PTS. NGUYÊN ĐĂNG BÌNH
PHƯƠNG PHÁP LUẬN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
(GIÁO TRÌNH DÙNG CHO HỌC VIÊN CAO HỌC)
NĂM 1999
Bài mở đầu
ĐỐI TƯỢNG VÀ Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. Đối tượng và nội dung nghiên cứu của PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC:
Trước đây, hầu như chỉ có triết học mới dành mối quan tâm nghiên cứu về khoa
học như một phạm trù triết học nhằm giải thích nguồn gốc của khoa học, các quy luật
nội tại của khoa học, quan hệ giữa khoa học với khách thể mà khoa học nghiên cứu,
quan hệ giữa khoa học với các hình thái xã hội. Đã có một thời triết học được coi là
khoa học của các khoa học. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công
nghệ, khoa học dã trở thành bộ máy khổng lồ đang nghiên cứu khám phá tất cả các góc
cạnh của thế giới. Kết quả nghiên cứu đã tạo ra một hệ thống tri thức đồ sộ và mở ra
kỷ nguyên bùng nổ thông tin. Những khám phá mới của khoa học đã làm thay đổi
nhiều quan niệm truyền thống trong sản xuất vật chất và trong đời sống tinh thần của
xã hội. Vì vậy, khoa học ngày nay không chỉ được xem xét trong quan hệ với khách
thể mà khoa học nghiên cứu, mà còn được xem xét trong quan hệ qua lại với hệ thống
chính trị, kinh tế và xã hội.
Trước sự phát triển nhanh chóng ấy của khoa học và công nghệ, đến phần mình,
bản thân khoa học cũng cần được nghiên cứu một cách khoa học. Một mặt phải tổng
kết thực tiễn hoạt động nghiên cứu khoa học, phân loại và hệ thống hoá toàn hộ những
tri thức đã nhận thức được. Mặt khác, phải khái quát những lý thuyết về cơ chế và
phương pháp sáng tạo khoa học, cũng như tìm tòi các biện pháp tổ chức, quản lý tốt
quá trình nghiên cứu khoa học. Như vậy là, chính khoa học đã trở thành đối tượng
nghiên cứu.
Theo hướng đó, trong hơn hai nghìn bộ môn khoa học hiện đại có một số bộ môn
đã đề cập khá sâu sắc tới nhiều khía cạnh khác nhau của khoa học và hoạt động nghiên
cứu khoa học như: lịch sử khoa học, tâm lý học sáng tạo, xã hội học khoa học, kinh tế
học khoa học, tổ chức và quản lý khoa học .v.v... Chúng ta có thể kể đến các bộ môn
quan trọng sau đây:
Bộ môn thứ nhất là Triết học. Triết học nghiên cứu tổng kết tất cả các thành tựu
của khoa học, dựa trên đó đã khái quát các qui luật nhận thức chung của loài người. Hệ
thống quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã trở thành thế giới quan là cơ
sở phương pháp luận chung cho mọi quá trình nhận thức, hướng dẫn các nhà khoa học
trên con đường tìm tòi sáng tạo.
Bộ môn thứ hai là Lịch sử phát triển khoa học tự nhiên và kỹ thuật đã tổng kết
thực tiễn nghiên cứu khoa học Tự nhiên và Kỹ thuật trong lịch sử thế giới, cho chúng
ta bức tranh chung về quá trình phát triển khoa học nhờ đó mà ta có thể phát hiện ra
các qui luật, các xu hướng phát triển khoa học hiện đại.
2
Bộ môn thứ ba là Khoa học luận (Epistomology): Khoa học luận là bộ môn khoa
học "Nghiên cứu tổng hợp và tổng kết về mặt lý luận, kinh nghiệm hoạt động của các
hệ khoa học, nhằm dự báo chính sách khoa học - kỹ thuật, củng cố tiềm lực khoa học
và nâng hiệu suất của quá trình khoa họe, thông qua các biện pháp tác động về mặt tổ
chức và xã hội Đôbrôv G.M. Khoa học về khoa học. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội l976.Tr.31).
Đối tượng của Khoa học luận là bản thân khoa học được xem như một hệ thống
nhất thể. Phương pháp nghiên cứu của Khoa học luận là phân tích và tổng hợp lý luận
và thực tiễn hoạt động của các hệ khoa học. Chính vì vậy Khoa học luận là bộ môn
khoa học có ý nghĩa to lớn đối với công tác tổ chức, quản lý và điều hành các hoạt
động nghiên cứu khoa học.
Bộ môn thứ tư đặc biệt quan trọng là Phương pháp luận nghiên cứu khoa học.
Phương pháp là một hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ những tri thức về
các quy luật khách quan dùng để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn nhằm thực hiện mục tiêu đã xác định.
Các phương pháp nhận thức khoa học hiện đại rất da dạng và cách phân loại
chúng cũng rất khác nhau. Cách thường gặp hơn cả là dựa vào phạm vi tác động của
các quy luật khách quan đã được nhận thức và được khái quát dưới hình thức lý luận,
từ đó hình thành hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động của chủ thể. Theo cách
phân loại này, các phương pháp được chia ra thành phương pháp riêng, phương pháp
chung và phương pháp phổ biến. Phương pháp riêng chỉ thích hợp cho từng bộ môn
khoa học (phương pháp sinh vật học, phương pháp hoá học, phương pháp xã hội học).
Phương pháp chung được sử dụng cho nhiều ngành khoa học khác nhau (các phương
pháp quan sát thí nghiệm, phương pháp mô hình hoá, phương pháp tối ưu hoá, phương
pháp quy hoạch hoá thực nghiệm). Phương pháp phổ biến thích hợp cho mọi ngành
khoa học khác nhau cũng như đối với mọi lĩnh vực trong hoạt động thực tiễn. Phương
pháp biện chứng chính là phương pháp phổ biến và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của
khoa học hiện đại.
Phương pháp luận ( Methodology) là học thuyết hay lý luận về phương pháp.
Đó là hệ thống những quan điểm (nguyên lý) chỉ đạo xây dựng các nguyên tắc hợp
thành phương pháp xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng có hiệu quả. Trong đó,
quan trọng nhất là các nguyên lý có quan hệ trực tiếp với thế giới quan, có tác dụng
định hướng việc xác định phương hướng nghiên cứu, tìm tòi, lựa chọn và vận dụng
phương pháp. Phương pháp và phương pháp luận là khác nhau.
Phương pháp luận là phạm trù rất rộng, cho nên phạm vi bao quát của phương
pháp luận rất lớn. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học đặt ra cho mình hàng loạt
những nhiệm vụ quan trọng sau đây:
+ Nghiên cứu làm sáng ló bản chất của khoa học và hoạt động nghiên cứu khoa
3
học, tổng kết các quy luật phát triển của khoa học hiện đại.
+ Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ chế tư duy sáng tạo trong nhận thức của nhà khoa
học và các kỹ năng thực hành sáng tạo của họ.
+ Nghiên cứu những quan điểm tổng quát những cách tiếp cận đối tượng nhận
thức đồng thời xây dựng hệ thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu khoa học, với
tư cách là con đường, cách thức và kỹ thuật nghiên cứu cụ thể, đây là vấn đề trung tâm
của phương pháp luận.
+ Phương pháp luận khẳng định phương pháp nghiên cứu khoa học không những
nằm trong lôgíc nhận thức mà còn nằm trong cấu trúc nội dung một cộng trình khoa
học. Cho nên phương pháp luận nghiên cứu khoa học một mặt xác định các bước đi
trong tiến trình nghiên cứu một đề tài mặt khác còn tìm ra cấu trúc lôgic nội dung của
các công trình khoa học đó.
+ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học cũng chú ý đến phương pháp tổ chức,
quản lý nghiên cứu hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, coi đó là một khâu
ứng dụng chính các thành tựu khoa học, nhằm nâng cao liềm lực khoa học và tổ chức
quá trình nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả cao.
Tóm lại phương pháp luận nghiên cứu khoa học là hệ thống lý thuyết về phương
pháp nhận thức khoa học bao gồm các lý thuyết về cơ chế sang tạo, những quan điểm
tiếp cận đối tượng khoa học. Cùng với hệ thống lý thuyết về phương pháp, kỹ thuật và
logic tiến hành nghiên cứu một công trình khoa học cũng như phương pháp tổ chức,
quản lý quá trình ấy.
II. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hoàn thiện và nắm vững phương pháp luận
nghiên cứu khoa học:
1 - Khoa học hiện đại có kết cấu bởi nhiều thành phần, trong đó có ba bộ phận
chủ yếu và quan trọng sau đây:
+ Hệ thống những khái niệm, phạm trù, những quy luật, các lý thuyết, học thuyết
khoa học.
+ Hệ thống trí thức ứng dụng đưa các thành tựu khoa học vào sản xuất và quản
lý xã hội, nhằm cải tạo thực tiễn.
+ Hc thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu về các con đường tìm tòi, sáng
tạo khoa học.
Như vậy, phương pháp luận là một trong ba bộ phận quan trọng của khoa học.
2 - Nghiên cứu khoa học luôn là sáng tạo và cách mạng, trong mỗi giai đoạn phát
triển của khoa học hiện đại đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới đối với khoa học, phải
tìm ra các phương pháp nghiên cứu mới, phải phát hiện ra các con đường mới để ứng
dụng khoa học vào thực tiễn. Có thể nói: Hoàn thiện về phương pháp luận là sự đòi hỏi
4
thường xuyên của sự phát triển khoa học hiện đại.
3- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là kết quả của quá (rình khái quát lý
thuyết và thực tiễn nghiên cứu khoa học và nó trở thành công cụ sắc bén để chỉ dẫn tất
cả các nhà khoa học và các nhà quản lý trong công tác tổ chức, quản lý và thực hành
sáng tạo khoa học .
4- Ngày nay trong thế giới hiện đại, để hoàn thành có chất lượng bất cứ một tại
công việc nào nhà chuyên môn cũng phải là người sáng tạo, có ý thức tìm tòi các con
đường, các phương pháp lao động mới. Thiếu tinh thần sáng tạo không có chỗ đứng
trong cuộc sống dậy sôi động. Cải tiến chuyên môn thông qua con đường hoạt động
thực tiễn của mình đã góp phần làm phát triển khoa học và công nghệ. Như vậy, nắm
vững phương pháp luận nghiên cứu khoa học không chỉ có nghĩa đối với các nhà
nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp, mà còn đối với các nhà chuyên môn trong các
lĩnh vực hoạt động thực tiễn.
Tóm lại, phương pháp luận nghiên cứu khoa học là một bộ phận quan trọng của
khoa học. Hoàn thiện phương pháp luận nghiên cứu khoa học là sự tự ý thức về sự
phát triển của bản thân khoa học. Như vậy, nắm vững phương pháp luận nghiên cứu
khoa học không chỉ có nghĩa đối với các nhà nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp, mà
còn đối với các nhà chuyên môn trong các lĩnh vực hoạt động thực tiễn.
5
Chương I
KHOA HỌC, KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ
Để có cơ sở bàn về nghiên cứu khoa học, trước hết cần xem xét các khía cạnh rất
đa dạng và phong phú trong khái niệm hiện đại về khoa học.
Từ khi bắt đấu lịch sử khoa học, các nhà nghiên cứu trong đó có những triết gia
lớn, các nhà khoa học lớn như Aristote, R. Descarte, F. Bacon. F. Hegcl. Marx, Engels,
v.v... đã dành nhiều quan tâm đến việc nhận dạng bản chất và cấu trúc của khoa học
đặc điểm của hoạt động khoa học, chức năng xã hội của khoa học cũng như chính sách
của chính phủ đối với nghiên cứu khoa học. Khoa học, do vậy, đã trở thành đối tượng
nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học khác nhau.
1.1. KHOA HỌC.
1.1.1. KHOA HỌC LÀ GÌ?
Trong các từ điển cũng như trong các tài liệu chuyên môn khác nhau, khoa học
được giải thích theo nhiều cách khác nhau.
Một số tài liệu chuyên khảo về phương pháp luận nghiên cứu khoa học chỉ hướng
mối quan tâm từ giác độ phương pháp luận nghiên cứu và chỉ giới hạn trong phạm vi
những gì cần thiết cho công việc của người làm nghiên cứu khoa học. Trên hướng tiếp
cận này, chắt lọc những ý tưởng cốt lõi trong khái niệm khoa học mà các tác giả khác
nhau đã đề cập, khoa học có thể được xem xét theo một số giác độ sau:
1.1.1.1. Xét theo kết quả của quá trình tích lũy trí thức của nhân loại thì KHOA
HỌC LÀ MỘT HỆ THỐNG TRI THỨC VỀ THẾ GIỚI KHÁCH QUAN:
Ngay từ khi xuất hiện, để tồn tại con người phải lao động, cùng với lao động con
người nhận thức thế giới xung quanh. Nhận thức trước hết để thích ứng, tồn tại cùng
với môi trường sau đó để vận dụng những điều đã biết vào cuộc sống làm cho cuộc
sống ngày càng tốt hơn. Hoạt động nhận thức phát triển theo dòng lịch sử và kết quả
nhận thức ngày một phong phú, trở thành một hệ thống tri thức về mọi lĩnh vực của
dời sống xã hội.
Quá trình nhận thức của con người được thực hiện với nhiều trình độ, bằng các
phương thức khác nhau và tạo ra hai hệ thống tri thức về thế giới.
a. Tri thức thông thường:
Trong cuộc sống đời thường, con người tiếp xúc với thiên nhiên, với xã hội, phải
giải quyết những công việc thực tế hàng ngày, bằng các giác quan con người tri giác,
cảm nhận về bản thân, về thế giới xã hội xung quanh, từ đó mà có những kinh nghiệm
sống, những hiểu biết về mọi mặt. Đó chính là tri thức thông thường. Tri thức thông
thường được tạo ra từ phép quy nạp đơn giản, không có mô hình lý thuyết, do vậy nó
chưa chỉ ra dược bản chất bên trong, chưa phát hiện được các quy luật của những sự
6
vật, hiện tượng và chưa thành một hệ thống vững chắc.
Tri thức thông thường được con người sử dụng trao đổi với nhau truyền đạt cho
nhau, mỗi ngày chúng được bổ xung, được hoàn thiện, tính xã hội được xác lập và trở
thành tri thức dân gian. Tri thức thông thường có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp nhiều
ích lợi cho cuộc sống hàng ngày của con người.
b. Tri thức khoa học:
Sự phát triển của lao động sản xuất và hoạt động xã hội là nguyên nhân khiến
con người phải đi sâu nghiên cứu đầy đủ hơn về thế giới và tìm hiểu khả năng nhận
thức của chính mình. Để tạo ra công cụ sản xuất, con người phải tìm tòi, nghiên cứu
các loại vật liệu khác nhau. Để thuần dưỡng động vật, con người phải biết về cấu tạo
cơ thể và đặc điểm sinh hoạt của chúng. Để trồng trọt con người phải nghiên cứu đất
đai, cây trồng và thời tiết... Những hiểu biết lúc đầu còn ít ỏi, về sau tăng dần trở thành
một hệ thống tri thức vững chắc.
