Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Giáo án điện tử Kỹ năng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự...

Tài liệu Kỹ năng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

.DOCX
24
311
140

Mô tả:

KỸ NĂNG XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
KỸ NĂNG XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay thì Tòa án có một vai trò hết sức quan trọng mà ở đó hoạt động của Tòa án biểu hiện rõ nhất quyền lực Nhà nước thông qua việc xét xử các loại vụ án: Dân sự, hình sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính và các nhiệm vụ khác mà pháp luật quy định. Qua thực tiễn xét xử các vụ án hình sự chúng ta nhận thấy: quá trình giải quyết vụ án trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó hoạt động xét xử các vụ án hình sự là hoạt động rất khó khăn và phức tạp; có quan hệ trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và là một vấn đề nhạy cảm, được dư luận, xã hội quan tâm. Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định trình tự và các bước xét xử vụ án hình sự kể cả giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Trong đó đã quy định rõ về thẩm quyền của Tòa án các cấp và các bước giải quyết vụ án hình sự. Muốn giải quyết đúng đắn vụ án hình sự đòi hỏi các Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa cũng như các Hội thẩm nhân dân phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự cũng như các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để có thể đưa ra một phán quyết công bằng và đúng pháp luật trên cơ sở nghiên cứu khách quan, toàn diện từng vụ án cụ thể. Để giúp các đồng chí hiểu rõ hơn về quy trình và các vấn đề liên quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trong phạm vi bài giảng này tôi muốn giới thiệu đến các đồng chí nội dung: “Kỹ năng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự”. I. NHẬN, THỤ LÝ VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ. 1. Nhận đơn kháng cáo; hồ sơ có kháng cáo, kháng nghị. VBQPPL: - BLTTHS năm 2003 (các điều 231, 232, 234, 239) - Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (các mục 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Phần I). Việc nhận kháng cáo và xử lý kháng cáo tại Tòa án cấp phúc thẩm được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.2 mục 3 Phần I của Nghị quyết số 05/2005/NQHĐTP như sau: “3.2. Việc nhận đơn kháng cáo và xử lý kháng cáo tại Tòa án cấp phúc thẩm. a, Trong trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm nhận được đơn kháng cáo và các tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có) thì Tòa án cấp phúc thẩm phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các công việc theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 mục 3 này. b, Trong trường hợp người kháng cáo đến Tòa án cấp phúc thẩm trình bày trực tiếp về việc kháng cáo thì Tòa án cấp phúc thẩm giải thích cho họ biết là họ chỉ có quyền trình bày trực tiếp về việc kháng cáo với Tòa án cấp sơ thẩm”. Trước hết, cán bộ thường trực Tòa hình sự - Tòa án cấp tỉnh khi nhận đơn kháng cáo cần nghiên cứu đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị để xác định xem kháng cáo, kháng nghị có hợp lệ không; chủ thể kháng cáo, kháng nghị có đúng không; thời gian kháng cáo, kháng nghị có đảm bảo không; lý do và yêu cầu kháng cáo, kháng nghị. Những công việc cần làm, kỹ năng thực hiện trong giai đoạn này như sau: - Theo đó, trước tiên cần xác định chủ thể có quyền kháng cáo và giới hạn kháng cáo của mỗi loại chủ thể đối với bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Để xác định đúng cần căn cứ vào Điều 231 BLTTHS; hướng dẫn tại mục 1 Phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP: “1. Về Điều 231 của BLTTHS Chủ thể có quyền kháng cáo và giới hạn kháng cáo của việc kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm được xác định như sau: 1.1. Bị cáo, người đại diện hợp pháp (đại diện hợp pháp theo pháp luật) của bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm. 1.2. Người bào chữa