Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật việt nam về hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế
MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................... 1
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................2
Chương 1. Những điểm cơ bản của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
bằng đường biển quốc tế..........................................................................................3
1.1. Khái niệm.........................................................................................................3
1.2. Phân loại hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế.....4
1.3. Đặc trưng của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển
quốc tế.................................................................................................................... 5
Chương 2: Thực trạng thực thi pháp luật về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
bằng đường biển quốc tế ở Việt Nam......................................................................8
2.1. Các nguồn luật điều chỉnh hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng
đường biển quốc tế ở Việt Nam...............................................................................8
2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật tại Việt Nam về
bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển...................................................9
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển quốc tế...........................................................................11
3.1. Những nguyên tắc cơ bản khi hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển quốc tế...........................................................................11
3.1.1. Đảm bảo tính kế thừa trong các quy định của pháp luật bảo hiểm hàng hải
Việt Nam...............................................................................................................11
3.1.2. Đáp ứng được yêu cầu phát triển, hội nhập và nâng cao khả năng cạnh
tranh của ngành hàng hải và ngành bảo hiểm......................................................11
3.1.3. Đảm bảo tính phù hợp, thống nhất với hệ thống pháp luật bảo hiểm Việt
Nam...................................................................................................................... 12
3.1.4. Phù hợp với pháp luật và thông lệ bảo hiểm hàng hải quốc tế trên cơ sở sát
với thực tiễn của hoạt động bảo hiểm hàng hải tại Việt Nam...............................12
3.1.5. Bảo đảm tính dự liệu trước của pháp luật bảo hiểm hàng hải tại Việt Nam
.............................................................................................................................. 14
3.1.6. Đảm bảo tính dễ hiểu, dễ vận dụng của pháp luật bảo hiểm hàng hải.......14
3.2. Một số giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật bảo hiểm Việt
Nam về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển........................................15
3.2.1. Tạo ra tính thống nhất giữa Luật kinh doanh bảo hiểm và Bộ luật hàng hải
Việt Nam trong quy định về bảo hiểm trùng.........................................................15
3.2.2. Sửa đổi quy định tại Điều 12 Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển hiện hành cho phù hợp với Bộ luật hàng hải Việt Nam 18
3.2.3. Soạn thảo, ban hành tài liệu giải thích các điều khoản bảo hiểm hàng hải
để áp dụng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam.............................20
3.2.4. Sửa đổi, bổ sung một số điều trong Bộ luật hàng hải Việt Nam để đảm bảo
tính phù hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc tế..............................................22
KẾT LUẬN.................................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO
27
1
LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế có vai trò hết sức
quan trọng trong hoạt động ngoại thương của các quốc gia, đặc biệt là những nước mà
vận tải biển là phương thức vận tải chủ yếu trong thương mại quốc tế như ở Việt Nam.
Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế chịu sự điều chỉnh của
một hệ thống quy phạm pháp luật hết sức phức tạp. Tính chất quốc tế của việc vận chuyển
hàng hóa bằng đường biển đòi hỏi một sự tương thích nhất định giữa luật bảo hiểm hàng
hải của mỗi quốc gia với các chuẩn mực tiên tiến về bảo hiểm hàng hải quốc tế.
Cũng như nhiều nước trên thế giới, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng
đường biển ở Việt Nam là một nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải, do đó nó được điều chỉnh
trước tiên bởi Bộ luật hàng hải Việt Nam. Bộ luật hàng hải Việt Nam đầu tiên được
ban hành từ năm 1990, sau hơn 10 năm áp dụng đã nhường chỗ cho Bộ luật hàng hải
Việt Nam năm 2005. So với Bộ luật hàng hải năm 1990, Bộ luật hàng hải năm 2005 có
nhiều điểm tiến bộ vượt trội. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tiến bộ, bản thân Bộ
luật này vẫn còn có những hạn chế, khiếm khuyết. Bên cạnh đó, hiện trạng thực thi
pháp luật về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển trong lĩnh vực hàng hải ở nước ta cũng
đặt ra những vấn đề pháp lý cần phải giải quyết.
Xuất phát từ lý do trên, nhóm đã quyết định lựa chọn đề tài "Một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng
đường biển quốc tế".
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
tiểu luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những điểm cơ bản của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
bằng đường biển quốc tế.
Chương 2: Thực trạng thực thi pháp luật về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
bằng đường biển quốc tế ở Việt Nam .
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển quốc tế
Mong cô và các bạn có những đóng góp để bài tiểu luận của chúng em được
hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
2
Chương 1. Những điểm cơ bản của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển quốc tế
1.1. Khái niệm
Khái niệm hợp đồng bảo hiểm được quy định tại Điều 567 Bộ luật dân sự
2005 và Điều 12 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000. Tuy nhiên, đây chỉ là khái
niệm chung về hợp đồng bảo hiểm. Cả hai đạo luật trên đều không quy định về bất
kỳ hợp đồng bảo hiểm cụ thể nào. Do đó, để đi đến khái niệm về hợp đồng bảo
hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế, trước hết luận văn bắt đầu
bằng khái niệm hợp đồng bảo hiểm hàng hải được đề cập tại Điều 224 Bộ luật
hàng hải Việt Nam 2005.
1. Hợp đồng bảo hiểm hàng hải là hợp đồng bảo hiểm các rủi ro hàng hải, theo đó
người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người được bảo hiểm những tổn thất hàng hải
thuộc trách nhiệm bảo hiểm theo cách thức và điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Rủi ro hàng hải là những rủi ro liên quan đến hành trình đường biển, bao
gồm các rủi ro của biển, cháy, nổ, chiến tranh, cướp biển, trộm cắp, kê biên,
quản thúc, giam giữ, ném hàng xuống biển, trưng thu, trưng dụng, trưng mua,
hành vi bất hợp pháp và các rủi ro tương tự hoặc các rủi ro khác được thỏa thuận
trong hợp đồng bảo hiểm.