Cùng với quá trình phân công lao động xã hội, xuất hiện những người thông thái
có khả năng trí tuệ đặc biệt, biết chế tạo và sử dụng những công cụ, những phương
pháp độc đáo để tìm hiểu thế giới và kết quả là tạo ra một hệ thống hiếu biết có giá trị
đặc biệt, đó chính là tri thức khoa học. Cũng từ đây có hoạt động nghiên cứu khoa học
chuyên nghiệp.
Như vậy tri thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức có mục đích, có kế
hoạch, có phương pháp và phương tiện đặc biệt, do đội ngũ các nhà khoa học thực
hiện.
Tri thức khoa học là hệ thống tri thức khái quát về các sự vật, hiện tượng của thế
giới và về các qui luật vận động của chúng. Đây là hệ thống tri thức được xác lập trên
các căn cứ xác đáng, có thể kiểm tra được và có tính ứng dụng.
Mỗi kết luận khoa học đều được dựa trên các tài liệu thực tiễn hay lý thuyết, nhờ
có phép suy luận và các thao tác khái quát hoá, trìu tượng hoá con người gạt bỏ những
cái ngẫu nhiên, đi vào những mối quan hệ bản chất sâu xa bên trong của các sự vật,
hiện tượng, từ đó mà phát hiện ra những quy luật khách quan về thế giới. Như vậy tri
thức khoa học là sản phẩm cao cấp của trí tuệ con người.
Tri thức khoa học và tri thức thông thường tuy khác nhau nhưng có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Tri thức khoa học có thể xuất phát từ tri thức thông thường, theo
gợi ý của những hiểu biết thông thường để tiến hành những nghiên cứu một cách sâu
sắc. Tuy nhiên tri thức khoa học không phải là tri thức thông thường được hệ thống
hoá lại hay những tri thức thông thường được hoàn thiện. Tri thức khoa học là kết quả
của hoạt động nghiên cứu khoa học đặc biệt.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể đồng tình với định nghĩa sau đây: “Khoa
học là hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội và tư duy về những qui luật phát triển
7
khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy, hệ thống tri thức này được hình thành
trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội”. (Đại bách khoa
toàn thư Liên Xô. Quyển XIX, tr.241, bản tiếng Nga).
Phân tích toàn diện khái niệm khoa học ta thấy:
Đối tượng của khoa học là những hình thức tồn tại khác nhau của vật chất đang
vận động và cả những hình thức phản ánh chúng vào ý thức của con người. Nói cách
khác đối tượng của khoa học là thế giới khách quan và cả những Phương tháp nhận
thức thế giới.
Nội dung của khoa học bao gồm:
+ Những tài liệu về thế giới do quan sát, điều tra, thí nghiệm mà có.
+ Những nguyên lý được rút ra dựa trên những sự kiện đã được thực nghiệm
chứng minh.
+ Những qui luật, những học thuyết được khái quát bằng tư duy lý luận.
+ Những phương pháp nhận thức sáng tạo khoa học.
+ Những qui trình vận dụng lý thuyết khoa học vào sản xuất và đời sống xã hội.
Chức năng của khoa học là:
+ Khám phá bản chất các hiện tượng của thế giới khách quan: Giải thích nguồn
gốc phát sinh, phát hiện ra các qui luật vận động và phát triển của các hiện tượng ấy .
+ Hệ thống hoá các tri thức đã khám phá được tạo thành các lý thuyết, học thuyết
khoa học.
+ Nghiên cứu ứng dụng những thanh quả sáng tạo khoa học để cải tạo thực tiện.
Động lực của sự phát triển khoa học là nhu cầu thực tiễn của cuộc sống con
người. Nhu cầu thực tiện gợi ý cho mọi đề tài và đồng thời là mục tiêu phải giải quyết
của mọi đề tài khoa học. Thực tiễn vừa là nguồn gốc nhận thức vừa là tiêu chuẩn để
xác minh tính chân thực, vừa là mục tiêu giải quyết của mọi lý thuyết khoa học.
1.1.1.2. Xét trên giác độ xã hội thì Khoa học là một HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ
HỘI VÀ LÀ MỘT HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT
a) KHOA HỌC LÀ MỘT HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI:
Theo quan điểm triết học Mác được trình bày trong từ điển Triết học của
Rozental, khoa học tồn tại như một hình thái xã hội.
Toàn bộ cuộc sống của xã hội loài người bao gồm hai lĩnh vực: lĩnh vực vật chất
(tồn tại xã hội) và lĩnh vực tinh thần (ý thức xã hội). Tồn tại xã hội là tất cả những gì
đang diễn biến xung quanh chúng ta. Ý thức xã hội là kết qua sự phản ánh tồn tại xã
hội vào bộ não con người. Sự phản ánh này được thực hiện với nhiều mức độ khác
nhau như: ý thức sinh hoạt đời thường, tâm lý, ý thức xã hội, trong đó có hệ tư tưởng.
8
Ý thức đời thường là sự phản ánh những cái cụ thể trực tiếp, gần gũi của cuộc
sống hàng ngày của con người. Ý thức xã hội là sự phản ánh những cái sâu sắc toàn
cách và hệ thống về thế giới.
Ý thức xã hội được phản ánh bằng nhiều hình thái khác nhau như: Tôn giáo, Đạo
đức, Nghệ thuật, Chính trị Khoa học... sự khác nhau giữa các hình thái ý thức xã hội
được qui định bởi mục đích, tính chất và phương thức phản ánh. Thế giới là đối tượng
duy nhất của sự nhận thức và cũng là nguồn gốc duy nhất đem lại nội dung cho sự
nhận thức.
Các hình thái ý thức xã hội là những hình thức khác nhau của sự phản ánh về một
thế giới thống nhất và chúng có chức năng xã hội riêng.
+ Tôn giáo là một hình thái ý thức phản ánh lòng tin không có căn cứ của con
người trước lực lượng siêu tự nhiên, mà bản thân con người không hiểu nổi, không
giải thích được nó và từ đó thần thánh hoá các sức mạnh siêu tự nhiên đó. Tôn giáo
xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài người, trong điều kiện trình độ nhận thức và thực
tiễn xã hội còn thấp kém. Tôn giáo làm cho con người lệ thuộc vào thiên nhiên, trở
thành nhỏ bé trước sức mạnh của thiên nhiên.
+ Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh các quan niệm về cái thiện
cái ác trong các mối quan hệ xã hội, về quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người trong
cuộc sống cộng đồng và được biểu hiện bằng những qui tắc, chuẩn mực cụ thể. Tiêu
chuẩn đạo đức không được ghi thành vấn bản, nhưng có giá trị to lớn trong cuộc sống
nhân loại. Đạo đức định hướng giá trị cho cuộc sống cá nhân và điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội. Đạo đức đưa xã hội loài người tới cuộc sống văn minh.
+ Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội phản ánh các hình tượng thẩm mỹ
của thế giới hiện thực thông qua những rung cảm thẩm mỹ cá nhân. Hình tượng nghệ
thuật là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan, nó mang dấu ấn độc đáo của chủ
thể sáng tạo. Ý tưởng nghệ thuật xuất hiện trong một hoàn cảnh cụ thể, trong điều kiện
sống của cá nhân, trong cộng đồng dân tộc và thời đại. Nghệ thuật là quá trình chủ thể
hoá đối tượng thẩm mỹ và khách thể hoá tình cảm thẩm mỹ. Nghệ thuật có chức năng
nhận thức, chức năng giáo dục và chức năng giải trí và có vai trò to lớn trong đời sống
nhân loại .
+ Chính trị là hình thái ý thức xã hội phản ánh các mối quan hệ kinh tế - xã hội
vị trí và quyền lợi của các giai cấp, của các quốc gia xung quanh vấn đề lợi ích, trước
hết là lợi ích kinh tế. Chính trị thể hiện trong cuộc dấu tranh giữa các giai cấp để thiết
lập trật tự xã hội và cuộc đấu tranh giữa các quốc gia để xác lập chủ quyền dân tộc,
trong quản lý và bảo vệ đất nước. Chính trị được duy trì bằng các công cụ chuyên
chính. Mọi hình thái ý thức xã hội đều bị chi phối bởi ý thức chính trị, phục tùng
đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền.
+ Khoa học là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách quan, tạo ra
9
hệ thống chân lý về thế giới. Hệ thống chân lý này được diễn đạt bằng các khái niệm,
phạm trù trừu tượng những nguyên lý khái quát, những giả thuyết. học thuyết... Khoa
học phản ánh thế giới bằng các phương thức và công cụ đặc biệt. Khoa học không
những hướng vào giải thích thế giới mà còn nhằm tới cải tạo thế giới. Khoa học làm
cho con người mạnh mẽ trước thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho cuộc sống của
mình.
Khoa học có vị trí độc lập tương đối trước các hình thái ý thức xã hội khác nhưng
đồng thời lại có mối liên hệ biện chứng với chúng. Tất cả các hình thái ý thức xã hội
đều là đối tượng nghiên cứu của khoa học. Khoa học có khả năng vạch rõ nguồn gốc
bản chất, xác định tính chính xác của sự phản ánh hiện thực và ý nghĩa xã hội của tất
cả các hình thái ý thức xã hội khác.
b) KHOA HỌC LÀ MỘT HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT:
Đứng ở góc độ hoạt động, khoa học có thể được hiểu là một lĩnh vực hoạt động
đặc biệt của loài người, giống như hoạt động văn hoá, nghệ thuật khoa học công
nghệ... Mỗi loại hình hoạt động có mục đích và phương thức riêng. Khoa học là một
loại hình hoạt động có mục đích khám phá bản chất và các qui luật vận động của thế
giới để ứng dụng chúng vào sản xuất và đời sống xã hội. Về thực chất, ở góc độ này,
khoa học được hiểu là hoạt động nghiên cứu khoa học, là quá trình phát minh sáng tạo
ra tri thức mới cho nhân loại.
1.1.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC.
1.1.2.1. Quá trình phát triển của khoa học.
Sự phát triển của khoa học gắn liền với lịch sử phát triển xã hội loài người. Khoa
học ra đời khi xã hội đã đạt tới trình độ phát triển nhất định và gắn liền với sự xuất
hiện những nhân vật có những năng lực trí tuệ đặc biệt.
+ Ở thời cổ đại khi mới hình thành, khoa học là một thể thống nhất chưa bị phân
chia, mọi lĩnh vực tri thức đều tập trung trong Triết học. Người đặt nền móng cho khoa
học cổ đại chính là Aristôt (384-270 trước CN), mọi tri thức khoa học và triết học thời
đó đều tìm thấy trong tác phẩm của ông. Triết học phát triển cùng với cuộc đấu tranh
của hai trào lưu duy vật và duy tâm.
Khoa học dần dần phát triển cùng với thời gian và trình độ nhận thức của xã hội
loài người. Triết học được phân thành Thiên văn học, Hình học, Cơ học, Tĩnh học...
Những bộ môn này đạt tới trình độ láy trái đất làm trung tâm trong hệ thống tri thức
thiên văn của Pơtôlêmêm, hình học của Ơclit, tĩnh học của Acsimet.
+ Thời Trung cổ kéo dài hàng nghìn năm, chủ nghĩa duy tâm thống trị xã hội.
Giáo hội bóp nghẹt mọi tư tưởng khoa học, làm cho khoa học tiến lên hết sức chậm
chạp. Tuy nhiên do nhu cầu của thực tiễn xã hội thúc đẩy, tri thức khoa học vẫn được
bổ xung, khoa học vẫn tiếp tục phát triển dù là rất chậm.
10
+ Thế kỷ XV-XVIII- thời kỳ Phục Hưng: Trong khuôn khổ chế độ Phong kiến
xuất hiện nhiều mầm mống của chế độ Tư bản, bắt đầu xuất hiện quá trình đô thị hoá
công nghiệp hoá, phát triển thương nghiệp, hàng hải… dần mở ra cho khoa học những
triển vọng mới.
F.Anghen cho rằng dây là thời kỳ dầu của sự phát triển khoa học hiện đại. Trong
thời kỳ này một loạt các nhà khoa học ra đời có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của
khoa học về sau như N.Côpécních, G.Galilê, I.Niutơn... Thuyết mặt trời là trung tâm
của Côpécních đánh đổ thuyết của Pơtôlêmê, giáng một đòn chí mạng vào Giáo hội.
Khoa học bắt đầu được phân chia thành các lĩnh vực theo đối tượng nghiên cứu.
Hoá học, Thực vật học, Sinh lý học, Địa chất học... đã trở thành khoa học độc lập.
Chính sự phân chia này lại dẫn tới việc nghiên cứu các lĩnh vực khoa học tách rời nhau
và truyền bá tư tưởng siêu hình về thế giới.
Trong thời kỳ này khoa học xã hội chưa phát triển hoàn chỉnh. Chủ nghĩa duy
tâm và phương pháp siêu hình là cơ sở Triết học để giải thích các hiện tượng xã hội.
+ Thế kỷ XVIII-XIX là thời kỳ phát triển Tư bản công nghiệp.
Phong trào đô thị hoá, công nghiệp hoá phát triển quy mô lớn nảy sinh những
nhu cầu lớn về lương thực, thực phẩm,dẫn tới sự phát triển Nông học, Thực vật học.
Sự cần thiết sản xuất phân bón, thuốc nhuộm... đặt ra hàng loạt vấn đề cho Hoá học.
Phương pháp phân tích định lượng và tổng hợp hữu cơ dẫn đến phát triển ngành Hoá
học công nghiệp. Cách mạng công nghiệp và việc sử dụng máy hơi nước đặt cho vật lý
những nhiệm vụ nghiên cứu mới. Sự xuất hiện điện báo, điện từ điện thắp sáng dẫn
đến sự phát triển khoa học về điện. Đó là một biểu hiện sinh động của mối quan hệ
biện chứng giữa khoa học và sản xuất.
Theo Anghen thời kỳ này có ba phát minh vĩ đại đó là: Định luật bảo toàn và
chuyển hoá năng lượng của R.Maye và J.Dulơ, Thuyết tế bào của P.Gôrianinôp và
F.Purơkinê, Thuyết tiến hoá của S.Đacuyn, đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
khoa học.
Cũng ở thời kỳ này, cùng với khoa học tự nhiên, khoa học xã hội cũng phát triển.