cho bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích cho bị cáo. 1.3. Người bị hại, người đại diện hợp pháp (hoặc đại diện theo pháp luật) của người bị hại trong trường hợp người bị hại chết hoặc trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Trong trường hợp người bị hại chỉ kháng cáo phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, thì họ có thể ủy quyền cho người khác. Người được ủy quyền có các quyền và nghĩa vụ như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự. … 1.8. Người được Tòa án tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do của bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội.” - Tiếp theo xác định chủ thể có quyền kháng nghị của Viện kiểm sát theo quy định tại Điều 232 BLTTHS. Về nguyên tắc chung Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Kháng nghị của Viện kiểm sát phải làm bằng văn bản, có nêu rõ lý do và được gửi đến Tòa án đã xử sơ thẩm vụ án (khoản 2 Điều 233 của BLTTHS). Thời hạn kháng nghị đối với các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười lăm ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định (khoản 1 Điều 239 của BLTTHS). Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án (khoản 1 Điều 234 BLTTHS). Tuy nhiên, cần phân biệt kháng nghị đối với quyết định nào của Tòa án cấp sơ thẩm mới được xem xét ở Tòa án cấp phúc thẩm. Vì vậy cần nghiên cứu kỹ hướng dẫn tại mục 2 Phần I Nghị quyết số 05/2005 như sau: “… 2.1. Trường hợp kháng nghị đối với quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm, thì Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng nghị cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. 2.2. Trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp kháng nghị quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, thì căn cứ vào khoản 2 Điều 316 của BLTTHS, việc kháng nghị và xét kháng nghị được tiến hành như đối với bản án sơ thẩm. 2.3. Trường hợp kháng nghị đối với các quyết định khác, thì Tòa án cấp sơ thẩm phải căn cứ vào quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật liên quan quy định về thẩm quyền và thủ tục kháng nghị, giải quyết kháng nghị cụ thể đó”. - Kiểm tra thủ tục kháng cáo đã hợp lệ hay chưa. - Việc nhận kháng cáo và xử lý kháng cáo chủ yếu được thực hiện tại Tòa án cấp sơ thẩm. Cần nghiên cứu hướng dẫn tại mục 3 Phần I Nghị quyết số 05/2005 để kiểm tra việc nhận kháng cáo và xử lý kháng cáo tại Tòa án cấp sơ thẩm đã đúng và đầy đủ hay chưa để có quyết định tương ứng phù hợp. - Khi Tòa án cấp phúc thẩm nhận được đơn kháng cáo và các tài liệu chứng cứ kèm theo (nếu có) thì phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các công việc theo thủ tục chung. - Kiểm tra kháng cáo, kháng nghị có làm đúng trong thời hạn quy định tại Điều 234 và Điều 239 BLTTHS hay không? Để kết luận đúng, cần phải xác định đúng thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị và ngày kháng cáo theo hướng dẫn tại mục 4 Phần I Nghị quyết số 05/2005: “4. Về Điều 234 của BLTTHS 4.1.Thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị a, Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị là ngày tiếp theo của ngày được xác định. Ngày được xác định là ngày Tòa án tuyên án hoặc ra quyết định trong trường hợp Viện kiểm sát, bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa hoặc là ngày bản án, quyết định được giao hoặc được niêm yết trong trường hợp bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa. b, Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó. Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó. 4.2. Xác định ngày kháng cáo “... c, Trong trường hợp người kháng cáo đến nộp đơn kháng cáo tại Tòa án hoặc trong trường hợp họ đến Tòa án cấp sơ thẩm trình bày trực tiếp về việc kháng cáo, thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án nhận đơn hoặc là ngày Tòa án lập biên bản về việc kháng cáo”. - Xem xét kháng cáo quá hạn: Thư ký Tòa án được phân công nhận hồ sơ có kháng cáo, kháng nghị cần kiểm tra có kháng cáo quá hạn hay không, nếu có thì báo cáo lãnh đạo Tòa án để xem xét kháng cáo quá hạn. + Khi có kháng cáo quá hạn, thì Tòa án cấp phúc thẩm phải thành lập Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán để xét lý do kháng cáo quá hạn. Việc xét lý do kháng cáo quá hạn phải được thực hiện trước khi mở phiên tòa; + Việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận, nếu có lý do chính đáng, tức là trong trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định. Ví dụ: do thiên tai, lũ lụt; do ốm đau, bị tai nạn phải nằm viện điều trị… + Để xét kháng cáo quá hạn đúng quy định tại điều 235 BLTTHS cần nghiên cứu kỹ hướng dẫn tại mục 5 Phần I Nghị quyết số 05/2005; + Quyết định chấp nhận việc kháng cáo quá hạn phải làm đúng theo mẫu số 01c và Quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn phải làm đúng theo mẫu số 01d (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005). - Kiểm tra Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đầy đủ việc thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị hay chưa? Để kết luận đúng phải căn cứ vào Điều 236 BLTTHS và hướng dẫn trong mục 6 Phần I Nghị quyết số 05/2005. - Thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị phải làm đúng theo mẫu số 01đ (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005). - Xử lý việc bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị, việc rút kháng cáo, kháng nghị và để xử lý đúng việc rút kháng cáo, kháng nghị, ngoài việc căn cứ vào Điều 238 BLTTHS, cần nghiên cứu kỹ hướng dẫn tại mục 7 Phần I Nghị quyết số 05/2005. - Cuối cùng là xem xét thông báo việc rút kháng cáo, kháng nghị có đúng theo mẫu số 01e (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005). 2. Thụ lý vụ án Sau khi xem xét đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về đơn kháng cáo, hồ sơ có kháng cáo, kháng nghị đã hợp lệ thì Thư ký Tòa án được phân công tiến hành thụ lý vụ án. Việc thụ lý vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm được thực hiện tương tự như tại Tòa án cấp sơ thẩm. VBQPPL: - BLTTHS (các điều 176, 238, 243) - Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP (các mục 1, 2 Phần I) - Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP (mục 2 Phần II, Phần III). - Ngay sau khi nhận hồ sơ vụ án, phải vào sổ thụ lý và ghi số, ngày, tháng năm thụ lý hồ sơ vụ án vào bìa hồ sơ. + Nên ghi ở góc trên, bên trái của bìa hồ sơ vụ án. Nếu sau khi kết thúc việc nhận hồ sơ, đã hết giờ làm việc trong ngày thì việc vào sổ thụ lý mới được để chậm lại sang ngày làm việc tiếp theo. + Nội dung sổ thụ lý phải ghi đầy đủ các cột theo mẫu, chữ viết phải ngay ngắn, rõ ràng. 3. Gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án cấp phúc thẩm nghiên cứu VBQPPL: - Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (Phần III). Việc gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án cấp phúc thẩm phải được thực hiện trong thời hạn và trình tự được hướng dẫn tại Phần III Nghị quyết số 05/2005: “2. Ngay sau khi thụ lý hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần kiểm tra tính hợp lệ của kháng cáo, kháng nghị và xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày thụ lý hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu. Khi chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu, Tòa án cấp phúc thẩm cần yêu cầu Viện kiểm sát cùng cấp chuyển cho Tòa án cấp phúc thẩm chứng cứ mà Viện kiểm sát mới thu thập được và danh sách những người cần triệu tập tham gia phiên tòa phúc thẩm (nếu có)…”. Hết thời hạn mười ngày nghiên cứu, Viện kiểm sát hoàn trả lại hồ sơ cho Tòa án. Cán bộ Tòa án báo cáo Chánh án về việc Viện kiểm sát hoàn trả hồ sơ đã nghiên cứu để Chánh án hoặc Phó chánh án phụ trách phân công Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa trực tiếp xét xử, giải quyết vụ án đó. 4. Xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn VBQPPL: - BLTTHS năm 2003 (Điều 243) - Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (mục 2 Phần II). Sau khi nhận hồ sơ Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải xem xét có căn cứ áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hay không? Để quyết định đúng cần căn cứ vào quy định tại Điều 243 BLTTHS và hướng dẫn tại mục 2 Phần II Nghị quyết số 05/2005. Khi kiểm tra thấy cần thiết phải áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn thì cần phải dự thảo ngay các loại quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn phù hợp với từng hồ sơ vụ án để trình người có thẩm quyền ký. 5. Chuẩn bị xét xử phúc thẩm a. Nghiên cứu hồ sơ vụ án VBQPPL: - BLTTHS năm 2003 (các Điều 207, 247) - Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (mẫu số 02a). Cũng như việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự ở cấp sơ thẩm, thì việc nghiên cứu hồ sơ ở giai đoạn phúc thẩm theo phương pháp nào phụ thuộc vào năng lực, sở trường và kinh nghiệm của từng Thẩm phán. Thể hiện qua hai phương pháp sau: *Phương pháp thứ nhất: Qua thực tiễn cho thấy, nếu hành vi phạm tội của bị cáo và vai trò của từng bị cáo đã rõ ràng thì nghiên cứu theo trình tự tố tụng (thời gian từ thời điểm ban đầu xây dựng hồ sơ đến khi kết thúc giai đoạn xét xử sơ thẩm) là hợp lý vì nghiên cứu theo trình tự thời gian như vậy thì có thể tránh được định kiến của mình dựa trên kết luận của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án cấp sơ thẩm nhưng sự chú ý lại dễ bị phân tán, việc ghi chép trích dẫn nhiều khi lại phải quay lại phần đã đọc, rất mất thời gian mới nắm vững được các tình tiết của vụ án cũng như quan điểm của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án cấp sơ thẩm. *Phương pháp thứ hai: Thông thường phương pháp nghiên cứu theo trình tự “ngược lại” được áp dụng nhiều hơn, cụ thể như sau: - Trước tiên, Thẩm phán cần nghiên cứu bản án sơ thẩm để biết nội dung vụ án, phần nhận định, kết luận và quyết định của bản án hình sự sơ thẩm. Khi nghiên cứu bản án hình sự sơ thẩm cần chú ý đến tính hợp pháp và có căn cứ. Tính hợp pháp thể hiện ở chỗ bản án hình sự sơ thẩm phải phù hợp với các quy định của pháp luật hình sự trong việc định tội danh, định khung hình phạt, quyết định hình phạt và phải phù hợp với các quy định của BLTTHS. Tính có căn cứ thể hiện ở các chứng cứ dùng để chứng minh vụ án phải phù hợp với những sự kiện (tình tiết) thực tế của vụ án đã xảy ra. - Sau đó, Thẩm phán nghiên cứu biên bản phiên tòa để nắm được nội dung diễn biến của phiên tòa, đối chiếu xem phần nhận định và quyết định của bản án hình sự sơ thẩm có dựa trên diễn biến và kết quả tranh tụng tại phiên tòa hay không? Xem xét phần thủ tục tố tụng như thành phần Hội đồng xét xử có đúng quy định của pháp luật không? Ví dụ: Trường hợp bị cáo là người chưa thành niên. Sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng có ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án tại phiên tòa không? Ví dụ: Như vắng mặt luật sư trong các vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên, bị cáo bị truy tố theo khung hình phạt cao nhất là tử hình theo quy định tại khoản 2 Điều 57. Các chứng cứ của vụ án có được thẩm tra đầy đủ tại phiên tòa sơ phẩm hay không. - Tiếp theo, Thẩm phán nghiên cứu, xem xét đánh giá các tài liệu có trong hồ sơ, đối chiếu với nội dung bản án sơ thẩm để xác định: các chứng cứ trong hồ sơ đã đầy đủ chưa; sự việc, tình tiết nào có căn cứ; sự việc tình tiết nào chưa rõ, còn mâu thuẫn để từ đó kết luận bản án sơ thẩm có căn cứ và hợp lý chưa. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án để chuẩn bị xét xử phúc thẩm cần lưu ý: + Phải ghi chép tóm tắt nội dung vụ án, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. + Đối với trường hợp bị cáo kháng cáo chối tội (kêu oan), thì Thẩm phán cần ghi rõ các tình tiết để chứng minh (căn cứ vào lời khai, các tài liệu khác thể hiện tại các bút lục trong hồ sơ), để tránh bị động lúng túng tại phiên tòa, đồng thời là cơ sở cho việc lập kế hoạch xét hỏi. Trong trường hợp hồ sơ dày, tính chất vụ án phức tạp, có nhiều bị cáo thì Thẩm phán cần nghiên cứu những tình tiết chính, trọng tâm và bị cáo có vai trò chính trước, sau đó nghiên cứu những bị cáo khác. Nếu vụ án có nhiều bị cáo mà bị xét xử về nhiều tội khác nhau thì có thể nghiên cứu theo từng nhóm bị cáo phạm cùng một tội. Khi nghiên cứu hồ sơ, nếu thấy chứng cứ chưa đầy đủ mà Tòa án không thể tự mình bổ sung được thì Tòa án có thể yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ. - Về nguyên tắc chung cần phải nghiên cứu toàn diện hồ sơ vụ án cả về thủ tục tố tụng và nội dung sự việc. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu xét thấy không cần thiết xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án, thì chỉ lập kế hoạch xét hỏi hợp lý đối với nội dung kháng cáo, kháng nghị (căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 207 và Điều 247 BLTTHS). - Nếu trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, người kháng cáo và Viện kiểm sát kháng nghị rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm phải làm đúng theo mẫu số 02a (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005). b. Kết hợp đồng thời việc nghiên cứu hồ sơ với việc nhận và xem xét chứng cứ được bổ sung tại Tòa án cấp phúc thẩm - Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ mới. - Khi Viện kiểm sát tự mình bổ sung chứng cứ mới; người kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật. Việc giao nhận chứng cứ mới; giao nhận tài liệu, đồ vật do đương sự bổ sung phải được lập thành văn bản. Biên bản phải có chữ ký của bên giao, bên nhận và được lưu trong hồ sơ vụ án. - Chứng cứ mới, tài liệu, đồ vật mới bổ sung đều phải được xem xét, nghiên cứu cùng chứng cứ cũ, tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án. c. Lên lịch xét xử và gửi cho các cơ quan liên quan Trên cơ sở quyết định phân công xét xử vụ án hình sự, Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa lên lịch xét xử giao cho bộ phận thường trực để thông báo thời gian, địa điểm xét xử cho các đơn vị liên quan như: Viện kiểm sát cùng cấp, Công an, Trại giam, Đoàn luật sư,… (lịch xét xử phải được thông báo chậm nhất là 15 ngày trước ngày mở phiên tòa). d. Triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa VBQPPL: - BLTTHS năm 2003 (Điều 245) - Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (mục 3 Phần II) Căn cứ vào Điều 245 BLTTHS và hướng dẫn tại mục 3 Phần II Nghị quyết số 05/2005 để xác định những người tham gia phiên tòa phúc thẩm. Trên cơ sở đó triệu tập những người tham gia đến phiên tòa phúc thẩm bằng văn bản và tùy vào từng đối tượng cụ thể mà có hình thức văn bản phù hợp (nếu đã có mẫu văn bản thì phải làm đúng theo mẫu đã được ban hành). e. Lập kế hoạch xét hỏi Kế hoạch xét hỏi để xét xử phúc thẩm vụ án hình sự được lập trên cơ sở chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị. Dự kiến những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa như bị cáo chỉ nhận tội một phần thì khi xét hỏi phải kết hợp giữa xét hỏi với việc xem xét vật chứng (nếu cần), hoặc triệu tập những người tham gia tố tụng khác để có kế hoạch thẩm vấn nếu cần. Trường hợp bị cáo kêu oan thì Thẩm phán cần xem xét kỹ hồ sơ và có kế hoạch xét hỏi thẩm tra mọi tình tiết của vụ án để xem xét bị cáo kêu oan có cơ sở hay không.... f. Chuẩn bị cho việc quyết định bắt và tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án VBQPPL: - BLTTHS năm 2003 (Điều 261) - Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (tiểu mục 2.2 mục 2 Phần II) Trong khi nghiên cứu hồ sơ vụ án thấy có đủ các điều kiện (có căn cứ để xử phạt tù bị cáo; bị cáo không thuộc trường hợp có thể cho hưởng án treo; bị cáo không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 261 BLHS) và xét thấy cần ra quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án, thì phải thực hiện các công việc được hướng dẫn tại tiểu mục 2.2 mục 2 Phần II Nghị quyết số 05/2005. g. Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự Căn cứ vào các Điều 56, 57 BLTTHS và hướng dẫn tại các mục 1, 2 và 3 phần II Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP; trên cơ sở đề nghị và xem xét các giấy tờ cần thiết của người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và tùy vào từng đối tượng cụ thể mà có hình thức văn bản phù hợp. Lãnh đạo Tòa án cấp giấy chứng nhận người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự (đối với vụ án chưa phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa); Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền cấp giấy chứng nhận người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. h. Về thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm Về nguyên tắc chung Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm. Thực tiễn xét xử phúc thẩm trong những năm qua cho thấy trong các trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ gồm ba Thẩm phán. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, xét thấy vụ án phức tạp hoặc vụ án đối với người chưa thành niên phạm tội cần có thêm ý kiến của Hội thẩm thì báo cáo Chánh án hoặc người được Chánh án ủy quyền quyết định thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và hai Hội thẩm. Cần lưu ý là trường hợp này không thực hiện đối với các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án quân sự trung ương vì ở Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án quân sự trung ương không có Hội thẩm. i. Thư ký phiên tòa kiểm tra điều kiện vật chất cho việc xét xử - Thư ký kiểm tra phòng xử án xem đã đảm bảo cho việc xét xử chưa như: Bàn, ghế ngồi của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, bị cáo; vành móng ngựa, biển hiệu đã đầy đủ và đúng vị trí chưa; hệ thống âm thanh, ánh sáng,… Bên cạnh đó, Thư ký phải chuẩn bị các giấy tờ cần thiết để Hội đồng xét xử giải quyết khi có tình huống xảy ra như: Lệnh trích xuất, Lệnh bắt tạm giam, Quyết định tạm giam, Quyết định trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa, trích lục bản án,… II. KỸ NĂNG ĐIỀU KHIỂN PHIÊN TÒA PHÚC THẨM Những quy định chung về thủ tục phiên tòa phúc thẩm: VBQPPL: - BLTTHS năm 2003 (Điều 247, các Chương XVIII, XIX, XX, XXI và XXII) - Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 5-11-2004 của HĐTP TANDTC (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 04/2004) (các Phần II, III, IV) - Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (mục 4 Phần II) Căn cứ vào Điều 247 BLTTHS, phiên tòa phúc thẩm cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm. Do đó, về nguyên tắc chung căn cứ vào quy định tại các Chương XVIII, XIX, XX, XXI và XXII BLTTHS; hướng dẫn tại các phần II, III, IV Nghị quyết số 04/2004; hướng dẫn tại mục 4 Phần II Nghị quyết số 05/2005 để tiến hành thủ tục phiên tòa phúc thẩm đúng quy định. Quy trình điều khiển phiên tòa phúc thẩm trải qua những thủ tục sau: 1. Thủ tục bắt đầu phiên tòa VBQPPL: - BLTTHS năm 2003 (Điều 198, 245) - Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) (mục 3, tiểu mục 4.2 mục 4 Phần II) - Trước khi bắt đầu phiên tòa yêu cầu Thư ký Tòa án phổ biến nội quy phiên tòa, những biện pháp đối với người vi phạm trật tự phiên tòa quy định tại Điều 198 BLTTHS; Kiểm tra những người được triệu tập tham gia phiên tòa và nếu có người vắng mặt cần làm rõ lý do để báo cáo với Hội đồng xét xử. - Do Tòa án cấp phúc thẩm không có quyết định đưa vụ án ra xét xử, cho nên sau khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án, thay cho việc đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa tuyên bố khai mạc phiên tòa (Lời khai mạc phiên tòa cần theo đúng hướng dẫn tại tiểu mục 4.2 mục 4 Phần II Nghị quyết số 05/2005). Khi Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa cần yêu cầu mọi người đứng dậy như khi tuyên án. - Sau khi khai mạc phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa yêu cầu Thư ký Tòa án báo cáo danh sách những người được triệu tập tham gia phiên tòa phúc thẩm đã có mặt; nếu có người vắng mặt đề nghị báo cáo lý do của sự vắng mặt. - Các công việc tiếp theo như: kiểm tra căn cước của những người được triệu tập đến phiên tòa đã có mặt, giải thích cho họ biết quyền và nghĩa vụ, v.v… Chỉ xác định căn cước của các bị cáo có kháng cáo hoặc