2. Hợp đồng bảo hiểm hàng hải có thể mở rộng theo những điều kiện cụ thể
hoặc theo tập quán thương mại để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm đối
với những tổn thất xảy ra trên đường thuỷ nội địa, đường bộ hoặc đường sắt thuộc
cùng một hành trình đường biển [2].
Từ khái niệm hợp đồng bảo hiểm trong Bộ luật dân sự; Luật kinh doanh bảo
hiểm và khái niệm hợp đồng bảo hiểm hàng hải trong Bộ luật hàng hải nói trên, có
thể hiểu: Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế là sự
thỏa thuận bằng văn bản giữa người mua bảo hiểm và người bảo hiểm, theo đó
người mua bảo hiểm phải trả phí bảo hiểm còn người bảo hiểm phải bồi thường cho
người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra cho hàng hóa được bảo hiểm
trong suốt hành trình được bảo hiểm.
3
1.2. Phân loại hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế
Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế thường
được chia thành hai loại là hợp đồng bảo hiểm chuyến và hợp đồng bảo hiểm bao.
Hợp đồng bảo hiểm chuyến là hợp đồng bảo hiểm cho một lô hàng trên một
chuyến hành trình từ địa điểm này đến địa điểm khác. Đây là loại hợp đồng "tường
minh" nhất bởi lẽ những thông tin về đối tượng bảo hiểm như: tên hàng, số lượng
xếp xuống tàu, đặc điểm nhận biết, giá trị bảo hiểm, phí bảo hiểm... cũng như những
thông tin về phương tiện vận chuyển, hành trình như: tên tàu, chủ tàu, cảng xếp hàng,
ngày xếp hàng... đều được thể hiện rõ trong hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm bao là hợp đồng bảo hiểm trọn gói, được áp đối với
đối tượng bảo hiểm là một loại hàng hóa hoặc một số hàng hóa mà người được
bảo hiểm gửi đi hoặc nhận được trong một khoảng thời gian nhất định (thường là
1 năm). Hợp đồng bảo hiểm bao thường áp dụng cho các khách hàng nhập khẩu
thường xuyên với khối lượng hàng hóa lớn từ nhiều cảng, nhiều nơi trên thế giới
hay với lô hàng lớn, vận chuyển giao hàng nhiều lần. Khác với hợp đồng bảo
hiểm chuyến, khi giao kết hợp đồng bảo hiểm bao có nhiều thông tin liên quan
đến hợp đồng người bảo hiểm chưa được biết. Chính vì lẽ đó mà hợp đồng bảo
hiểm bao được coi là một dạng hợp đồng nguyên tắc trong đó các bên thỏa thuận
các điều khoản làm cơ sở cho việc tính giá trị bảo hiểm, phí bảo hiểm tương ứng
với những điều kiện bảo hiểm, phương thức thanh toán phí, cam kết về phương
tiện chuyên chở... Với mỗi chuyến hàng bên mua bảo hiểm phải có nghĩa vụ cung
cấp những thông tin mà bên bảo hiểm yêu cầu và theo yêu cầu của bên mua bảo
hiểm, bên bảo hiểm phải cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho từng chuyến hàng mà
bên mua bảo hiểm nhập (xuất).
Trong thực tiễn kinh doanh, do mang lại nhiều lợi ích và ưu thế hơn so với
hợp đồng bảo hiểm chuyến nên hợp đồng bảo hiểm bao luôn được các doanh nghiệp
bảo hiểm khuyến khích áp dụng. Hợp đồng bảo hiểm bao phù hợp đối với những
khách hàng có khối lượng hàng hóa nhập, xuất lớn trong năm. Hợp đồng bảo hiểm
bao được ký kết và thực hiện trên tinh thần thiện chí.
4
1.3. Đặc trưng của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường
biển quốc tế
So với những hợp đồng khác, hợp đồng bảo hiểm nói chung hợp đồng bảo
hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế nói riêng có những nét đặc
trưng riêng, đó là:
- Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế là loại
hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế là loại
hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Sở dĩ như vậy bởi lẽ hợp đồng bảo hiểm này có
mối quan hệ mật thiết với hợp đồng ngoại thương. Các chủ thể của hợp đồng mua
bán ngoại thương ở các nước khác nhau, có ngôn ngữ, luật pháp, tập quán và thói
quen buôn bán khác nhau. Do đó, các chủ thể của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển quốc tế có thể là người nước ngoài. Bên cạnh đó, người
vận chuyển có thể là hãng tàu của chính nước nhập khẩu, nước xuất khẩu hoặc
nước thứ ba. Quá trình vận chuyển hàng hóa thường qua lãnh hải của nhiều quốc
gia. Chính vì vậy, trong một chừng mực nhất định, yếu tố nước ngoài luôn chi phối
đến các khía cạnh kỹ thuật và pháp lý của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
bằng đường biển quốc tế.
- Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế là
loại hợp đồng song vụ.
Khác với dạng hợp đồng đơn vụ, trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa, hai bên
trong hợp đồng bảo hiểm đều có nghĩa vụ đối với nhau. Nghĩa vụ bồi thường bảo hiểm
của bên bảo hiểm tương xứng với nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm của bên được bảo hiểm;
nghĩa vụ giải thích các điều kiện, điều khoản của hợp đồng bảo hiểm đi đôi với nghĩa
vụ kê khai thông tin của bên được bảo hiểm ... Nghĩa vụ của các bên trong quá trình
giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển được Luật kinh doanh
bảo hiểm quy định tại các điều 17, 18. Tuy nhiên, pháp luật kinh doanh bảo hiểm cũng
không ngăn cấm các bên trong hợp đồng có những thỏa thuận riêng.