Cuộc đấu tranh thắng lợi giữa chủ nghĩa duy vật trước chủ nghĩa duy tâm. Quan điểm
lịch sử và phép biện chứng duy vật được phát hiện là những cống hiến hết sức to lớn
lao cho nhân loại.
Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển
của cả khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, như một đặc điểm nổi bật nhất của thời
kỳ này. Chủ nghĩa Mác là sự thống nhất giữa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
+ Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ mới trong lịch sử phát triển của
khoa học.
Phép duy vật biện chứng thâm nhập vào mọi lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
11
Khoa học tự nhiên bắt đầu được nghiên cứu bằng phương pháp thực nghiệm với
những kỹ thuật tinh vi.
Khoa học phân hoá mạnh thành các ngành các lĩnh vực, các bộ môn riêng, chúng
nghiên cứu rất sâu và rất đa dạng, đồng thời các ngành khoa học lại thâm nhập vào
nhau tạo thành các khoa học trung gian, liên ngành.
Khoa học đã trở thành bộ máy lớn mạnh có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt của đời
sống xã hội. Thành tựu của khoa học được ứng dụng rộng rãi và sản xuất làm cho công
nghiệp phát triển. Công nghiệp hoá bắt đầu diễn ra trên qui mô toàn thế giới.
+ Ở thế kỷ XX khoa học phát triển như vũ bão, lượng thông tin tăng nhanh, với
tốc độ lớn, phạm vi rộng.
Đây là thời kỳ phát triển nhanh nhất của khoa học trong lịch sử nhân loại. Khoa
học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tác động vào mọi mặt của đời sống xã
hội .
Khoa học làm cho nền sản xuất hiện đại phát triển nhanh có hàm lượng trí tuệ
cao, sản phẩm phong phú, chất lượng tốt thoả mãn nhu cầu cuộc sống của con người.
Khoa học và công nghệ là đặc trưng của thời đại, là một biểu hiện rực rỡ nhất của nền
văn minh trong toàn bộ lịch sử con người.
1.1.2.2. Quy luật phát triển của khoa học.
Nghiên cứu lịch sử phát triển của khoa học qua các thời kỳ dẫn ta đến những khái
quát về các quy luật phát triển của khoa học hiện đại như sau:
a)
Quy luật phát triển có gia tốc của tất cả các lĩnh vực khoa học
Điểm nổi bật nhất của sự phát triển khoa học hiện đại là nhịp độ phát triển ngày
càng gia tăng trong tất cả lĩnh vực, trên tất cả các phương diện. Ta dễ dàng nhận thấy
trong các lĩnh vực sau đây:
+ Lượng thông tin khoa học được khám phá ngày càng nhiều dẫn đến kỷ nguyên
bùng nổ thông tin. Theo tính toán của các nhà thông tin thì lượng thông tin khoa học
cứ từ 5 đến 7 năm lại tăng gấp hai lần. Riêng ở thế kỷ XX đã khám phá một số lượng
thông tin bằng 90% lượng thông tin đã khám phá được trong lịch sử nhân loại. Người
ta ví sự phát triển của khoa học như thời gian, không thể bắt thời gian dừng lại dược,
nhưng khác với thời gian là khoa học tiến lên với tốc độ ngày một cao.
+ Số lượng các nhà khoa học cũng tăng lên hết sức nhanh chóng, 90% các nhà
khoa học từng có mặt trên trái đất sống ở thế kỷ XX.
+ Việc gia tăng thông tin khoa học đã làm rút ngắn một chu kỳ phát triển lý
thuyết khoa học. Thời gian xem xét lại một lý thuyết khoa học ngày một rút ngắn, thí
dụ: Thuyết hấp dẫn của Aristốt tồn tại 2000 năm, thuyết của Niutơn 200 năm thuyết
của Dalton một thế kỷ, thuyết cấu trúc nguyên tử của Bor chỉ còn 10 năm.
12
Quá trình thay đổi các quan niệm khoa học không phải bằng phương pháp gạt bỏ
đơn giản theo lối cơ học mà là đi tìm cái mới, bằng các con đường mới, với cách
chứng minh mới, khách quan và chân thực hơn.
Chìa khoá để giải thích quy luật gia tăng nhịp độ phát triển của khoa học là sự
phát triển kế thừa biện chứng trong nhận thức khoa học về một thế giới thống nhất. Sự
phát triển nhanh chóng của khoa học là một biểu hiện sinh động của chính lịch sử loài
người.
b) Quy luật phát triển phân chia của khoa học
Tri thức khoa học là một thể thống nhất, đó là toàn bộ sự hiểu biết của con
người, là kết quả nghiên cứu về một thế giới thống nhất. Tuy nhiên, khách thể vô cùng
phức tạp trong quá trình nghiên cứu của mình không có một khoa học nào có thể bao
quát được toàn bộ khách thể phức tạp đó. Một quy luật hiển nhiên là khoa học phải
phân chia để nghiên cứu từng mặt, tưng bộ phận khác nhau của chúng. Đây là xu
hướng hiện thực của sự phát triển khoa học hiện đại nó đang diễn ra hết sức mạnh mẽ.
Nội dung của quá trình này là sự tách một bộ môn khoa học mới ra khỏi một bộ môn
khoa học đang tồn tại. Bản chất quá trình phân hoá các khoa học để hình (hành một bộ
ngôn khoa học có đối tượng nghiên cứu hẹp hơn. Phân chia là sự biểu hiện của phát
triển khoa học và chính phân hoá lại là con đường để khoa học phát triển mạnh mẽ
hơn.
Khoa học phân hoá thành các ngành các lĩnh vực khác nhau. Mỗi lĩnh vực chọn
cho mình một đối tượng, một phần trong khách thể rộng lớn. Sự phân hoá này cứ kéo
dài mãi tạo ra hệ thống các bộ môn khoa học chúng nghiên cứu các đối tượng rất hẹp.
Do vậy tri thức khoa học trở nên hết sức toàn diện và cũng hết sức sâu sắc.
Lịch sử khoa học đã chứng minh cho quy luật này. Trong thời kỳ Cổ đại, như
mọi người đều biết, triết học là khoa học duy nhất chứa đựng và tích hợp những tri
thức khoa học đầu tiên về tự nhiên và về xã hội cho nên chỉ có một loại hình quan hệ
phục tùng của một ngành tri thức trước triết học. Triết học biến thành một "khoa học
của các khoa học". “khoa học bên trên các khoa học”.
Từ thời Phục hưng, quan niệm này của triết học đã bị lung lay bởi sự phát triển
của chính bản thân khoa học tự nhiên: các khoa học tự nhiên bắt đầu tách khỏi triết
học từ trước đến nay vốn được coi là khoa học duy nhất. Sau này, đến lượt khoa học
xã hội (kinh tế học, chính trị học, lịch sử .v.v...) cũng tiếp tục phân lập để trở nên
những bộ môn khoa học độc lập. Ví dụ:
Triết học → Triết học, Lôgic học; Thiên văn học; Toán học; .v.v...
Toán học → Số học, Đại số học; Hình học; Lượng giác, v.v...
Hình học → Hình học Hình học giải tích, Hình học vi phân, v.v...
Vật lý → Vật lý lý thuyết, Vật lý thống kê; Cơ học; Nhiệt học, .v.v...
