
2.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 1
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Đề tài nghiên cứu các yếu tố anh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân
cách.
3.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu lý luận chung về nhân cách.
- Nghiên cứu các yếu tố anh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
- Liên hệ thực tế trong công tác giáo dục nhân cách cho học sinh.
4.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Nhân cách.
5.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Đọc.
- Phân tích- tổng hợp.
- Khái quát.
- Đánh giá.
- Logic.
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 2
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
B. NỘI DUNG.
1.
1.1.
Khái niệm chung về nhân cách
Định nghĩa nhân cách
Để định nghĩa về nhân cách trước tiên cần nắm được khái niệm con người, cá
nhân, cá tính là gì ?
Con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội. Con người thuộc về
thế giới tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên. Mặt khác, con người vừa là chủ thể,
vừa là khách thể trong các mối quan hệ xã hội. Vì thế, sự phát triển của con người còn
chịu sự chi phối của các qui luật xã hội. Mặt tự nhiên và mặt xã hội thống nhất với
nhau tạo thành một cấu trúc chỉnh thể- con người.
Cá nhân là thuật ngữ dung để chỉ một con người với tư cách là đại diện của loài
người, là thành viên của xã hội loài người. Mỗi cá nhân là sự phân biệt với người khác,
với cộng đồng. Cá nhân thực hiện một hoạt động nhất định, một cách có ý thức và có
mục đích (hoạt động trí óc hay chân tay, hoạt động lý luận hay thực tiễn) nhận thức và
cai tạo thế giới xung quanh trong quá trình hoạt động đó thì nó là chủ thể. Nhưng cần
thấy rằng, một cá nhân tham gia một hoạt động nào đó không phai lúc nào cũng là chủ
thể của hoạt động đó, đó là những lúc do bị kích thích từ bên ngoài.
Khi xem xét, nghiên cứu những đặc điểm thể chất và tâm lý (thể trạng, kiểu
thần kinh, tính cách…) của mỗi cá thể người là chúng ta nói đến cá tính. Cá tính được
hình thành trên cơ sở của những tố chất di truyền bằng hoạt động dạy học và giáo dục,
dưới anh hưởng của xã hội và môi trường xã hội mà trong đó con người sống và làm
việc.
Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của một xã hội nhất định,
là chủ thể của các mối quan hệ con người, của hoạt động có ý thức và giao lưu, có
nghĩa là chúng ta nói đến nhân cách của họ. Nhân cách không phai được sinh ra, mà là
được hình thành (A.N.Lêônchiép). Nhà Tâm lý học Xô Viết nỗi tiếng X.L.Rubinstêin
đã viết: “Con người là cá tính do nó có những thuộc tính đặc biệt không lặp lại, con
người là nhân cách do nó xác định được quan hệ của mình với những người xung
quanh một cách có ý thức.” .
Nhân cách được hình thành và phát triển nhờ những quan hệ xã hội mà trong đó
cá nhân đang lớn lên và đang được biến đổi phẩm chất tự nhiên, do trong quá trình
sống chính họ làm nên biến đổi đó, bắt đầu quá trình hoạt động sống của mình. Nhân
cách là tổng hòa không phai mọi đặc điểm của con người, mà chỉ là những đặc điểm
nào quy định con người như là một thành viên xã hội, như là một công dân, một người
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 3
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
lao động, một nhà hoạt động có ý thức. Nói cách khác, nhân cách là toàn bộ những đặc
điểm, phẩm chất tâm lý của cá nhân, quy định giá trị xã hội, hành vi xã hội của họ.
1.2. Đặc điểm của nhân cách.
Nhân cách có bốn đặc điểm cơ ban:
Tính ổn định của nhân cách
Mặc dù từng nét nhân cách (thuộc tính và phẩm chất) trong quá trình hoạt động
sống của con người được biến đổi, được chuyển hóa, nhưng trong tổng thể thì chúng
tạo thành một cấu trúc trọn vẹn của nhân cách, cấu trúc này tương đối ổn định, ít nhất
là trong một quãng đời nào đó của con người. Chính nhờ có tính ổn định này của nhân
cách mà chúng ta mới có thể dự kiến được trước hành vi của một nhân cách nào đó
trong tình huống này hay tình huống nọ, trong hoàn canh này hay hoàn canh kia.
Tính thống nhất của nhân cách
Nhân cách là một cấu trúc tâm lý tức là một chỉnh thể thống nhất các thuộc tính,
đặc điểm tâm lý xã hội, thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài. Các
phần tử tạo nên nhân cách liên hệ hữu cơ với nhau làm cho nhân cách mang tính trọn
vẹn, X.L.Rubinstêin đã nhấn mạnh “Khi giai quyết bất cứ hiện tượng tâm lý nào, nhân
cách nỗi lên như một tổng thể liên kết thống nhất của các điều kiện bên trong và tất ca
các điều kiện bên ngoài đều bị khúc xạ”.
Tính thống nhất của nhân cách còn thể hiện sự hài hòa giữa các cấp độ: bên trong cá
nhân, liên cá nhân và siêu cá nhân. Đó chính là sự thống nhất giữ tâm lý, ý thức với
hoạt động giao tiếp của nhân cách.
Khi có một thuộc tính tâm lý nào đó thể hiện, chúng ta không chỉ lý giai một
mình nó mà phai đặc nó trong mối quan hệ với các thuộc tính tâm lý khác. Điều đó
cho phép ta khẳng định trong tổ hợp các thuộc tính hình thành nên nhân cách, nếu một
hay một số thuộc tính tâm lý thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi các thuộc tính tâm lý còn
lại, dẫn đến thay đổi cấu trúc nhân cách tạo nên một nét nhân cách, tâm lý mới.
Tính tích cực của nhân cách
Nhân cách là chủ thể của hoạt động giao tiếp, là san phẩm của xã hội. Do đó
nhân cách mang tính tích cực (tự giác- tích cực- sáng tạo- độc lập). Giá trị đích thực
của nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của các nhân thể hiện rõ nét ở
tính tích cực của nhân cách.
Tích cực là kha năng, năng lực của con người tác động vào môi trường nhằm
nhận thức, cai tạo, sáng tạo ra thế giới và ban thân. Tính tích cực của nhân cách nói lên
giá trị đích thực của nhân cách. Nguồn gốc, động lực của tính tích cực chính là nhu
cầu.
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 4
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Con người có kha năng làm chủ tự nhiên- xã hội và ban thân, do đó con người
chủ động tác động làm thay đổi hoàn canh, môi trường theo hướng có lợi, không chịu
sự chi phối một cách thụ động.
Tính giao lưu của nhân cách
Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động
và mối quan hệ giao lưu với nhân cách khác.