5
- Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế là loại
hợp đồng mở sẵn, tùy thuộc (hợp đồng theo mẫu)
Mẫu hợp đồng bảo hiểm được đưa ra bởi bên bảo hiểm - người bảo hiểm soạn
thảo sẵn các điều khoản cơ bản của hợp đồng bảo hiểm. Khi giao kết hợp đồng bảo
hiểm, đối với phần điều kiện chung, người tham gia bảo hiểm chỉ có thể chấp thuận
toàn bộ hoặc không giao kết hợp đồng bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm chỉ có thể
đàm phán để thỏa thuận về các điều khoản riêng của hợp đồng như: giới hạn hành
trình được bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm ...
Chính vì đặc trưng này mà trong hợp đồng bảo hiểm, nếu có điều khoản nào
đó không rõ ràng thì bên bảo hiểm phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó.
- Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế là
loại hợp đồng bồi thường
Cũng như mọi hợp đồng bảo hiểm thiệt hại khác, hợp đồng bảo hiểm hàng
hóa vận chuyển bằng đường biển là loại hợp đồng bồi thường. Thực chất, để đổi lấy
khoản phí bảo hiểm của người mua bảo hiểm, người bảo hiểm phải cung cấp cho
người được bảo hiểm một loại dịch vụ đặc biệt. Đó là cam kết bồi thường khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm gây thiệt hại cho người được bảo hiểm. Việc thanh toán tiền bồi
thường trong trường hợp này có mục đích bù đắp những tổn thất và chi phí mà
người được bảo hiểm phải gánh chịu khi hàng hóa của họ gặp rủi ro trong quá trình
vận chuyển và bốc dỡ. Căn cứ để người bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bồi thường là
thiệt hại thực tế của người được bảo hiểm, các quy định của pháp luật liên quan và
các thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
- Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế là
một hợp đồng "tín nhiệm"
Hợp đồng bảo hiểm chỉ có giá trị pháp lý khi việc xác lập hợp đồng được tiến
hành trên cơ sở các thông tin trung thực của các bên. Trung thực, thiện chí trong việc
thực hiện nghĩa vụ và quyền thỏa thuận trong hợp đồng là điều kiện tiên quyết cho
việc duy trì hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm bị vô hiệu hoặc buộc phải chấm
dứt vì những hành vi gian lận, ý đồ trục lợi bảo hiểm của người được bảo hiểm.
6
- Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế chịu sự
điều chỉnh của một hệ thống các quy định pháp lý phức tạp
Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế chịu sự điều chỉnh
của một hệ thống các quy phạm pháp luật khá phức tạp. Hệ thống các quy phạm pháp
luật này được quy định trong Luật hàng hải quốc gia, Luật hàng hải Anh quốc, các
Điều ước quốc tế, các điều kiện thương mại quốc tế... Những quy phạm pháp luật liên
quan đến nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên trong quan hệ mua bán, vận chuyển được
đề cập trong các nguồn luật này có liên quan chặt chẽ tới việc giao kết, thực hiện và
giải quyết tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển.
7
Chương 2: Thực trạng thực thi pháp luật về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
bằng đường biển quốc tế ở Việt Nam.
2.1. Các nguồn luật điều chỉnh hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
bằng đường biển quốc tế ở Việt Nam
Đánh giá về hiện trạng thực thi pháp luật về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
bằng đường biển quốc tế ở Việt Nam không thể không nói đến những kết quả đạt
được từ việc ban hành các quy phạm pháp luật và tác động của nó đến hoạt động
kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm này ở nước ta.
Khởi xướng từ Đại hội Đảng VI, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chuyển sang
cơ chế thị trường từ nửa cuối thập kỷ 80. Trước đòi hỏi của cơ chế thị trường trong
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc
cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh. Hệ thống các văn bản pháp
luật trong mọi lĩnh vực đã được rà soát, sửa đổi và ban hành mới theo xu hướng
công bằng và minh bạch hơn.
Trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, bước ngoặt lớn nhất trên khía cạnh
pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm là việc ban hành Luật kinh doanh bảo
hiểm ngày 09/12/2000 và chính thức có hiệu lực từ 01/4/2001. Trước Luật kinh
doanh bảo hiểm, Bộ luật Hàng hải Việt Nam cũng được Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 30/6/1990 và
chính thức có hiệu lực từ 01/01/1991. Sau 15 năm áp dụng, Bộ luật này đã bộc lộ
nhiều điểm lỗi thời và khiếm khuyết, đây chính là lý do cho việc ra đời Bộ luật
hàng hải Việt Nam mới. Kế thừa Bộ luật hàng hải Việt Nam 1990 , Bộ luật hàng hải
Việt Nam 2005 được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 và
có hiệu lực thi hành từ 01/01/2006.
So với Bộ luật hàng hải Việt Nam 1990, Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 có
nhiều điểm mới, phù hợp hơn với hệ thống pháp luật hàng hải quốc tế, sát với đòi hỏi
của thực tiễn hoạt động hàng hải và bảo hiểm hàng hải ở Việt Nam đồng thời khắc
phục được nhiều khiếm khuyết trong Bộ luật hàng hải 1990. Ưu điểm lớn nhất liên
quan đến hoạt động bảo hiểm hàng hải đạt được trong Bộ luật này là những những
thay đổi trong quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của người vận chuyển.
8
Trong bảo hiểm hàng hải, ngoài Bộ luật hàng hải Việt Nam, Bộ Tài chính
còn ban hành Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển
1990 (QTC 1990). Quy tắc này được soạn thảo theo nội dung của bộ điều khoản bảo
hiểm của Hiệp hội bảo hiểm London ban hành năm 1982 (ICC 1982). Đây là cơ sở
quan trọng để các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam vận dụng trong kinh doanh bảo
hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển
Cùng với những văn bản pháp lý trên, hàng loạt văn bản dưới luật được ban
hành để hướng dẫn thi hành Bộ luật hàng hải và Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam.