13
Ngày nay khoa học đã phân ra thành trên 2000 bộ môn khác nhau. Khoa học
đang nghiên cứu các khía cạnh của thế giới. Có những lĩnh vực khoa học nghiên cứu
các thành phần nhỏ bé nhất của vật chất như: hạt nhân nguyên tử, tế bào, gien... Có
những lĩnh vực khoa học nghiên cứu cá không gian vũ trụ bao la.
c) Quy luật tích hợp của các lĩnh vực khoa học
Một điều dễ nhận thấy là khoa học càng phân nhánh để đi vào nghiên cứu theo
chiều sâu, thì một bộ môn khoa học hẹp lại không thể bao quát nổi các đối tượng phức
tạp đó tính hệ thống cao. Do vậy, khi cần nhận thức những đối tượng phức tạp lại đòi
hỏi một sự phối hợp giữa các ngành và các bộ môn khoa học khác nhau tạo thành
những liên ngành để cùng nghiên cứu.
Như vậy là do nhu cầu bức thiết để khám phá và giải quyết những vấn đề phức
tạp của thực tiễn, cần liên kết các khoa học khác nhau để cùng nghiên cứu. Đó chính là
nguồn gốc tạo ra những môn khoa học mới, những lĩnh vực nghiên cứu mới và cũng
chính là sự biểu hiện của quy luật tích hợp của sự phát triển khoa học, một xu hướng
phát triển của khoa học hiện đại để tạo thành một bộ môn khoa học mới, Ví dụ:
Hoá học + Vật lý học → Hoá lý.
Hoá học + Sinh học → Hoá sinh.
Toán học + Vật lý học → Toán lý.
Toán học + Kinh tế học → Toán kinh tế
Kinh tế học + Chính trị học → Kinh tế chính trị học.
Xã hội học + Chính trị học → Xã hội học chính trị.
Kinh tế học + Xã hội học → Kinh tế học xã hội.
Vật lý học + Thiên văn học → vật lý thiên văn.
Sự phân nhánh càng sâu, nhánh phát triển càng nhiều, thì trong quá trình đó tạo
ra sự giao thoa, gặp gỡ giữa các khoa học lại càng thường xuyên hơn.
Ngày nay có những sản phẩm khoa học không phải là của một tác giả, một ngành
mà là kết quả nghiên cứu phối hợp của nhiều ngành, nhiều tập thể khoa học. Thí dụ,
nghiên cứu vũ trụ là công trình phối hợp giữa các nhà khoa học Thiên văn, vật lý, Kỹ
thuật, Sinh học, Y học, Tâm lý học...
Xu hướng này nói lên sự phát triển khoa học theo cơ chế tác động liên ngành và
mối quan hệ thống nhất hữu cơ của các lĩnh vực khoa học. Phân hoá và tích hợp khoa
học là hai xu hướng ngước chiều nhau, tưởng chừng chúng mâu thuẫn với nhau, nhưng
trong thực tế phát triển khoa học hiện đại chúng lại song song tồn tại, phụ thuộc vào
nhau, bổ xung cho nhau, cùng thúc đẩy sự tiến độ nhanh chóng của khoa học.
Khoa học phân hoá để phát triển và tích hợp để tạo nên một chất lượng mới, chất
14
lượng tổng họp. Cả hai xu hướng cùng tác động trực tiếp đến nhịp độ gia tăng của tri
thức khoa học và tới sự hoàn thiện của các phương pháp nhận thức và sự kiện toàn tổ
chức quá trình nghiên cứu khoa học.
d) Quy luật ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học
Khoa học và đời sống là hai phạm trù thoạt nhìn có vẻ tách rời nhau, nhưng thực
tế chúng lại gắn bó mật thiết với nhau. Mục đích của khoa học chính là cuộc sống,
nghiên cứu khoa học chính là làm tăng chất lượng cuộc sống. Nhu cầu cuộc sống là
động lực thúc đẩy quá trình nghiên cứu và trình độ phát triển của cuộc sống là điều
kiện cho sự phát triển của khoa học.
Lịch sử phát triển khoa học và công nghệ cho thấy nhịp độ ứng dụng các thành
tựu khoa học mỗi ngày một nhanh hơn, điều đó đem lại hiệu quả rất lớn làm phát triển
nhanh cả khoa học và chất lượng cuộc sống. Khoa học dược ứng dụng vào sản xuất tạo
ra công nghệ mới, ứng dụng vào cuộc sống xã hội tạo ra quy trình quản lý mới làm
nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Để chứng minh cho quy luật này ta có thể dẫn ra những con số thống kê sau đây,
về thời gian ngày một rút ngắn kể từ lúc phát minh lý thuyết đến khi áp dụng thành
công vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm.
Tên phát minh sáng chế Năm phát minh
Năm sản xuất
Thời gian
Máy hơi nước
1680
1780
100 năm
Máy chiếu bóng Phim
ảnh
1756
1844
88 năm
1832
1895
63 năm
Radio
1867
1902
35 năm
Ôtô
1868
1895
27 năm
Điêzen
1878
1897
19 năm
Máy bay
1897
1911
14 năm
Vô tuyến điện Tranzitor
12 năm
1934
1922
Do quy luật ứng dụng nhanh các thành tựu của khoa học vào sản xuất đã làm
thay đổi hàng loạt những tiêu chí trong sản xuất.
1- Rút ngắn thời gian đổi mới công nghệ sản xuất. Nếu trước đây một thế hệ máy
tồn tại từ 10 đến 12 năm thì nay còn 2 đến 3 năm, thậm chí còn ngắn hơn nữa.
2- Sản phẩm hàng hoá thường xuyên cải tiến mẫu mã và chất lượng ngày càng
được nâng cao. Các thế hệ sản phẩm mới luôn xuất hiện trên thị trường thí dụ hàng
điện tử, tin học, ô tô, xe máy thế hệ mới...
15
3- Cơ cấu giá thành sản phẩm hàng hoá đã thay đổi, nếu trước đây giá thành chủ
yếu do nguyên, vật liệu và sức lao động giản đơn tạo ra, thì ngày nay có những mặt
hàng tỷ trọng chất xám chiếm từ 60 đơn 70%. và còn cao hơn nữa.
4- Sản xuất hàng hoá rất chú trọng tới người tiêu dùng, đặc biệt là phục vụ cho
nhu cầu thẩm mỹ cá nhân.
1.1.3. TRƯỜNG PHÁI KHOA HỌC VÀ BỘ MÔN KHOA HỌC.
1.1.3.1. Trường phái khoa học.
Khoa học luôn đưa ra những phát hiện mới về quy luật phát triển của tự nhiên, xã
hội và chính con người. Các hiện lượng mới đó có thể đưa ra nhiều cách giải thích
khác nhau về cùng một sự vật hoặc vùng một hiện tượng. Ví dụ, các hiện tượng kinh tế
được xem xét trên giác độ chính trị (kinh tế học chính trị) hoặc được xem xét trên giác
độ xã hội kinh tế học xã hộp. Thường khi cách giải thích sau có tác dụng bố khuyết
cho các phát hiện trước đội khi thậm chí phủ định các phát hiện trước. Các khuynh
hướng khác nhau đó được gọi là trường phái khoa học.
Như vậy có thể xem trường phái khoa học là một hướng tiếp cận nghiên cứu
theo một góc nhìn xác định và bởi một hệ phương pháp luận xác định. Trường phái
khoa học xuất hiện là do sự phát triển ngày càng sâu rộng của khoa học do sự xuất
hiện các góc nhìn khác nhau dơi và đối tượng nghiên cứu, hoặc do sự vận dụng các có
sự phương pháp luận khác nhau để xem xét đối lượng nghiên cứu.