Nhu cầu giao lưu là nhu cầu bẩm sinh của con người. Giao lưu là phương thức
tồn tại của con người nhằm thiết lập hệ thống các mối quan hệ xã hội, gia nhập vào các
mối quan hệ xã hội, qua đó con người được đánh giá, nhìn nhận. Giao lưu là điều kiện
để nhân cách biểu hiện ca ba cấp độ của mình.
Đặc điểm này của nhân cách là cơ sở của nguyên tắc “giáo dục trong tập thể,
bằng tập thể” do A.X.Macrencô xây dựng.
1.3. Các cấp độ biểu hiện của nhân cách
Nhân cách được xem xét, đánh giá trên ba cấp độ khác nhau:
Cấp độ bên trong cá nhân, nhân cách của con người được thể hiện trước tiên
dưới dạng cá nhân, ở sự khác biệt của người này với người khác. Ở cấp độ này, nhân
cách bộc lộ trong tính không đồng nhất với nó, với mọi người, với cái chung. Chính vì
vậy, giá trị của nhân cách ở cấp độ này là tính tích cực của nó trong việc khắc phục
những hạn chế của hoàn canh và những hạn chế của ban thân. Có thể nói phân tích
nhân cách ở cấp độ bên trong cá nhân là xem xét nhân cách từ bên trong ban thân như
một đại diện của toàn xã hội.
Cấp độ liên nhân cách, nhân cách được thể hiện trong các mối quan hệ và liên
hệ với nhân cách khác. Ở cấp độ này, nhân cách và những mối quan hệ liên nhân cách
không bị hòa tan vào nhau: nhân cách nằm trong các mối liên hệ đó tạo nên cái đặc
trưng của mỗi nhân cách. Giá trị của nhân cách ở cấp độ phân tích này được thể hiện
trong các hành vi, cử chỉ xã hội của nó. Như vậy, phân tích nhân cách ở cấp độ lien cá
nhân là đã tách nhân cách ra thành các mức độ trong nhóm của nó (trong giao lưu,
trong nhóm, trong tập thể).
Ở cấp độ cao nhất, cấp độ siêu nhân cách, nhân cách tựa như vượt ra ngoài
khuôn khổ không chỉ của cá tính của mình (cấp độ bên trong cá nhân) mà còn vượt ra
ngoài khuôn khổ của những mối liên hệ và quan hệ thực sự của những cá nhân cá thể
khác nữa (cấp độ liên nhân cách). Ở đây nhân cách được xem xét như là một chủ thể
đang thực hiện một cách tích cực, có hay không có chủ định và gây ra sự biến đổi ở
người khác. Đó tựa như là những “đóng góp” mà nhân cách này tạo ra bằng hoạt động
của mình trong những nhân cách khác. Giá trị nhân cách ở mức độ xem xét này là ở
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 5
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
những hành động mà hoạt động của nhân cách này gây ra ở những nhân cách khác, ở
những biến đổi của nhân cách khác, diễn ra dưới sự anh hưởng của sự hoạt động của
nhân cách này. Tất ca những biến đổi cơ ban mà bằng hoạt động đối tượng và giao lưu
của mình, cá nhân này tạo ra được ở những cá nhân khác, đặc biệt là ở ban thân mình
như là “một người khác”, đã tạo thành nét đặc trưng đầy đủ và có giá trị nhất của cá
nhân ấy như là một nhân cách.
1.4. Cấu trúc của nhân cách
1.4.1. Các quan điểm về cấu trúc của nhân cách
Giống như bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào, nhân cách cũng đều có một cấu
tạo nhất định, được đặc trưng bởi một sự tổ chức nhất định. Tùy theo quan niệm về
ban chất nhân cách, mỗi tác gia đưa ra cấu trúc khác nhau.
A.G.Côvaliov cho rằng trong cấu trúc nhân cách bao gồm: các quá trình tâm lý,
các trạng thái tâm lý và các thuộc tính tâm lý cá nhân.
Quan điểm coi nhân cách bao gồm ba lĩnh vực cơ ban: nhận thức (bao gồm ca
tri thức và năng lực trí tuệ), tình cam (rung cam, thái độ) và ý chí (phẩm chất, ý chí, kỹ
năng, kỹ xao, thói quen).
K.K Platonov cho rằng nhân cách gồm bốn tiểu cấu trúc:
Tiểu cấu trúc có nguồn gốc sinh học: bao gồm khí chất, giới tính lứa tuổi và ca
những đặc điểm bệnh lý.
Tiểu cấu trúc các đặc điểm của các quá trình tâm lý: các phẩm chất trí tuệ, trí
nhớ, ý chí, đặc điểm của xúc cam…
Tiểu cấu trúc về vốn kinh nghiệm: tri thức, kỹ năng, kỹ xao, thói quen…
Tiểu cấu trúc xu hướng nhân cách: nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan,
niềm tin…
Quan điểm coi cấấu trúc nhấn cách gồồm hai mặt thồấng nhấất v ới nhau là đ ức và tài (ph ẩm chấất
và năng lực), có thể tóm tăất cấấu trúc theo h ướng này qua b ảng sau:
Phẩm chất (đức)
Năng lực (tài)
- Phẩm chất xã hội (đạo đức, chính trị):
thế giới quan, lý tưởng, niềm tin, lập
trường….
- Phẩm chất cá nhân đạo đức, tư cách):
các nết, đức tính, các thói, tật…
- Năng lực xã hội hóa: kha năng thích
ứng, hòa nhập, tính mềm dẻo , cơ động,
linh hoạt trong cuộc sống.
- Năng lực chủ thể hóa: kha năng thể
hiện tính độc đáo, đặc sắc, cái riêng, cái
ban lĩnh của cá nhân.
- Phẩm chất ý chí: tính mục đích, tính tự - Năng lực hành động: kha năng hành
chủ, tính kỹ luật, tính qua quyết, tính phê động có mục đích, chủ động tích cực có
phán.
hiệu qua.
- Cung cách ứng xử: tác phong, lễ tiết, - Năng lực giao tiếp: kha năng thiết lập
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 6
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
tính khí.
và duy trì mối quan hệ với người khác.
Gần đây trong một số tài liệu tâm lý học của các tác gia trong nước xem nhân
cách gồm bốn khối (bốn bộ phận) sau:
Xu hướng nhân cách.
Những kha năng của nhân cách.
Phong cách hành vi của nhân cách.
Hệ thống “cái tôi” (cấu tạo tự ý thức) – hệ thống điều khiển, điều chỉnh hành vi
của nhân cách.