Trên nền tảng của các văn bản pháp luật về bảo hiểm, việc thực thi pháp
luật về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế ở Việt Nam đã có
những kết quả nhất định. Trước tiên, đó là sự chuyển biến trong nhận thức của
người bảo hiểm và người mua bảo hiểm. Quá trình nhận thức về pháp luật bảo hiểm
nói chung và bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế nói riêng đã
tạo nên một tư duy pháp luật ở cả người bảo hiểm lẫn người mua bảo hiểm. Điều
này chi phối đến các hành vi pháp luật từ việc thể hiện ý muốn đến việc giao kết và
thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Sau nữa, những tranh chấp xuất phát từ sự thiếu hiểu
biết, ấu trĩ pháp luật của các bên liên quan trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển quốc tế cũng có xu hướng ít dần. Đây là kết quả của sự
hiểu biết pháp luật bảo hiểm ngày càng cao trong hàng ngũ những người làm bảo
hiểm và các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu.
2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật tại Việt
Nam về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển
Qua nghiên cứu thực tiễn, những hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực thi
pháp luật về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển được tổng kết trong
những điểm chủ yếu sau:
(1) Những hạn chế, khiếm khuyết trong các quy định pháp lý từ Bộ luật hàng
hải đến Luật kinh doanh bảo hiểm và Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
9
bằng đường biển dẫn đến những hiểu biết lệch lạc và sự lợi dụng sơ hở của luật pháp để
thực hiện các hành vi trục lợi bảo hiểm. Những hạn chế, khiếm khuyết này bao gồm:
- Quy định về hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển vẫn
có hiệu lực trong trường hợp hàng hóa đã bị tổn thất trước thời điểm giao kết hợp
đồng bảo hiểm nếu người được bảo hiểm không biết về điều đó trong Quy tắc chung
về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển là một sơ hở lớn nhất mà bên
mua bảo hiểm, thậm chí cả cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp bảo hiểm có thể lợi
dụng để trục lợi bảo hiểm.
- Sự không nhất quán và khiếm khuyết trong quy định về bảo hiểm trùng giữa
Bộ luật hàng hải Việt Nam và Luật kinh doanh bảo hiểm cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn tới những vướng mắc trong quá trình vận dụng để giải quyết những
vấn đề thực tiễn nảy sinh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
(2) Tính không rõ ràng, khó hiểu trong một số quy định pháp lý có liên
quan đến bảo hiểm hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng
đường biển nói riêng, có thể dẫn đến những hiểu lầm và ngộ nhận trong quá trình
giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
(3) Sự khác biệt giữa Bộ luật hàng hải Việt Nam với các nguồn luật quốc tế,
việc thiếu các chuyên gia có trình độ, có kinh nghiệm sâu về lĩnh vực hàng hải làm
việc tại các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong bảo hiểm hàng hải
khiến quá trình giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải
kéo dài, gây tốn kém và làm cho việc truy đòi người thứ ba trong bảo hiểm hàng hải
đã khó lại càng khó hơn.
10
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hiểm hàng hóa
vận chuyển bằng đường biển quốc tế
3.1. Những nguyên tắc cơ bản khi hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm hàng
hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế
3.1.1. Đảm bảo tính kế thừa trong các quy định của pháp luật bảo hiểm hàng hải
Việt Nam
Quá trình xây dựng mới hoặc sửa đổi bổ sung bất kỳ một văn bản pháp luật
nào đều dựa trên nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa của pháp luật. Tính kế thừa ở đây
muốn nói lên rằng cái mới ra đời phải trên nền tảng của cái cũ, không phủ định hoàn
toàn (phủ định sạch trơn) cái cũ. Đảm bảo tính kế thừa của pháp luật có ý nghĩa quan
trọng đối với các nhà làm luật của bất kỳ quốc gia nào. Để đảm bảo tính kế thừa, đòi
hỏi phải có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc và toàn diện những quy phạm pháp
luật đã được đưa ra từ trước. Trên cơ sở đó, sự kế thừa được đặt trên quan điểm duy trì
và chắt lọc những điều còn phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
Chính vì lý do đó, việc nghiên cứu và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
bảo hiểm hàng hóa trong lĩnh vực hàng hải trong đề tài phải đặt ra nguyên tắc đầu tiên
là đảm bảo tính kế thừa trong quy định của pháp luật hàng hải Việt Nam.
3.2.1.2. Đáp ứng được yêu cầu phát triển, hội nhập và nâng cao khả năng cạnh
tranh của ngành hàng hải và ngành bảo hiểm
Việc ra đời của bất kỳ một văn bản pháp luật nào hoặc rộng hơn là bất kỳ một
ngành luật nào, trước tiên đều xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống.
Xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, luật pháp lại quay trở lại phục vụ
cuộc sống xã hội. Thực tiễn cuộc sống luôn phức tạp và vận động không ngừng, chính
vì vậy cái đúng của ngày hôm nay chưa chắc đã đúng ở ngày mai. Triết lý này đã tạo
nên tính lịch sử của pháp luật.
Trong bối cảnh hiện nay, trước thềm của việc Việt Nam gia nhập vào Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), mọi chính sách và luật pháp đã ban hành trước đây đều
phải rà soát lại, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quá trình hội nhập ngày càng sâu
rộng. Năm năm gần đây đã chứng kiến hàng loạt thay đổi lớn trong lĩnh vực luật pháp
của Việt Nam. Những thay đổi này đều xuất phát từ đòi hỏi của việc minh bạch hóa và
tạo nên một sự công bằng cho tất cả chủ thể chịu sự điều chỉnh của pháp luật, không
11
phân biệt yếu tố trong nước, ngoài nước, không phân biệt thành phần kinh tế đặt ra
trong quá trình hội nhập. Suy cho cùng, mọi sự thay đổi nói trên đều hướng tới việc
phù hợp hơn với các quy luật của kinh tế thị trường và thúc đẩy phát triển kinh tế,
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài không thể vượt ra ngoài mục tiêu đáp ứng
được yêu cầu phát triển, hội nhập và nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành hàng hải
và ngành bảo hiểm Việt Nam.