Trường phái khoa học không chỉ dừng lại ở ý nghĩa học thuật và thường khi đã
chuyển sang một phạm trù được gọi là xã hội học của khoa học. Sự hình thành các
trường phái khoa học mới thường có thể dẫn đến những phản ứng tâm lý trong bản
thân cộng đồng khoa học và trong xã hội, thậm chí làm nổ ra những cuộc tranh luận
hoặc đụng độ quan điểm giữa trường phái khoa học mới với trường phái khoa học
truyền thống xã hội với tôn giáo, thậm chí giữa các trường phái khoa học với nhau,
giữa một hộ môn khoa học mới xuất hiện với các bộ môn khoa học khác, đặc biệt là
với triết học.
Lịch sử khoa học dã chứng kiến những cuộc đấu tranh quyết liệt giữa triết học
với xã hội học, giữa triết học với lý thuyết hệ thống và điều khiển học, giữa triết học
với di truyền học v.v... như cuộc đấu tranh giữa trường phái nhật tâm (xem mặt trời là
trung tâm vũ trụ) và trường phái địa tâm (xem trái đất là trung tâm của vũ trụ ) trong
thiên văn học; giữa trường phái duy vật vã duy tâm trong triết học; giữa trường phái
Euclide với trường phái phi-Euclide trong hình học; giữa bản chất sóng của ánh sáng
với bản chất hạt của ánh sáng trong quang học v.v...
Cuộc đấu tranh giữa các trường phái trong khoa học bao giờ cũng diễn ra hết sức
gay gắt và dai dẳng, thậm chí kéo dài hàng trăm năm. Ví dụ, Toán học hệ nhị phân (hệ
đếm 2) đã bị toán học hệ thập phân chê cười và phủ định gần 150 năm từ khi xuất hiện
môn đại số Boole cho đến khi còn người chế tạo được chiếc máy tính điện tử đầu tiên.
16
Lúc đó, người ta mới vỡ lẽ ra rằng toán học hệ đếm 2 là cơ sở để xây dựng các nguyên
lý hoạt động của máy tính điện tử. Hơn nữa, ngày nay, người ta không thể tưởng tượng
nổi nếu không có ngành toán học hệ đếm 2 thì làm sao có được nền văn minh tin học
hiện đại như bây giờ và người ta cũng chưa hình dung hết triển vọng của nó. Cuộc đấu
tranh giữa các trường phái trong khoa học xã hội còn dai dẳng và gay gắt hơn nhiều.
Trường phái là một tồn tại khách quan. Thái độ người nghiên cứu đối với trường
phái trước hết phải là một thái độ thực sự khoa học để xem xét trường phái. Người làm
nghiên cứu khoa học không được chấp nhận sự kỳ thị trường phái, mà phải biết tìm
mối quan hệ giữa các trường phái để hiểu sâu sắc thêm các thuộc tính các khía cạnh
khác nhau của sự vật và hiện tượng, đồng thời phải biết xây dựng luận cứ khoa học
vững chắc để cuối cùng, phải đi đến sự thừa nhận hoặc không thừa nhận một trường
phái.
1.1.3.2. Bộ môn khoa học.
Sự xuất hiện một bộ môn khoa học thường dẫn tới sự thừa nhận hoặc không thừa
nhận. Để có thể đi tới thừa nhận hoặc không thừa nhận, không chỉ dựa trên cỏ sở tranh
cãi cảm tính mà phải dựa trên cơ sở những tiêu chí. Dựa trên cò sự của những tiêu chí
về một bộ môn khoa học, người nghiên cứu sẽ tự kiểm tra một trường phái hoặc một
bộ môn khoa học mà mình đề xướng, hoặc xem xét phân tích những trường phái hoặc
bộ môn khoa học được các đồng nghiệp đề xướng. Nhiều tài liệu thống nhất những
tiêu chí để xem xét một bộ môn khoa học có thể bao gồm như sau:
+ Có một đối tượng nghiên cứu
Điều kiện tiên quyết để trở thành một bộ môn khoa học là phải có một đối tượng
nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là bản thân sự vật hoặc hiện tượng được đặt trong
phạm vi quan tâm của bộ môn khoa học. Đương nhiên, một sự vật hoặc hiện tượng có
thể là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học khác nhau, nhất là những vấn
đề nằm ở vị trí giáp ranh giữa các bộ môn khoa học.
~ Có một }lệ thống là thuyết.
Chỉ khi hình thành được một hệ thống lý thuyết, một bộ môn khoa học mới
khăng dinh ~đưỏc vị trí trong hệ thống khoa học. Hệ thống lý thuyết của một bộ môn
khoa học bao gồm các phạm trù, khái niệm, tiên đề, quy luật, định luật định lý v.v...
Trong hệ thống lý thuyết của một bộ môn khoa học bao giờ cũng có hai bộ phận:
một bộ phận là cơ sở lý thuyết riêng đặc trưng cho bộ môn khoa học được xem xét;
còn một bộ phận là những cơ sở lý thuyết được thâm nhập từ các bộ môn khoa học
khác.
+ Có một hệ thống phươngg pháp luận.
Tuỳ thuộc đối tượng nghiên cứu, một bộ môn khoa học được đặc trưng bởi một
hệ thống phương pháp luận nghiên cứu. Phương pháp luận nghiên cứu của một bộ môn
17
khoa học cũng bao gồm hai bộ phận: Một bộ phận phương pháp luận riêng và một bộ
phận phương pháp luận được thâm nhập từ các bộ môn khoa học khác. Đây là điểm
đáng lưu ý trong nền khoa học hiện đại.
+ Có mục đích ứng dụng.
Mỗi bộ môn khoa học có những mục đích ứng dụng xác định. Trù trường hợp
những nghiên cứu cơ bản chưa biết trước mục đích ứng dụng thậm chí có thể nói có
những trường hợp mùa nghiên cứu không thể biết được hoặc không cần biết dân mục
đích ứng dụng của vấn đề mình nghiên cứu. Điều này rất có thể có một số người không
đồng ý, nhưng đối với khoa học thì đó lại là một hiện tượng phù hợp với quy luật của
khoa học. Thí dụ trượng hợp đại số Boole, ngay George Boole cũng không giải thích
được cho những người đương thời về mục đích ứng dụng của môn đại số mà ông đã đề
xướng. Chỉ đến ngày nay người ta mới biết được ứng dụng lo lớn như thế nào của toán
học hệ đếm 2. Mặc dù như vậy, người nghiên cứu cũng cần phải có đủ luận cứ để bác
bỏ sự ngộ nhận tính phi mục đích của một số lĩnh vực nghiên cứu.
1.1.4. PHÂN LOẠI KHOA HỌC:
Từ những thế hệ khoa học thời Cổ đại qua Trung đại cho đến thế hệ khoa học
Đương đại, các triết gia và các nhà nghiên cứu đã có mối quan tâm sâu sắc đến phân
loại khoa học. Lịch sử khoa học đã biết đến rất nhiều bảng phân loại khoa học, từ công
trình của những triết gia và học giả mà những người bình thường nhất trong giới
nghiên cứu cũng biết đến tên tuổi, như: Aristole, Descarte, Epicure, v.v... cho đến
những nhà nghiên cứu đồng thời là những nhà cải cách xã hội có tầm vóc vượt khỏi
thời đại, như Saint Simon, Karl Marx và Friedric Engels.