Quan điểm khá phổ biến xưa nay coi nhân cách gồm bốn thuộc tính tâm lý phức
hợp, điển hình của cá nhân: xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực.
Tóm lại, cấu trúc nhân cách khá phức tạp, nhiều mặt. Tất ca mọi thành tố của
nhân cách có mối quan hệ qua lại và chế ước lẫn nhau tạo nên một chỉnh thể tương đối
ổn định nhưng cũng có tính cơ động. Điều đó cho phép con người vừa biểu hiện phong
cách, ban chất của mình, vừa mềm dẻo, linh hoạt trong các hoạt động và giao tiếp phù
hợp với các điều kiện khác nhau.
1.4.2. Các thuộc tính của nhân cách
Người ta coi nhân cách là một cấu trúc gồm bốn nhóm thuộc tính tâm lý điển
hình là: xu hướng, năng lực, tính cách, khí chất. Cũng giống như một vectơ có
phương, chiều, cường độ và tính chất của nó.
Xu hướng nói lên phương hướng phát triển của nhân cách; năng lực nói lên
cường độ của nhân cách; khí chất, tính cách nói lên tính chất, phong cách của nhân
cách.
Xu hướng của nhân cách
Xu hướng của nhân cách là một thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, bao
gồm một hệ thống động cơ quy định tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy định
sự lựa chọn các thái độ của cá nhân.
Xu hướng là một thuộc tính tâm lý của cá nhân đóng vai trò trung tâm, quan
trọng tạo nên động cơ của hoạt động từ đó định hướng điều khiển, điều chỉnh các
thuộc tính tâm lý khác của cá nhân. Xu hướng quy định phương hướng cơ ban của
hoạt động và hành vi của con người, quy định bộ mặt đạo đức cũng như mục đích cuộc
đời của cá nhân.
Xu hướng nhân cách thường biểu hiện ở một số mặt chủ yếu: nhu cầu, hứng
thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin…
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 7
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Nhu cầu
Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại
và phát triển.
Nhu cầu có những đặc điểm sau
Thứ nhất, Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng: khi nào nhu cầu gặp đối tượng
có kha năng thích ứng sự thỏa mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con
người hoạt động.
Thứ hai, nội dung của nhu cầu là do những điều kiện và phương thức thỏa mãn
nó quy định. Vì thế, muốn cai tạo những nhu cầu xấu phai cai tạo cái cơ sở làm nay
sinh ra nó và ngược lại.
Thứ ba, nhu cầu có tính chu kỳ: khi nhu cầu được thỏa mãn thì không có nghĩa
là chấm dứt nhu cầu mà nó vẫn tái hiện khi cơ sở của nó lại xuất hiện. Nếu một yêu
cầu có tính chất đơn lẻ thì nó không trở thành nhu cầu.
Thứ tư, nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật: nhu
cầu của con người mang ban chất xã hội.
Nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực hoạt động nhằm thỏa mãn hệ thống các
nhu cầu. Nhu cầu được hình thành trong đời sống và hoạt động của con người, chúng
ta không nên để nhu cầu phát triển một cách tự giác dễ dẫn đến lệch lạc. Với trẻ nhỏ
không nên thỏa mãn nhu cầu nếu chúng không tích cực.
Hứng thú
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý
nghĩa đối với cuộc sống, vừa có kha năng mang lại khoái cam cho cá nhân trong hoạt
động.
Hứng thú luôn đòi hỏi hai yếu tố nhận thức (đối tượng phai có ý nghĩa) và tình
cam (đối tượng có kha năng hấp dẫn, đem lại khoái cam, lôi cuốn con người khao khát
tìm hiểu, tiếp cận đối tượng).
Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, sự say mê, ở bề rộng và chiều sâu của
hứng thú. Hứng thú nay sinh chủ yếu do tính hấp dẫn về mặt cam xúc của nội dung
hoạt động.
Hứng thú làm nay sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu qua hoạt động nhận
thức, thực tiễn. Khi có hứng thú, chú ý không chủ định được thực hiện nhanh, chú ý có
chủ định được duy trì lâu dài làm nâng cao hiệu qua của hoạt động nhận thức; làm
tăng sức làm việc; làm nay sinh khát vọng hành động đặc biệt là hành động sáng tạo.
Lý tưởng
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 8
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Lý tưởng là mục tiêu cao đẹp, là hình anh mẫu mực tương đối hoàn chỉnh, có
sức lôi cuốn con người vươn tới nó.
Lý tưởng khác với mơ ước ở chỗ, trong lý tưởng chứa đựng mặt nhận thức sâu
sắc của chủ thể về các điều kiện chủ quan và khách quan để vươn tới lý tưởng, đồng
thời chủ thể có tình cam manh liệt đối với hình anh mẫu mực của mình. Chính vì thế,
lý tưởng có sức mạnh lôi cuốn toàn bộ cuộc sống con người vào các hoạt động vươn
tới lý tưởng của mình. Tuy vậy ước mơ có thể là cơ sở cho hình thành lý tưởng cao
đẹp sau này.
Lý tưởng vừa có tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn. Tính hiện thực thể hiện ở
chỗ những hình anh lý tưởng bao giờ cũng được xây dựng từ chất liệu có thật trong
hiện thực. Tính lãng mạn thể hiện ở chổ nó là hình anh mục tiêu cao đẹp, hoàn chỉnh
có thể đạt được trong tương lai, nó đi trước cuộc sống phan ánh mong muốn, xu thế
phát triển của con người, được con người tô diểm bằng những màu sắc rực rỡ, tươi
sáng nhất.
Lý tưởng biểu hiện tính tập trung cao nhất của xu hướng nhân cách, nó có chức
năng xác định mục đích cuộc sống, mục tiêu, chiều hướng hoạt động cá nhân, nó là
động lực thúc đẩy, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người, trực tiếp chi phối sự
hình thành và phát triển tâm lý cá nhân.
Thế giới quan
Thế giới quan là hệ thống các quan điểm về tự nhiên, xã hội và ban thân, xác
định phương châm hành động của co người. Thế giới quan khoa học là thế giới quan
duy vật biện chứng mang tính khoa học, tính nhất quán cao.
Niềm tin
Niềm tin là một phẩm chất của thế giới quan, là kết tinh các quan điểm, tri thức,
rung cam, ý chí, được con người thể nghiệm, trở thành chân lý vững bền trong mỗi cá
nhân. Niềm tin tạo cho con người có nghị lực, ý chí để hành động phù hợp với quan
điểm đã chấp nhận.
Tính cách
Tính cách là một thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, bao gồm một hệ
thống thái độ của nó đối với hiện thực, thể hiện trong hệ thống hành vi, cử chỉ, cách
nói năng tương ứng.