3.2.1.3. Đảm bảo tính phù hợp, thống nhất với hệ thống pháp luật bảo hiểm Việt Nam
Trong một quốc gia, hệ thống các quy phạm pháp luật bao gồm rất nhiều văn
bản pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau. Chính đòi hỏi của tính phù hợp, tính
thống nhất trong hệ thống các quy phạm pháp luật đã tạo nên sự gắn bó hữu cơ giữa
Hiến pháp với các bộ luật và các văn bản dưới luật. Trong mỗi ngành luật, tính phù
hợp, tính thống nhất giữa các quy phạm pháp luật cũng là một đòi hỏi chính đáng của
thực tiễn.
Hệ thống pháp luật bảo hiểm Việt Nam bao gồm các quy phạm pháp luật được
quy định trong Luật kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật dân sự, Bộ luật hàng hải, Luật
thương mại, Luật hàng không, … và các văn bản dưới luật khác. Các quy phạm pháp
luật này có nội dung điều chỉnh những mối quan hệ pháp luật nảy sinh từ hoạt động
kinh doanh bảo hiểm.
Bảo hiểm hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường
biển nói riêng chịu sự điều chỉnh trước hết bởi Bộ luật hàng hải Việt Nam. Chính vì
vậy, yêu cầu đặt ra là tạo nên tính phù hợp giữa Bộ luật hàng hải Việt Nam và các quy
tắc, điều khoản, quy định trong bảo hiểm hàng hải với hệ thống pháp luật bảo hiểm
Việt Nam có ý nghĩa quan trọng.
3.1.4. Phù hợp với pháp luật và thông lệ bảo hiểm hàng hải quốc tế trên cơ sở sát
với thực tiễn của hoạt động bảo hiểm hàng hải tại Việt Nam
Hoạt động hàng hải không chỉ làm phát sinh các mối quan hệ pháp luật giữa
các chủ thể trong một quốc gia mà còn phát sinh các quan hệ pháp luật giữa các chủ
thể của nhiều quốc gia khác nhau. Chính vì vậy, hoạt động hàng hải là một trong các
hoạt động mang tính quốc tế sâu rộng.
12
Tính quốc tế của hoạt động hàng hải quyết định tính quốc tế của hoạt động
bảo hiểm hàng hải. Trong bảo hiểm hàng hải, một hợp đồng bảo hiểm có thể bao gồm
nhiều chủ thể thuộc các nước khác nhau. Do đó, một sự khác biệt trong pháp luật bảo
hiểm của một nước có thể kéo theo những xung đột pháp luật trong quá trình xác lập,
giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hải.
Tính quốc tế của hoạt động bảo hiểm hàng hải, ngoài việc bị chi phối bởi tính
quốc tế của hoạt động hàng hải, còn bị chi phối bởi chính đặc thù của hoạt động phân
tán rủi ro trong kinh doanh bảo hiểm. Phương pháp phân tán rủi ro chủ yếu và đặc thù
nhất của các doanh nghiệp bảo hiểm là Tái bảo hiểm.
Tái bảo hiểm là nghiệp vụ mà người bảo hiểm sử dụng để chuyển một phần
trách nhiệm đã chấp nhận với người được bảo hiểm cho người bảo hiểm khác trên cơ
sở nhượng lại cho người bảo hiểm đó một phần phí bảo hiểm. Chính hoạt động tái bảo
hiểm đã tạo nên sự gắn kết các nhà bảo hiểm trên toàn cầu.
Sự bất trắc trong các hành trình hàng hải đã dạy cho các nhà bảo hiểm sử
dụng tái bảo hiểm như một biện pháp phân tán rủi ro, đảm bảo sự an toàn trong kinh
doanh. Trong quan hệ tái bảo hiểm, một hợp đồng bảo hiểm gốc được ký kết cần phải
có những điều khoản phù hợp với hợp đồng tái bảo hiểm. Sự phù hợp trước tiên là
phải ở các điều khoản quy định về phạm vi bảo hiểm, loại trừ bảo hiểm, cách tính và
thanh toán bồi thường, …
Xuất phát từ những lý do trên, trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng
hải đòi hỏi phải có sự phù hợp giữa pháp luật bảo hiểm của mỗi nước với pháp luật
và thông lệ hàng hải quốc tế. Bên cạnh đó, việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp
luật bảo hiểm ở mỗi quốc gia phải tính tới sự phù hợp với thực tiễn hoạt động bảo
hiểm hàng hải ở quốc gia đó.
Những phân tích trên đây cho thấy việc tuân thủ nguyên tắc phù hợp với pháp
luật và thông lệ bảo hiểm hàng hải quốc tế trên cơ sở sát với thực tiễn của hoạt động
bảo hiểm hàng hải tại Việt Nam là yêu cầu cho mọi nghiên cứu nhằm đưa ra các kiến
nghị hoàn thiện pháp luật bảo hiểm Việt Nam trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải.
13
3.1.5. Bảo đảm tính dự liệu trước của pháp luật bảo hiểm hàng hải tại Việt Nam
Không phủ nhận rằng pháp luật ra đời xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của
cuộc sống. Tuy nhiên, cuộc sống không đứng yên mà luôn vận động, thay đổi. Do
đó, để đảm bảo cho các quy phạm pháp luật được ban hành có giá trị sử dụng lâu
dài thì việc đảm bảo tính dự liệu trước của pháp luật có ý nghĩa quyết định. Trên
thế giới, không ít những bộ luật có giá trị sử dụng hàng thế kỷ. ở Việt Nam, tính
lỗi thời nhanh chóng của nhiều văn bản quy phạm pháp luật một phần do yêu cầu
của việc xây dựng luật là quán triệt và thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng, chủ
trương chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ, một phần là do tính dự liệu
trước trong quá trình xây dựng luật còn hạn chế.
Thực tiễn này cho thấy việc đảm bảo tính dự liệu trước của pháp luật bảo hiểm
hàng hải Việt Nam là yêu cầu đặt ra cho mọi nghiên cứu trong lĩnh vực này.