Chỉ đến C.Mác ( 1818- 1883) và F.A nghen (1820-1895) mới là những người đầu
tiên đem lại cơ sở khoa học thực sự cho vấn đề phân loại. Các ông cho rằng mỗi khoa
học phản ánh một hình thức vận động của vật chất. Sự Phân loại khoa học chính là sự
phân chia các hình thức vận động của khách thể phù hợp với tính nhất quán, bản chất
bên trong của chúng. Mối liên hệ, chuyển hoá giữa các khoa học là phản ánh sự
chuyển hoá, phát triển các hình thức vận động của thế giới.
Phân loại khoa học phải được dựa trên hai nguyên tắc cơ bản sau đây:
1- Nguyên tắc khách quan: Thế giới vận động bằng nhiều hình thức, một hình
thức phụ thuộc vào tính chất đặc hữu bên trong của vật chất, tương ứng với nó là thiết
lập các lĩnh vực khoa học cụ thể.
Mỗi lĩnh vực khoa học phản ánh một hình thức vận động của vật chất và tất cả
khoa học phản ánh toàn bộ các hình thức vận động của thế giới trong mối quan hệ biện
chứng của chúng và tuân theo một trật tự nhất định.
Phân loại khoa học phải dựa trên các hình thức vận động của khách thể, dựa trên
các tính chất nhất quán bên trong của khách thể. Nói một cách cụ thể hơn phân loại
18
khoa học phải dựa vào đối tượng mà nó nghiên cứu. Nguyên tắc phân loại này được
gọi là nguyên tắc khách quan.
2- Nguyên tắc phối thuộc : Các khoa học được phân loại và sắp xếp trên tiếp
theo một bậc thang phù hợp với trật tự phát triển của thế giới vật chất và phù hợp với
nhận thức của loài người. Tri thức có sau xuất phát từ tri thức có trước và bao hàm tri
thức có trước như một yếu tố tất yếu. Nguyên tắc phân loại như vậy được gọi là
nguyên tắc phối thuộc.
Sự phân loại các khoa học theo nguyên tác phối thuộc vừa là chú ý tới quy luật
phát triển của vật chất, vừa là chú ý lới tính kế thừa biện chứng của sự phát triển của
khoa học, điều đó vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn.
Cách phân loại của UNESCO:
Các chuyên gia của UNESCO phân khoa học thành 5 lĩnh vực:
1) Khoa học tự nhiên và khoa học chính xác.
2) Khoa học kỹ thuật.
3) Khoa học nông nghiệp.
4) Khoa học về sức khoẻ.
5) Khoa học xã hội và nhân văn.
Mỗi cách phân loại có đặc điểm riêng"và chúng được sử dụng tuỳ theo mục đích
tại chức nghiên cứu, ứng dụng hay quản lý khoa học.
1.2. CÔNG NGHỆ.
1.2.1. KHÁI NIỆM VÊ CÔNG NGHỆ:
Do quy luật tự nhiên của sự phát triển khoa học và sự gắn bó mật thiết giữa khoa
học và sản xuất xã hội, khoa học phát triển đã kéo theo sự phát triển nhanh chóng về
kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Khoa học đã làm cho sức sản xuất tăng gấp bội và đã
đạt được những thành tựu rực rỡ chưa từng có trong lịch sử loài người.
Trong những ngày đầu công nghiệp hoá, người ta sử dụng rất phổ biến thuật ngữ
kỹ thuật (Technique) với ý nghĩa là các giải pháp thực hiện một loại công việc hay
công cụ được sử dụng trong sản xuất làm tăng hiệu quả sản xuất. Thí dụ: kỹ thuật bôi
trơn chống ăn mòn kim loại trong các chi tiết máy.
Khi xuất hiện thuật ngữ công nghệ sản xuất, lúc đầu nó được hiểu là quy trình kỹ
thuật dùng trong dây chuyền sản xuất, về sau khái niệm công nghệ sản xuất được hiểu
theo nghĩa rộng hơn và dần dần ổn định như ngày nay.
Theo định nghĩa mà Trung tâm chuyển giao công nghệ Châu Á và Thái Bình
Dương đề xướng, thì công nghệ sản xuất là tất cả những gì liên quan đến việc biến đổi
tài nguyên ở đầu vào thành hàng hoá ở đầu ra của quá trình sản xuất. Hệ thống công
19
nghệ sản xuất bao gồm:
+ Hệ thống máy móc, thiết bị đồng bộ của các dây chuyền sản xuất (phần kỹ
thuật).
+ Thông tin về quy trình sản xuất hay các bí quyết kỹ thuật cho một hệ sản xuất
(Phần thông tin).
+ Trình độ tay nghề kỹ năng của người lao động trực tiếp sản xuất (phần con
người).
+ Trình độ tổ chức quản lý, điều hành sản xuất của ban quản lý xí nghiệp, công
ty (phần tổ chức).
Công nghệ (Technology) là thuật ngữ gọi tắt của công nghệ sản xuất bao gồm
hai phần: phần kỹ thuật và phần thông tin. Phần kỹ thuật của công nghệ gọi là phần
cứng (Hardware). Phần thông tin gọi là phán mềm (Sofrware).
Như vậy, công nghệ là hệ thống thiết bị kỹ thuật và thôngtin về quy trình sản xuất
được áp dụng trong quá trình chế biến tài nguyên thành sản phẩm hàng hóa và dịch
vụ.
Về bản chất, công nghệ là kết quả của quá trình áp dụng các thành tựu của khoa
học vào sản xuất. Công nghệ là sản phẩm của lao động trí tuệ sáng tạo của con người
trong lĩnh vực sản xuất. Công nghệ là tổ hợp nhiều công đoạn của quy trình ứng dụng
kiến thức khoa học vào sản xuất, và phương tiện để chế biến tài nguyên vật chất thành
sản phẩm hàng hoá.
Tuy nhiên công nghệ luôn gắn chặt với công nghiệp, Công nghiệp và công nghệ
là hai mặt của một thực thể thống nhất. Công nghệ là nền tảng của công nghiệp, còn
công nghiệp là phương thức chuyển tải công nghệ vào cuộc sống. Hiện đại hoá gắn
chặt với công nghiệp hoá nền sản xuất, vì nóng cốt của hiện đại hoá là công nghiệp
hoá. Công nghiệp hoá phải dựa và công nghệ tiên tiến ở trình độ cao. Công nghiệp
hiện đại với công nghệ cao mà hệ trung tâm là máy tính điện tử tạo khả năng tự động
hoá hoàn toàn trong các dây chuyển sản xuất và đem lại năng xuất và hiệu quả sản
xuất rất lớn.
Trong nền công nghiệp hiện đại một phần lao động sức lực và trí tuệ giao cho
máy móc đảm nhiệm. Rôbốt thông minh hay vị trí con người trong những lao động
chính xác nặng nhọc và độc hại. Những dây chuyền cơ điện tử (Mechatronic) điều
khiển bằng máy tính, hoàn toàn tự động từ khâu tính toán, thiết kế đến khâu nhập vật
liệu, gia công, lắp ráp, kiểm tra thành phẩm và nhập kho. Con người đứng bên cạnh
dây chuyền làm nhiệm vụ chỉ huy, điều chỉnh và kiểm tra chung, từ đó xuất hiện thuật
ngữ công nghệ cao.
Công nghệ cao là một khái niệm nói về một nền sản xuất ở trình độ tinh xảo nhất
với những đặc điểm sau đây:
20
- Xem thêm -