Trong cuộc sống hằng ngày, ta thường dung các từ “tính tình”, “tính nết”, “tư
cách” để chỉ tính cách. Những nét tính cách tốt thường được gọi là “đặc tính”, “lòng”,
“tinh thần”… Những nét tính cách xấu thường được gọi là “thói”, “tật”…
Tính cách mang tính ổn định và bền vững, tính thống nhất và đồng thời cũng
mang tính độc đáo, riêng biệt, điển hình cho mỗi cá nhân. Vì thế tính cách của mỗi cá
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 9
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
nhân là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái điển hình và cái cá biệt. Tính
cách của cá nhân chịu sự chế ước của xã hội.
Tính cách có cấu trúc rất phức tạp, bao gồm: hệ thống thái độ và hệ thống hành
vi, cử chỉ, cách nói năng tương ứng.
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 10
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Hệ thống thái độ của cá nhân bao gồm bốn mặt sau đây:
+ Thái độ đối với tập thể và xã hội, thể hiện qua nhiều nét tính cách như: long
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, thái độ chính trị, tinh thần đổi mới, tinh thần
hợp tác cộng đồng,…
+ Thái độ đối với lao động, thể hiện ở những nét tính cách cụ thể như: lòng yêu
lao động, cần cù, sáng tạo, lao động có kĩ luật , tiết kiệm, đem lại năng xuất cao…
+ Thái độ đối với mọi người, thể hiện ở những nét tính cách như: lòng yêu
thương con người theo tinh thần nhân đạo, quý trọng con người, có tinh thần đoàn kết,
tương trợ, tính cởi mở, tính chân thành, thẳng thắng, công bằng…
+ Thái độ đối với ban thân, thể hiện ở những nét tính cách như: tính khiêm tốn,
lòng tự trọng, tinh thần tự phê bình…
Hệ thống hành vi cử chỉ cách nói năng (Mặt hình thức- Mặt thể hiện) là sự thể
hiện bên ngoài một cách cụ thể của hệ thống thái độ trên. Hệ thống hành vi cử chỉ,
cách nói năng rất đa dạng, chịu sự chi phối của hệ thống thái độ. Nó được xem xét trên
hai bình diện: mặt tài năng và mặt phẩm chất đạo đức.
Khí chất
Khí chất là thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, biểu hiện cường độ, tốc độ,
nhịp độ của các hoạt động tâm lý, thể hiện sắc thái hành vi, cử chỉ, cách nói năng của
cá nhân.
Khí chất có cơ sở sinh lý là các kiểu thần kinh, quy định nhịp độ, tiến độ của
các hoạt động tâm lý. Do đó là nguyên nhân gây sự khác biệt rõ rệt trong những đặc
điểm bên ngoài của hành vi con người. Tuy nhiên khí chất mang ban chất xã hội.
IP. Pavlov đã khám phá ra hai quá trình thần kinh cơ ban là hưng phấn và ức
chế, có ba thuộc tính cơ ban: cường độ, tính cân bằng, tính linh hoạt. Sự kết hợp đó tạo
ra bốn kiểu thần kinh chug cho ca người và động vật, đó cũng chính là cơ sở của bốn
loại khí chất.
Bốn kiểu thần kinh cơ bản
-
-
Kiểu thần kinh mạnh mẽ, cân bằng,
linh hoạt.
Kiểu thần kinh mạnh mẽ, cân bằng,
không linh hoạt.
Kiểu thần kinh mạnh mẽ, không
cân bằng (hưng phấn mạnh mẽ hơn
ức chế).
Kiểu yếu.
Bốn kiểu khí chất tương ứng
-
Khí chất hăng hái, sôi nỗi.
-
Khí chất bình than.
-
Khí chất nóng nay.
-
Khí chất ưu tư.
Mỗi kiểu khí chất trên đều có mặt mạnh và mặt yếu.
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 11
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Hăng hái: nhận thức nhanh, dễ nay sinh tình cam, dễ thích nghi với môi trường
mới. Tuy nhiên thiếu sâu sắc, tình cam dễ thay đổi, làm việc tùy hứng, dễ chán nan…..
Cần giáo dục tính kiên trì, tự kiềm chế…
Bình than: thái độ bình tĩnh, chín chắn, kiên trì, chu đáo, tác phong điềm đạm,
ung dung. Tuy nhiên hay phân vân, do dự, dễ bỏ lỡ thời cơ, ít tháo vác, tính tình khó
thay đổi… Cần đưa vào các hoạt động sôi nỗi giúp các em thêm nhanh nhẹn, hoạt
bát…
Nóng nay: dũng cam, sôi nỗi, nhận thức nhanh, vui tính, thẳng thắn, tình cam
dễ bộc lộ. Nhưng lại thiếu kiên trì, nóng vội, thiếu kiền chế… Cần giao những công
việc đòi hỏi tính kiên trì, bền bỉ, tỉ mỉ, đặc biệt khi mắc khuyết điểm cần phê bình nhẹ
nhàng, khéo léo…
Ưu tư: suy nghĩ chín chắn, tình cam sâu sắc. Nhưng lại e dè, nhút nhát, thiếu tự
tin… Cần giao công việc đòi hỏi sự mạnh dạn, quyết đoán, kết hợp với sự quan tâm
nâng đỡ…..
Trên thực tế, ở con người có những loại khí chất trung gian bao gồm nhiều đặc
tính của bốn kiểu khí chất trên. Khí chất của cá nhân có cơ sở sinh lý thần kinh, nhưng
khí chất mang ban chất xã hội lại chịu sự chi phối của các đặc điểm xã hội, biến đổi do
rèn luyện và giáo dục.
Năng lực
Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của nhân, phù hợp với những yêu cầu
của một hoạt động nhất định, đam bao cho hoạt động đó có hiệu qua.
Năng lực không phai là một thuộc tính tâm lý xuất sắc nào đó mà nó là tổ hợp
các thuộc tính tâm lý của cá nhân. Năng lực vừa là tiền đề, vừa là kết qua của hoạt
động. Năng lực vừa là điều kiện cho hoạt động đạt kết qua nhưng đồng năng lực cũng
phát triển ngay trong chính hoạt động ấy. Năng lực là san phẩm của lịch sử. Sự phân
công và chuyên môn hoá lao động đã dẫn đến sự phân hóa và chuyên môn hóa năng
lực người. Mặc khác, mỗi khi nền văn minh nhân loại dành được những thành tựu mới
thì lại xuất hiện ở con người những năng lực mới và những năng lực đã có trước đây
bây giờ chứa đựng một nội dung mới.