3.1.6. Đảm bảo tính dễ hiểu, dễ vận dụng của pháp luật bảo hiểm hàng hải
Dễ hiểu, dễ vận dụng (tính đại chúng) là yêu cầu đặt ra cho việc xây dựng
bất kỳ một văn bản luật nào. Trong lĩnh vực bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng
hải nói riêng, việc đảm bảo yêu cầu này có ý nghĩa quan trọng. Sở dĩ như vậy bởi
lẽ một sự không rõ ràng trong các quy định của luật hàng hải và các quy tắc, điều
khoản bảo hiểm đều có nguy cơ dẫn đến những tranh chấp không đáng có trong
quá trình vận dụng.
Đặc điểm của pháp luật bảo hiểm hàng hải là trong luật có sử dụng nhiều
thuật ngữ chuyên ngành. Hơn thế nữa, việc kế thừa các nguồn luật có tính quốc tế
đều vấp phải vấn đề khó khăn về ngôn ngữ. Trong thực tiễn kinh doanh bảo hiểm ở
Việt Nam, nhiều quy tắc, điều khoản bảo hiểm được dịch từ các văn bản tiếng Anh
nên ít nhiều gây ra những sự khó hiểu, khó vận dụng. Những khó khăn trong việc
chuyển tải ngữ nghĩa trong quá trình Việt hóa các văn bản này là nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến những hiểu lầm và ngộ nhận trong quá trình thống nhất ý chí, xác lập
và thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hải.
Từ những lý do trên mà yêu cầu đặt ra đối với pháp luật bảo hiểm nói chung
và pháp luật về bảo hiểm hàng hải nói riêng là hạn chế đến mức thấp nhất những tranh
14
chấp có thể nảy sinh từ tính không rõ ràng và không đại chúng trong quá trình giao kết
và thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hải.
3.2. Một số giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật bảo
hiểm Việt Nam về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển
3.2.1. Tạo ra tính thống nhất giữa Luật kinh doanh bảo hiểm và Bộ luật hàng hải
Việt Nam trong quy định về bảo hiểm trùng
Vấn đề bảo hiểm trùng được quy định trong Điều 44 Luật kinh doanh bảo
hiểm như sau:
1. Hợp đồng bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng
bảo hiểm với hai doanh nghiệp bảo hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng,
với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm.
2. Trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng, khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ
giữa số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng mà
bên mua bảo hiểm đã giao kết. Tổng số tiền bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm
không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản [4].
Trong khi đó, tại Điều 234 Bộ luật hàng hải Việt Nam lại quy định:
1. Trường hợp có hai hoặc nhiều đơn bảo hiểm do người được bảo hiểm, người
đại diện của người được bảo hiểm giao kết về cùng đối tượng bảo hiểm và cùng một
rủi ro hàng hải mà tổng số tiền bảo hiểm vượt quá giá trị bảo hiểm thì người được bảo
hiểm được coi là đã bảo hiểm vượt quá giá trị bằng cách bảo hiểm trùng
2. Trong trường hợp bảo hiểm trùng quy định tại khoản 1 điều này thì tất cả
những người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường trong phạm vi giá trị bảo hiểm
và mỗi người chỉ chịu trách nhiệm tương ứng với số tiền bảo hiểm mà mình đã nhận
bảo hiểm [2].
Nghiên cứu quy định về bảo hiểm trùng trong Luật kinh doanh bảo hiểm và
Bộ luật hàng hải Việt Nam đặt ra ba vấn đề cần được giải quyết:
15
Vấn đề thứ nhất: Sự khiếm khuyết và sơ hở trong quy định bảo hiểm trùng
trong Luật kinh doanh bảo hiểm.
Thật vậy, theo Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam, để được gọi là bảo hiểm
trùng chỉ cần có đủ ba dấu hiệu, đó là:
- Cùng một đối tượng bảo hiểm;
- Đối tượng được bảo hiểm bởi hai hợp đồng bảo hiểm trở lên;
- Các hợp đồng bảo hiểm có cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm.
Theo định nghĩa bảo hiểm trùng trong Bộ luật hàng hải, để được gọi là bảo
hiểm trùng cần có đủ bốn dấu hiệu, đó là:
- Cùng một đối tượng bảo hiểm;
- Đối tượng được bảo hiểm bởi hai hợp đồng bảo hiểm trở lên;
- Các hợp đồng bảo hiểm có cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm;
- Tổng số tiền bảo hiểm của các hợp đồng vượt quá giá trị bảo hiểm.
Như vậy, so sánh với định nghĩa về bảo hiểm trùng trong Bộ luật hàng hải,
định nghĩa bảo hiểm trùng trong luật kinh doanh bảo hiểm còn thiếu quy định về tổng số
tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng phải lớn hơn giá trị bảo hiểm.
Sự khiếm khuyết trong định nghĩa bảo hiểm trùng trong Luật kinh doanh bảo
hiểm sẽ nảy sinh một vấn đề trong thực tiễn là không có một ranh giới nào để phân
biệt bảo hiểm trùng với đồng bảo hiểm và bảo hiểm giá trị gia tăng và dẫn tới một sơ
hở trong luật. Để làm rõ điều này, xin đưa ra một ví dụ minh họa. Chẳng hạn, một
người có một tài sản trị giá 100 triệu đồng, được bảo hiểm đồng thời bằng hai hợp
đồng bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm A và doanh nghiệp bảo hiểm B với số tiền
bảo hiểm lần lượt là 20 triệu đồng và 30 triệu đồng. Giả sử xảy ra một tổn thất 50 triệu
đồng thuộc trách nhiệm bồi thường của cả hai doanh nghiệp bảo hiểm. Đối chiếu với
quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật kinh doanh bảo hiểm thì rõ ràng đây là bảo hiểm
trùng và như vậy, theo khoản 2 điều này thì các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải bồi
thường như sau:
- Doanh nghiệp bảo hiểm A bồi thường = 50 tr x (20 tr: 50 tr) = 20 triệu đồng
- Doanh nghiệp bảo hiểm B bồi thường = 50 tr x (30 tr: 50 tr) = 30 triệu đồng
16
Tổng số tiền bồi thường của hai doanh nghiệp bảo hiểm là 50 triệu đồng. Sự
sơ hở trong luật được thể hiện trong ví dụ trên là ở chỗ người được bảo hiểm nhận
được tổng số tiền bồi thường là 50 triệu đồng trong khi lẽ ra họ chỉ được nhận số tiền
bồi thường là 25 triệu đồng với cách tính toán bồi thường theo quy tắc tỷ lệ đối với các
hợp đồng bảo hiểm dưới giá trị tương ứng là:
- Doanh nghiệp bảo hiểm A bồi thường = 50 tr x (20tr: 100 tr) = 10 triệu đồng.