bị kháng nghị (về tư cách tham gia tố tụng của các bị cáo không có kháng cáo hoặc không bị kháng nghị, cần xác định tư cách của họ là người làm chứng). - Khi giải thích quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa cần giải thích thêm quyền bổ sung, thay đổi, giữ nguyên, rút một phần hay toàn bộ kháng cáo, kháng nghị (nhưng không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo). Nếu người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị và không còn ai kháng cáo thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. - Cần chú ý là trong trường hợp người được triệu tập tham gia phiên tòa vắng mặt tại phiên tòa cần căn cứ vào khoản 2 Điều 245 BLTTHS và nghiên cứu kỹ hướng dẫn tại mục 3 Phần II Nghị quyết số 05/2005 để quyết định trường hợp nào phải hoãn phiên tòa và trường hợp nào vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung. - Giải quyết yêu cầu, đề nghị về hoãn phiên tòa (trong trường hợp người được triệu tập vắng mặt; bị cáo chưa nhận được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị hoặc thông báo về thời gian mở phiên tòa phúc thẩm...). Việc thảo luận và thông qua quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử vụ án được thực hiện tại phòng nghị án, không phải lập thành văn bản, nhưng phải được ghi vào biên bản phiên tòa. 2. Kỹ năng xét hỏi và điều khiển quá trình xét hỏi tại phiên tòa Trong phần xét hỏi tại phiên tòa, Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa cần xem xét, xác định phạm vi xét xử phúc thẩm (theo quy định tại Điều 241 BLTTHS năm 2003). Về nguyên tắc chung Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án. Trong trường hợp này cần triệu tập những người tham gia tố tụng có liên quan đến phần không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét. Tại Điều 241 BLTTHS quy định: “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án”. Cũng như ở cấp sơ thẩm, xét hỏi tại giai đoạn phúc thẩm cũng là việc điều tra công khai nhằm kiểm tra, đánh giá các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như các chứng cứ, tài liệu được bổ sung tại phiên tòa làm căn cứ cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị. Trình tự xét hỏi ở cấp phúc thẩm cũng như ở cấp sơ thẩm, chỉ khác với cấp sơ thẩm là trước khi xét hỏi thường là Chủ tọa phiên tòa trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị. Chủ tọa cần có phương pháp xét hỏi hợp lý tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể để đạt hiệu quả cao nhất và bảo đảm tuân thủ các quy định của BLTTHS. Trường hợp tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo có thái độ khai báo quanh co, chối tội, thì Thẩm phán nên bắt đầu hỏi các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn trước; trong quá trình xét hỏi nên sử dụng lời khai của bị cáo này để đấu tranh với bị cáo kia và trích lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra để buộc bị cáo phải chứng minh lời khai của mình là đúng hay không đúng và có liên quan đến nội dung kháng cáo hay không? Trường hợp có nhiều bị cáo mà lời khai của họ tại cấp sơ thẩm không thống nhất, khác với lời khai tại giai đoạn điều tra, Thẩm phán phải cân nhắc xét hỏi bị cáo nào trước để thuận lợi cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Thông thường trong trường hợp này nên bắt đầu từ bị cáo nhận tội hoặc có lời khai tương đối trung thực hơn so với bị cáo khác. Nếu xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể cho đối chất tại phiên tòa. Cũng như ở phiên tòa sơ thẩm, cần hỏi kỹ những người tham gia tố tụng như người bị hại, nhân chứng,... để có cơ sở xem xét đến kháng cáo hoặc kháng nghị. 3. Kỹ năng điều khiển phần tranh luận tại phiên tòa Phần tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm cũng tương tự như ở cấp sơ thẩm, có một s lưu ý là: Mở đầu phần tranh luận, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, trên cơ sở kiểm tra các chứng cứ cũ và mới (nếu có) để kết luận về tính hợp pháp của bản án sơ thẩm và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo hoặc