Dựa vào tốc độ tiến hành và chất lượng san phẩm hoạt động, người ta phân biệt
ba mức độ phát triển của năng lực: năng lực là một mức độ nhất định của kha năng con
người hoàn thành có kết qua một hoạt động nào đó; tài năng chỉ một mức độ năng lực
cao hơn, biểu thị sự hoàn thành một cách sáng tạo một hoạt động nào đó; thiên tài là
mức độ cao nhất của năng lực, biểu thị ở mức độ kiệt xuất, hoàn chỉnh nhất một hoạt
động nào đó.
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 12
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Năng lực có thể chia thành hai loại: năng lực chung là năng lực cần thiết cho
nhiều hoạt động khác nhau; năng lực riêng là năng lực riêng biệt đáp ứng yêu cầu của
một lĩnh vực hoạt động chuyên biệt với một kết qua cao.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
2.1. Các quan điểm khác nhau về các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và
phát triển nhân cách
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau, như
Triết học, Xã hội học, Kinh tế - Chính trị học, Luật học, Tâm lý học, Y học, Giáo dục
học… Khi nghiên cứu về nhân cách, một trong những vấn đề đầu tiên và cũng là then
chốt, là vấn đề sự hình thành nhân cách. Sự bàn luận giữa các trường phái về nhân
cách thường xoay quanh chủ đề sự hình thành và phát triển nhân cách dẫn tới những
quan niệm khác nhau.
Tư tưởng về nhân cách đã được Arixtốt (384 - 322 TCN) - nhà triết học cổ Hy
Lạp - bàn đến khi ông cho rằng, con người là một “động vật chính trị” (Joon poltikon).
Ở đây, bước đầu Arixtốt đã thấy được vai trò của xã hội, của giáo dục tác động đến sự
phát triển của con người như là một nhân cách.
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, hai nhà Tâm lý học người Đức - Dilthey
và Spranger mới đưa ra khái niệm nhân cách. Theo các ông, nhân cách là cái mặt nạ có
tính chất xã hội của cái tôi bên trong. Khi nào cái mặt nạ đó trùng với cái tôi thì nhân
cách phát triển chín muồi. Họ đã nói được các yếu tố xã hội tác động đến cái tôi cá
nhân làm cho nhân cách phát triển, nhưng vẫn còn quan trọng cái tôi nhiều.
Theo thuyết Phân tâm học của Sigmund Freud (1856 - 1939) - người được nhận
giai thưởng Goethe, ban chất nhân cách là thuộc tính sinh vật hay sinh vật hóa thuộc
tính nhân cách. Theo Phân tâm học,trước hết, Freud nhấn mạnh hành vi con người do
ban năng quyết định và chứng minh rằng hầu hết những khía cạnh trọng yếu của hành
vi bị anh hưởng sâu đậm bởi những động cơ mà chúng ta không thể nhận thức
được. Thứ hai, thuyết nhân cách của Freud có cấu trúc xác định rõ ràng và liên quan
đến ba ý niệm trọng yếu là xung đột ban năng, ban ngã và siêu ngã. Ba thành tố này
tham gia điều khiển hành vi con người. Thứ ba, mô hình nhân cách của ông chia hệ
thống phân loại biến thiên của sự nhận thức thành 3 giai đoạn: Nhận thức, vô
thức và tiền nhận thức. Ông chính là triết gia đầu tiên phát triển học thuyết khoa học
tâm lý về vai trò của vô thức và cũng là người đầu tiên đưa vô thức thành thành tố
trung tâm của nhân cách. Ông khẳng định: “Vô thức chứa đựng những ham muốn đầy
quyền năng... tồn tại toàn bộ bên ngoài trạng thái của ý thức nhưng lại chịu trách
nhiệm cho toàn bộ hành vi quan trọng của con người”. Mặc dù có đóng góp lớn cho
khoa học, nhưng Freud lại quá chú trọng tác động của yếu tố sinh vật đến hành vi con
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 13
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
người mà không thấy được những tác động khác đến quá trình hình thành và phát triển
nhân cách của con người.
Trong Tâm lý học phân tích, Carl Jung (1875 - 1961) coi nhân cách là sự vô
thức tập thể. Ban chất nhân cách là nhân tính con người. Nhân cách được hiểu theo
nhiều cách khác nhau: Nhân cách là động cơ tự động điều hành (G.Allport); là toàn bộ
mối quan hệ của cá nhân người; nhân cách được hiểu đồng nhất với khái niệm con
người; nhân cách được hiểu như cá nhân con người với tư cách là chủ thể của các mối
quan hệ và hoạt động có ý thức; nhân cách được hiểu là một thuộc tính nào đó.
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, trước sự phát triển của khoa học, đặc biệt là
sinh vật học và khoa học xã hội nhân văn, chủ nghĩa sinh học xã hội đã ra đời như một
trào lưu khoa học liên ngành mới ở Tây Âu. Nhìn một cách tổng thể, chủ nghĩa này
cũng không khác gì chủ nghĩa tự nhiên khi cho rằng, “tất ca những gì của con người
do bẩm sinh mà có, thì không thể bị thay đổi do các điều kiện xã hội”. Theo họ, “sự
phát triển của bộ não, sự chuyên trách của bộ não, tốc độ và tính khuynh hướng của
quá trình giáo dục con người được hình thành trên trái đất, chủ yếu bằng con đường di
truyền” hay “lý tính của con người có thể được hiểu đúng đắn, rõ ràng nhất từ quan
điểm về quá trình phát triển do các đến di truyền quy định”. Như vậy, theo họ cho rằng
sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ do yếu tố bẩm sinh. Đây là một quan niệm
sai lầm.
Đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa nhân ban triết học tư san thế kỷ XX là M.Sêlơ
- một nhà triết học Đức cho rằng, “ban chất vốn có của con người không gắn với tồn
tại của nó về mặt sinh vật và xã hội mà nằm trong tinh thần của nó, trong kha năng của
con người trở thành nhân cách”. Theo quan niệm của ông, con người không tồn tại
thực mà chỉ là một bộ phận của thực tại tinh thần. Nhìn chung, các học thuyết trên
hoặc xem nhân cách như là sự đáp ứng nhu cầu sinh học thuần túy, hoặc xem nhân
cách chỉ có tính chất thuần túy của cá nhân con người mà không thấy được vai trò
quyết định của xã hội trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Triết học Mác ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử tư tưởng của
nhân loại. Theo đánh giá của V.I.Lênin, triết học Mác đã khắc phục được hai thiếu sót
lớn nhất của lịch sử triết học: Chủ nghĩa duy tâm “không thấy được” điểm xuất phát là
hiện thực khách quan và chủ nghĩa duy vật siêu hình “không thấy được” vai trò tích
cực của chủ thể con người. Chủ nghĩa Mác khẳng định: Con người là một thực thể
sinh vật - xã hội. Con người sinh ra và phát triển không chỉ tuân theo những quy luật
sinh học, mà còn chịu sự tác động của những quy luật xã hội. Sự hoàn thiện ban chất
xã hội trong mỗi con người cũng đồng thời là quá trình hoàn thiện nhân cách. Trong
quá trình này, cái sinh vật ngày càng được xã hội hóa, nhân tính hóa nhiều hơn. Nhân
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 14
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
cách được hình thành và phát triển trong quá trình sống, lao động và trong các quan hệ
giao tiếp của con người. Khi bàn về vấn đề con người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác đặc biệt chú ý đến ban chất xã hội của con người, lý giai các quan hệ xã hội tham
gia vào sự hình thành ban chất ấy cũng như vai trò của thực tiễn và hoạt động thực tiễn
đối với sự bộc lộ những sức mạnh ban chất Người tới sự hình thành, phát triển và hoàn
thiện nhân cách. Smirnov - nhà triết học Liên Xô trước đây đã từng nói, con người
được sinh ra, nhưng nhân cách thì phai được hình thành.
2.2. Quan điểm khoa học về các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát
triển nhân cách
Nhân cách không có sẵn bằng cách bộc lộ dần các ban năng nguyên thủy, mà
nhân cách là các cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong quá trình sống – giao tiếp,
vui chơi học tập, lao động… như V.I.Lênin đã khẳng định: “cùng với dòng sữa mẹ, con
người hấp thụ tâm lý, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên”. Nhà Tâm lý học Xô
viết nỗi tiếng A.N.Leonchiev cũng chỉ ra rằng: nhân cách cụ thể là nhân cách của con
người sinh thành và phát triển theo con đường từ bên ngoài chuyển vào nô i tâm,từ các
â
quan hê â với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vâ ât, nền văn hóa xã hô âi do các thế hê â trước
tạo ra, các quan hê â mà nó gắn bó. Quá trình hình thành nhân cách chịu anh hưởng của
nhiều yếu tố: hoàn canh sống, môi trường, hoạt động cá nhân, giáo dục, tập thể…. Mỗi
yếu tố đều có vai trò nhất định.
2.2.1. Các cơ sở tự nhiên của sự hình thành và phát triển nhân cách
Nhân cách của một con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định. Ngay từ
lúc trẻ em ra đời đều có những đặc điểm hình thái – sinh lý của con người (các cơ sở
tự nhiên của nhân cách) bao gồm các đặc điểm bẩm sinh và di truyền. Những thuộc
tính sinh học có ngay từ lúc đứa trẻ mới sinh ra gọi là những thuộc tính bẩm sinh.
Những đặc điểm, những thuộc tính sinh học của cha mẹ ghi lại trên hệ thống gen
truyền lại cho con cái gọi là di truyền. Một cá thể luôn có ca những đặc điểm giai phẫu
sinh lý của cha mẹ vừa có những cái gì đó của riêng nó.
Đối với mỗi cá thể khi ra đời đã nhận được một số đặc điểm cấu tạo và chức
năng của cơ thể từ các thế hệ trước theo con đường di truyền, trong đó có những đặc
điểm về cấu tạo và chức năng của các cơ quan não. Những đặc điểm hoạt động thần
kinh cấp cao được biểu hiện ngay từ những ngày đầu của cá thể. Tuy nhiên không thể
kết luận về vai trò quyết định của di truyền trong sự hình thành và phát triển tâm lý
nhân cách. Bất cứ một chức năng tâm lý nào mang ban chất con người của nhân cách
chỉ có thể được phát triển trong hoạt động của ban thân cá nhân đó và trong điều kiện
của xã hội loài người. Như vậy các cơ sở tự nhiên của nhân cách làm “nền” cho sự
hình thành nhân cách.
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 15
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Một điểm nữa là, sự tác động của các yếu tố di truyền đối với từng giai đoạn
phát triển lứa tuổi và đối với từng hoạt động cụ thể là khác nhau. Ví dụ tiềm năng hội
họa cần phai được phát triển và bồi dưỡng từ thời thơ ấu.
Mặc dù những đặc điểm sinh học có thể anh hưởng mạnh đến quá trình hình
thành tài năng, xúc cam, sức khỏe thể chất,...trong giai đoạn đầu của quá trình phát
triển con người nhưng nó chỉ đóng vai trò tạo nên tiền đề cho sự phát triển nhân cách.
2.2.2. Hoàn cảnh sống (môi trường) và sự hình thành, phát triển nhân cách
Môi trường là hệ thống các hoàn canh bên ngoài các điều kiện tự nhiên và xã
hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người. Có thể phân
thành hai loại: môi trường tự nhiên (hoàn canh tự nhiên) và môi trường xã hội (hoàn
canh xã hội).
Hoàn cảnh tự nhiên
Hoàn canh tự nhiên hay còn gọi là các điều kiện tự nhiên ví dụ như vị trí địa lý,
địa hình (núi, sông, biển…), khoáng san, khí hậu (nóng, lạnh, mưa, gió…), âm
thanh…. Những điều kiện ấy một phần nào đó quy định đặc điểm của phương thức
hoạt động của con người trong tự nhiên và một số nét riêng trong phạm vi sáng tạo
nghệ thuật. Qua đó quy định các giá trị vật chất và tinh thần ở một mức độ nhất định.
Hay có thể nói thông qua khâu trung gian là phương thức sống tâm lý dân tộc mang
một ít nét dấu ấn của hoàn canh tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên anh hưởng rất ít đến nhân cách thông qua những giá trị vật
chất và tinh thần, qua phong tục tập quán của dân tộc, của địa phương, của nghề
nghiệp – những cái vốn có liên hệ với điều kiện tự nhiên ấy mà qua phương thức sống
của chính ban thân đó. Ví dụ những người sống ở gần nơi biển thì thường làm nghề đi
biển, dày dặn với nắng gió, vì thế họ thường phát triển theo lối sống mạnh mẽ, từng
trai nhưng vô cùng thuần hậu. Hoặc như con người Việt Nam, sinh ra trong một đất
nước từng trai qua các cuộc đấu tranh gian khổ để dành được độc lập , một đất nước đi
lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nên con người Việt Nam là những con người
kiên cường, bất khuất, hiên ngang, cần cù, chịu khó và chính những điều đó đã làm
anh hưởng đến nhân cách người Việt Nam.