- Doanh nghiệp bảo hiểm B bồi thường = 50 tr x (30tr: 100 tr) = 15 triệu đồng.
Vấn đề thứ hai: Sự không rõ ràng trong điều 234 Bộ luật hàng hải Việt Nam
về cách giải quyết bồi thường trong trường hợp bảo hiểm trùng.
Quy định tại khoản 2 Điều 234 Bộ luật hàng hải Việt Nam, mỗi người bảo
hiểm chỉ chịu trách nhiệm tương ứng với số tiền bảo hiểm mà mình đã nhận bảo hiểm
trong trường hợp bảo hiểm trùng là thiếu rõ ràng. Điều này sẽ dẫn tới khó khăn trong
việc vận dụng của các doanh nghiệp bảo hiểm trong thực tiễn kinh doanh bảo hiểm
hàng hóa vận chuyển bằng đường biển.
Vấn đề thứ ba: Trong thực tế, nhiều trường hợp bảo hiểm trùng xảy ra do bên
mua bảo hiểm có chủ ý từ trước với mong muốn trục lợi trong quan hệ bảo hiểm. Đây
là vấn đề mà nhiều doanh nghiệp bảo hiểm quan tâm và thức tế họ đã tốn không ít
công sức, tiền bạc vào việc phát hiện và hạn chế hành vi trục lợi kiểu này. Tuy nhiên,
cố gắng của các doanh nghiệp bảo hiểm cũng không thể đủ để làm lành mạnh hóa
quan hệ giữa các bên trong hợp đồng bảo hiểm nếu thiếu sự hậu thuẫn của Nhà nước
bằng công cụ luật pháp. Với góc độ như vậy, thiết nghĩ các quy định của pháp luật bảo
hiểm Việt Nam trong Luật kinh doanh bảo hiểm và Bộ luật hàng hải còn thiếu một
khoản quy định về chế tài sử dụng trong trường hợp các doanh nghiệp bảo hiểm có đủ
bằng chứng chứng minh rằng việc tham gia bảo hiểm trùng xuất phát từ ý đồ trục lợi
của bên mua bảo hiểm.
Từ ba vấn đề đặt ra trên đây, chúng tôi xin đưa ra các kiến nghị sau:
Thứ nhất: Sửa đổi khoản 1 điều 44 Luật kinh doanh bảo hiểm theo hướng bổ
sung thêm một dấu hiệu nữa của bảo hiểm trùng là tổng số tiền bảo hiểm của các hợp
đồng bảo hiểm phải lớn hơn giá trị bảo hiểm. Điều này không những tạo ra sự thống
nhất giữa Luật kinh doanh bảo hiểm với Bộ luật hàng hải, tạo ra sự chặt chẽ trong định
17
nghĩa bảo hiểm trùng trong Luật kinh doanh bảo hiểm mà còn giúp phân biệt rõ ràng
giữa bảo hiểm trùng với đồng bảo hiểm và bảo hiểm giá trị gia tăng.
Thứ hai: Sửa đổi khoản 2 Điều 234 Bộ luật hàng hải Việt Nam theo cách quy
định rõ ràng về trách nhiệm bồi thường của mỗi doanh nghiệp bảo hiểm trong bảo
hiểm trùng là xác định số tiền bồi thường của mỗi doanh nghiệp bảo hiểm trên cơ sở tỷ
lệ giữa số tiền bảo hiểm của từng đơn bảo hiểm và tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các
đơn bảo hiểm. Sửa đổi này giúp cho việc vận dụng trong thực tiễn được thuận lợi hơn
và tránh tranh chấp có thể xảy ra giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm.
Thứ ba: Bổ sung thêm khoản 3 trong Điều 44 Luật kinh doanh bảo hiểm và
Điều 234 Bộ luật hàng hải Việt Nam quy định về việc các doanh nghiệp bảo hiểm
được phép từ chối bồi thường trong trường hợp chứng minh được ý đồ man trá, trục
lợi của bên mua bảo hiểm trong bảo hiểm trùng. Quy định này hoàn toàn phù hợp với
pháp luật bảo hiểm của các nước phát triển và có tác dụng ngăn ngừa, răn đe các hành vi
trục lợi bảo hiểm thông qua việc cố ý tham gia bảo hiểm tại nhiều doanh nghiệp bảo
hiểm của người mua bảo hiểm.
3.2.2. Sửa đổi quy định tại Điều 12 Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển hiện hành cho phù hợp với Bộ luật hàng hải Việt Nam
Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển hiện đang
được các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam áp dụng dựa trên nền tảng của Quy tắc
chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển do Bộ Tài chính ban hành
năm 1990 (QTC 1990). Tại Điều 12 QTC 1990 quy định:
Nếu hợp đồng bảo hiểm được ký kết khi đã xảy ra tổn thất trong phạm vi trách
nhiệm của hợp đồng thì hợp đồng vẫn giữ nguyên giá trị, nếu người được bảo hiểm
không hay biết gì về tổn thất đó. Nhưng nếu người được bảo hiểm đã biết có tổn thất
rồi thì người bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường mà vẫn có quyền nhận
phí bảo hiểm [5].