kháng nghị. Tiếp theo, người bào chữa trình bày và nêu lên quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử về việc giải quyết các vấn đề liên quan đến kháng cáo, kháng nghị (nếu không có người bào chữa thì bị cáo tự mình bào chữa) sau đó đến những người tham gia tố tụng khác. Sau khi các bên đã trình bày xong quan điểm của mình, Chủ tọa phiên tòa điều khiển phần đối đáp cũng như tại phiên tòa sơ thẩm. Sau khi phân đối đáp đã đầy đủ Hội đồng xét xử tuyên bố kết thúc phần tranh luận, cho các bị cáo nói lời sau cùng và chuyển sang phần nghị án. 4. Nghị án và tuyên án khi xét xử phúc thẩm hình sự VBQPPL: - Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 5-11-2004 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS năm 2003 (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 04/2004) - Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự (trong mục này viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) Việc nghị án và lập biên bản nghị án cũng tiến hành như ở cấp sơ thẩm. Mặc dù cấp phúc thẩm chỉ xét những phần của bản án có kháng cáo, kháng nghị. Song theo nguyên tắc cần phải xem xét toàn diện vụ án, do vậy nếu cần thiết Hội đồng xét xử vẫn xem xét đến những vấn đề không có kháng cáo, kháng nghị để giải quyết (nếu điều đó không làm xấu đi tình trạng của bị cáo). Trước khi tuyên án, Hội đồng xét xử phải xem xét kỹ lưỡng bản án và thủ tục tuyên án cũng như ở cấp sơ thẩm, một thành viên của Hội đồng xét xử đọc bản án. Cần chú ý một số điểm sau đây: + Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm của Hội đồng xét xử phải làm đúng theo mẫu số 02b (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005). + Biên bản nghị án phải làm đúng theo mẫu số 02c (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005). + Biên bản phiên tòa hình sự phúc thẩm phải làm đúng theo mẫu số 02d (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005). + Bản án hình sự phúc thẩm phải làm đúng theo mẫu số 02đ (ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2005). 5. Công việc sau phiên tòa phúc thẩm hình sự Sau phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải tiến hành một số việc cụ thể như: - Kiểm tra và ký biên bản phiên tòa; - Kiểm tra việc giao bản án (quyết định) phúc thẩm của Thư ký Tòa án cho những người tham gia tố tụng (nếu họ có yêu cầu), cho cấp sơ thẩm,... có đúng theo quy định của pháp luật hay không; - Cấp trích lục hoặc bản sao bản án cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ (nếu họ có yêu cầu); - Cấp trích lục hoặc bản sao bản án cho những người tham gia tố tụng xem biên bản phiên tòa (nếu họ có yêu cầu). Cần lưu ý: Các Thẩm phán xét xử phúc thẩm cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, chuẩn bị việc xét xử đúng thủ tục và thời hạn theo quy định của pháp luật tố tụng; không được hoãn phiên tòa vì những lý do không chính đáng; không tăng hoặc giảm án không đáng kể, không có căn cứ; không được hủy án một cách tùy tiện mà không nêu được lý do cụ thể và thuộc trường hợp nào quy định tại Điều 250 BLTTHS; việc giao bản án và quyết định phúc thẩm phải bảo đảm trong thời hạn quy định của pháp luật tố tụng. Nếu thấy có vướng mắc trong việc giải quyết vụ án thì phải báo cáo lãnh đạo trực tiếp phụ trách để tổ chức phiên họp trao đổi về việc giải quyết các vụ án, đặc biệt đối với các trường hợp sau: + Vụ án thuộc trường hợp phải báo cáo cấp ủy theo Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 07/7/2007 của Bộ Chính trị hoặc các vụ án điểm của địa phương; + Các vụ án mà quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Ủy ban Thẩm phán cấp tỉnh hủy bản án sơ thẩm mà Thẩm phán thấy có thể xử khác với định hướng của quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm; + Vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã báo cáo trao đổi với Tòa án tỉnh, nhưng Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử thấy có thể xét xử khác với quyết định của bản
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
Văn hóa anh mỹ...
200
20326
146