Tuy nhiên hoàn canh tự nhiên không giữ vai trò quan trọng và quyết định trong
sự phát triển tâm lý nhân cách. Những hoàn canh tự nhiên hoàn toàn có thể điều chỉnh
và khắc phục được.
Hoàn cảnh xã hội
Trong sự hình thành và phát triển nhân cách, môi trường xã hội có tầm quan
trọng đặc biệt vì nếu không có xã hội loài người thì những tư chất có tính người cũng
không thể phát triển được.
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 16
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Hoàn canh xã hội là các mối quan hệ xã hội mà con người sống và tiếp xúc. Nó
có anh hưởng đến sự phát triển tâm lý nhân cách. Vì nếu không có sự tếp xúc với con
người thì cá thể lớn lên và phát triển trong trạng thái động vật, hoặc nghèo nàn về tâm
lý, kém sự linh động hoặc nó không thể trở thành một con người, một nhân cách. Có
nghĩa là đứa trẻ muốn trở thành nhân cách phai có sự tiếp xúc với người lớn để nắm
vững tri thức, kinh nghiệm lịch sử - xã hội, để được chuẩn bị bước vào cuộc sống và
lao động trong văn hóa của thời đại, có thể nói nhân cách là một san phẩm của xã hội.
Quan hệ san xuất quy định nội dung của nhiều nét tâm lý cơ ban của nhân cách.
Ngoài ra tâm lý nhân cách phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật. Vị trí giai cấp
của cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở mức độ này hay mức độ khác trong vai
trò xã hội. Nhu cầu, hứng thú, lý trưởng phụ thuột không ít vào vai trò ấy. Đặc tính của
quan hệ san xuất, quan hệ chính trị, pháp luật biểu hiện qua hệ tư tưởng đạo đức và ở
những mức độ khác nhau qua phong tục tập quán. Trong tất ca những mối quan hệ xã
hội đó, nhân cách không chỉ là một khách thể mà còn là một chủ thể. Cá nhân là một
tồn tại có ý thức, nó có thể lựa chọn phương thức sống của mình và do đó nó lựa chọn
những phan ứng khác nhau trước tác động của hoàn canh xã hội.
Trong môi trường xã hội còn có những hiện tượng tâm lý xã hội quần chúng
khác anh hưởng đến sự phát triển nhân cách. Dư luận và tâm trạng chung, đó là sự
phán xét đánh giá của sự đông người về sự kiện đời sống xã hội của hoạt động tập thể,
của hành vi cá nhân. Dư luận được hình thành thầm lặng và có ý thức. Có thể đóng vai
tò tích cực hay tiêu cực trong đời sống được bắt nguồn từ sự kiện thực hay bịa đặt. Nó
nãy sinh phát triển trên tâm trạng xã hội và có anh hưởng trở lại tâm trạng đó.
2.2.3. Giáo dục và sự hình thành, phát triển nhân cách
2.2.3.1. Khái niệm giáo dục
Ảnh hưởng tự giác, chủ động, có mục đích và kế hoạch của xã hội đến hệ đang
lớn lên được thực hiện thông qua sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ.
Giáo dục là một hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát
triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch
sử nhất định. Theo nghĩa rộng, giáo dục bao gồm ca việc dạy học cùng với hệ thống
các tác động sư phạm, trực tiếp hoặc gián tiếp, trong lớp và ngoài lớp, trong trường và
ngoài trường, trong gia đình và ngoài xã hội. Theo nghĩa hẹp, giáo dục thường được
hiểu như là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong
tập thể trẻ em và học sinh, trong gia đình và cơ quan giáo dục ngoài nhà trường. Trong
Tâm lý học giáo dục, khái niệm giáo dục được hiểu theo nghĩa hẹp đó.
2.2.3.2. Yếu tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và phát
triển nhân cách
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 17
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Theo quan điểm Tâm lý học và Giáo dục học Mác- xít thì giáo dục giữ vai trò
chủ đạo trong sự phát triển nhân cách.
Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của
học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo chiều
hướng đó. Điều này được thực hiện thông qua mục tiêu và việc thực hiện mục tiêu đào
tạo của nhà trường và các cơ quan, tổ chức giáo dục ngoài nhà trường.
Giáo dục có thể đem lại những cái mà các yếu tố bẩm sinh - di truyền hay môi
trường tự nhiên không thể đem lại được. Chẳng hạn, nếu không bị khuyết tật gì, thì
theo sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể, đến một giai đoạn nhất định đứa trẻ sẽ
biết nói. Nhưng muốn biết đọc được sách báo thì nhất thiết nó phai học. Không học thì
không biết đọc. Hoặc như, đến một tuổi nào đó, đứa trẻ làm được mọi động tác vốn có
của con người (cầm, nắm, đi, đứng, chạy, nhay….) nhưng muốn có được những kỹ xao
nghề nghiệp thì dứt khoát phai học nghề.
Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật đem lại cho con người. Ví
dụ: bằng những phương pháp giáo dục đặc biệt, những trẻ em và người lớn bị khuyết
tật (câm, mù, điếc…) có thể được phục hồi những chức năng đã mất, học có thể phát
triển tài năng và trí tuệ một cách bình thường. Trong nước ta và trên thế giới đã có
nhiều người như thế, chẳng hạn như nhạc sĩ chơi đàn ghi ta nỗi tiếng Văn Vượng –
người Hà Nội, hay Viện sĩ Toán học Liên Xô Pôntriaghin đều là những người bị mù từ
bé. Hay Nguyễn Ngọc ký (1947), quê ở Hai Hậu, Nam Định, năm bốn tuổi gặp cơn
bạo bệnh và bị liệt ca hai tay, nhưng nghị lực và quyết tâm ông đã viết chữ bằng chân
rất đẹp và sáng tác văn hay.
Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu do tác động tự phát của
môi trường xã hội gây nên, và làm cho nó phát triển theo hướng mong muốn của xã
hội. Đây chính là hiệu qua của công tác giáo dục lại đối với những trẻ em hư hoặc
những người phạm pháp.
Giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động tự phát của xã hội chỉ anh
hưởng đến cá nhân ở mức độ hiện có của nó mà thôi. Chẳng hạn, hiện nay chúng ta
mới đang ở những bước đi ban đầu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên dất
nước ta, thế nhưng mục tiêu mà nhà trường chúng ta đề ra và phấn đấu là xây dựng,
giáo dục học sinh thành những con người xã hội chủ nghĩa. Đây chính là tính chất
“tiên tiến” của giáo dục, như người ta vẫn thường gọi.
Những công trình nghiên cứu về tâm lý học và giáo dục học hiện đại đã chứng
minh rằng: sự phát triển tâm lý của trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong
những điều kiện của sự dạy học và giáo dục. Thật là rõ ràng: trên thế giới chưa từng có
một nhà bác học, một doanh nhân, một thiên tài nào lại không hề qua nhà trường ca !