Như vậy, theo quy định tại điều này, nếu một hợp đồng bảo hiểm hàng hóa
vận chuyển bằng đường biển được giao kết khi hàng hóa đã bị tổn thất thì người
bảo hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu tổn thất đó thuộc phạm vi bảo
hiểm. Người bảo hiểm chỉ có quyền từ chối bồi thường khi đã chứng minh được tại
18
thời điểm giao kết hợp đồng, người được bảo hiểm đã biết thông tin về tổn thất
hàng hóa. Thực tế, việc chứng minh này là vô cùng khó khăn với người bảo hiểm
bởi họ luôn là người bị động. Do đó, gần như trong các trường hợp tương tự, người
bảo hiểm đều phải chịu bất lợi trong tranh chấp với người được bảo hiểm và người
được bảo hiểm hoàn toàn có thể đưa người bảo hiểm vào tình thế buộc phải bồi
thường khi đã đặt bút ký vào hợp đồng bảo hiểm.
Có thể thấy rằng, quy định này đưa ra trong điều kiện việc chuyển tải thông
tin từ người vận chuyển đến người được bảo hiểm về hành trình của hàng hóa trên
biển khi xảy ra sự cố thường đến chậm do công nghệ thông tin lạc hậu là phù hợp.
Ngày nay, với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin trong lĩnh vực hàng hải cho phép việc tiếp nhận thông tin của người được
bảo hiểm về tổn thất xảy ra cho hàng hóa của họ một cách nhanh chóng thì quy
định này đã trở nên lỗi thời. Không những thế, nó còn tạo ra cơ hội cho những âm
mưu đen tối nhằm rút tiền của bảo hiểm bằng việc tham gia bảo hiểm khi biết sự
kiện bảo hiểm đã xảy ra của những người có hành vi bất chính.
Vụ việc xảy ra tại Công ty cổ phần bảo hiểm Xăng dầu (PJICO) năm 2005
là một ví dụ điển hình minh chứng cho tác hại của Điều 12 QTC 1990. Khi cơ quan
cảnh sát điều tra thực hiện lệnh bắt Trần Nghĩa Vinh - nguyên tổng giám đốc PJICO
và cấp phó Hồ Mạnh Quân ngày 14/5/2005 vì bị cáo buộc về hành vi nhận hối lộ
1,9 tỷ đồng (bằng 50% số tiền được duyệt bồi thường) trong việc giải quyết bồi
thường tổn thất của một lô hàng đã tham gia bảo hiểm từ năm 2002, mọi tình tiết
của vụ việc mới được báo chí làm sáng tỏ. Theo kết luận điều tra, thực chất vụ này
là hành vi cán bộ bảo hiểm câu kết với khách hàng mua bảo hiểm (bà Phan Hồng
Thu - giám đốc Công ty Việt Thái Phong), để nhận bảo hiểm và bồi thường cho một
lô hàng tôm đông lạnh đã bị tổn thất từ trước để rút tiền bảo hiểm. Trong quá trình
tranh chấp, sau nhiều lần thương lượng, do PJICO không có căn cứ để chứng minh
bà Thu đã biết về sự kiện hàng bị tổn thất vào thời điểm mua bảo hiểm, đã dẫn tới
một thỏa hiệp vi phạm pháp luật nói trên.
19
3.2.3. Soạn thảo, ban hành tài liệu giải thích các điều khoản bảo hiểm hàng hải để
áp dụng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam
Nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm hàng hải của các nước phát triển, đặc biệt là
pháp luật bảo hiểm hàng hải của Anh quốc - pháp luật bảo hiểm được coi là chuẩn
mực và được vận dụng rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên thế giới cho thấy, bên cạnh
việc ban hành các điều khoản bảo hiểm như ICC 1982; ITC 1995 (điều khoản bảo
hiểm thời hạn thân tàu), ủy ban kỹ thuật và điều khoản - Học hội bảo hiểm London
còn ban hành cuốn "Phân tích các điều khoản bảo hiểm hàng hải" nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc vận dụng các bộ điều khoản này trong thực tiễn kinh doanh bảo
hiểm.
Sở dĩ có kiến nghị này trong luận văn bởi lẽ, trong các điều khoản bảo hiểm
hàng hải nói chung và Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường
biển hiện đang áp dụng ở Việt Nam nói riêng còn nhiều quy định khó hiểu, khó vận
dụng trong thực tiễn. Chẳng hạn tại khoản 2 điều 2 Quy tắc chung về bảo hiểm hàng
hóa vận chuyển bằng đường biển quy định:
e) Phần trách nhiệm thuộc điều khoản "Tàu đâm va hai bên cùng có lỗi" ghi trong hợp
đồng vận chuyển được coi như là một loại tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bồi
thường của người bảo hiểm. Trường hợp chủ tàu khiếu nại theo điều khoản đó thì
người được bảo hiểm có trách nhiệm thông báo cho người bảo hiểm biết. Người bảo
hiểm dành quyền bảo vệ người được bảo hiểm, chống lại việc khiếu nại của chủ tàu và
tự chịu các phí tổn [5].
Quy định này thực sự gây khó hiểu không chỉ cho người được bảo hiểm mà còn
cho cả những người làm bảo hiểm khi chưa có chuyên môn sâu về lĩnh vực này.
Để vận dụng điều khoản này vào thực tiễn kinh doanh bảo hiểm hàng hải,
trong cuốn "Phân tích các điều khoản bảo hiểm hàng hải" các nhà bảo hiểm Anh cắt
nghĩa như sau:
"Tàu đâm va hai bên cùng có lỗi" là một điều khoản trong hợp đồng vận
chuyển. Điều khoản này giúp người vận chuyển được thoát trách về những tổn thất của
hàng hóa chở trên tàu khi xảy ra tai nạn đâm va với tàu khác mà họ có một phần lỗi.
Thực chất quy định này khiến chủ hàng (người được bảo hiểm trong bảo hiểm hàng
20
- Xem thêm -