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 18
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Tuy nhiên giáo dục chỉ vạch ra đường hướng cho sự hình thành và phát triển
nhân cách của học sinh và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo đường
hướng đó. Còn cá nhân học sinh có phát triển theo đường hướng đó hay không, phát
triển đến mức độ nào – điều này giáo dục trực tiếp được. Cần phê phán quan điểm cho
rằng, giáo dục là “vạn năng”, xem đứa trẻ như là một tờ giấy trắng mà trên đó nhà giáo
dục vẽ sao thì nên vậy !
Như vậy, hoạt động của cá nhân là một con đường hình thành nhân cách không
thể thiếu được.
2.2.4. Hoạt động và sự hình thành, phát triển nhân cách
2.2.4.1. Khái niệm hoạt động
Theo quan điểm Mác – xit, cuộc sống con người là một dòng hoạt động, con
người là chủ thể của các hoạt động thay thế nhau. Hoạt động là quá trình con người
thực hiện các quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên, xã hội, người khác và ban
thân. Đó là quá trình chuyển hóa năng lực lao động và các phẩm chất tâm lý khác của
ban thân thành sự vật, thành thực tế và quá trình ngược lại là quá trình tách những
thuộc tính của sự vật, của thực tế quay về với chủ thể, trở thành vốn luyến tinh thần
của chủ thể.
Dưới góc độ triết học, hoạt động là quan hệ biện chứng của chủ thể và khách
thể. Trong quan hệ đó, chủ thể là con người, khách thể là hiện thực khách quan. Ở góc
độ này hoạt động được xem là quá trình mà trong đó có sự chuyển hóa lẫn nhau giữa
chủ thể - khách thể.
Dưới góc độ sinh học thì hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và bắp
thịt của con người khi tác động vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn về nhu cầu
vật chất và tinh thần của con người.
Dưới góc độ tâm lý học, hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con
người (chủ thể) và thế giới (khách thể) tạo ra san phẩm ca về phía thế giới, ca về phía
con người. Con người sống luôn luôn hoạt động. Hoạt động bao gồm ca quá trình bên
ngoài tác động vào đối tượng, sự vật… lẫn các quá trình bên trong, quá trình tinh thần,
trí tuệ…ở trong não người ta, nói cách khác bao gồm ca hành vi và tâm lý, ý thức lẫn
hành động chân tay, lẫn hành động trí tuệ trong đầu.
2.2.4.2. Các loại hoạt động
Có nhiều cách phân loại hoạt động. Chia một cách tổng quát nhất, loài người có
hai loại hoạt động: lao động và giao lưu. Cách phân loại này căn cứ vào quan hệ giữa
người và vật thể (chủ thể và khách thể) và quan hệ giữa người và người (chủ thể và
chủ thể).
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 19
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Xét về phương diện phát triển cá thể, người ta thấy trong đời người có ba loại
hình hoạt động kế tiếp nhau. Đó là các loại hoạt động, vui chơi, học tập, lao động.
Mặt khác, có thể chia hoạt động người một cách chung nhất thành hai loại: hoạt
động thực tiễn (có khi còn gọi là hoạt động bên ngoài) và hoạt động lý luận (có khi
con còn gọi là hoạt động tinh thần, hoạt động bên trong, hoạt động tâm lý). Ở đây căn
cứ vào san phẩm làm tiêu chuẩn chính để phân loại. Loại thứ nhất là loại hoạt động tác
động vào sự vật, biến đổi sự vật… tạo ra san phẩm vật thể cam tính, thấy được. Loại
thứ hai diễn ra trong bình diện biểu tượng, không làm thay đổi vật thể tại vật thể. Tuy
vậy hoạt động lý luận cũng có nhiệm vụ cai tạo thiên nhiên, xã hội và con người. Sự
phân loại này cũng như nhiều cách phân loại, đều có tính chất tương đối.
Có một cách phân loại khác chia hoạt động của con người ra thành bốn loại, đó
là:
Thứ nhất, hoạt động biến đổi, có dạng điển hình nhất là lao động. Do đó ta
thường nói là lao động sáng tạo. Nhưng hoạt động biến đổi bao hàm ca hoạt động biến
đổi thiên nhiên (vật thể), ca hoạt động biến đổi xã hội, biến đổi con người (như hoạt
động giáo dục, hoạt động tự giáo dục).
Thứ hai, hoạt động nhận thức là một loại hoạt động tinh thần, không làm biến
đổi các vật thể thực, quan hệ thực…. Nó chỉ phan ánh sự vật, quan hệ... mang lại cho
chủ thể các hình anh, các tri thức về sự vật và quan hệ ấy. Bằng hoạt động nhận thức,
con người phân tích tổng hợp, khái quát, ghi nhớ các hình anh ấy. Và nếu có thực hiện
một sự biến đổi nào đó, chính là biến đổi hình anh này (biến đổi sự vật trong biểu
tượng), đổi mới tư duy, chuẩn bị cho biến đổi thực tế. Hoạt động nhận thức chuẩn bị
cho hoạt động lao động. Các nhà kinh điển Mác, Lênin đã nói: không có lý luận cách
mạng – không có phong trào cách mạng. phai áp dụng tiến bộ của khoa học – kỹ thuật,
mới tang năng suất lao động. Chính vì vậy, hoạt động nhận thức ngày càng có vai trò
rõ rệt trong hoạt động con người.
Hoạt động định hướng giá trị là một dạng hoạt động tinh thần xác định ý nghĩa
của thực tại với ban thân chủ thể, tạo ra phương hướng của hoạt động. Người ta nhận
thức để hiểu biết sự vật, nắm ban chất của chúng, hiểu nghĩa chung của xã hội đã quy
định cho từng vật thể, từng quan hệ… Tiến hành hoạt động phai dựa vào các quy luật
khách quan và nhằm đạt tới một yêu cầu nào đó của xã hội, và thỏa mãn nhu cầu, hứng
thú… của ban thân người tiến hành hoạt động. Nghĩa chung của xã hội ở đây chuyển
thành ý riêng của chủ thể. Yếu tố này quyết định phương hướng (ý định), mức độ tích
cực và tiến bộ cũng như dẻo dai, kiên trì, bền bỉ của hoạt động.
Thứ tư, hoạt động giao lưu chủ yếu là các quan hệ giữa người – người (nhóm
với thành viên của nhóm, tập thể với cá nhân, người này với người khác….). Hoạt
SVTH: Phạm Thị Bích Trang
Trang 20
- Xem thêm -