TRƯÒNGĐÀOTẠO
CÁC CHỨC DANH Tư PHÁP
GIÁO TRÌNH
KỸ NĂNG GIẢI QUYẾt
CÁC VỤ ÁN DÂN Sự
TẬP II
Phẩn kỹ nàng
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
34(V)4
17/929-CXB
CAND - 2001
TRƯỜNG ĐÀO TẠO
CÁC CHỨC DANH T ư PHÁP
GIÁO TRÌNH
KV NĂNG GIẢi ọ u v ấ
cnc VỤ ÁN DÂN Sự
T ậ p 2: P h ầ n k ỹ n ă n g
í ?!■ v i r v
■■i/O
. íl 0-,
y\j\ịj I^oI
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÃN
ẩ
Chủ b iên
TS. PHAN HỮU THƯ
TẬP THỂ TÁC GIẢ
TS. PHAN HỮU THƯ
TP. NGUYỄN XỤÂN THANH
TP. ThS. NGUYỄN THỊ NGHĨA
ThS. LẺ THU HÀ
TP. ĐÀM VĂN ĐẠO
TP. NGUYỄN TÚY HOA
TP. ThS. LÊ THỊ BÍCH LAN
ThS. NGUYỄN CÔNG BÌNH
Chương
Chương
Chương
Chưđng
Chương
Chương
Chương
Chương
5,
3
1,
1,
5,
7,
4
3,
6, 7
2, 7, 10
2, 8, 9, 10
6
9
4
Chương I
KỸ NĂNG THỤ LÝ vụ ÁN DÂN sự
•
•
•
1. LÝ THUYẾT
1.1. Khái niêm thu lý vu án dân sư
«
•
v
•
•
Thụ lý vụ án là một trong những hoạt động
thuộc giai đoạn đầu tiên của thủ tục giải quyết vụ
án dân sự: giai đoạn khỏi kiện, khởi tố vụ án dân
sự. Hoạt động này được tiến hành ngay sau khi có
đơn khởi kiện hay quyết định khởi tố của những
chủ thể mà pháp luật quy định. Trong đó, Toà án
sẽ phải thực hiện tấ t cả những công việc để từ yêu
cầu khởi kiện, khởi tô", xác định xem vụ án dân sự
có phát sinh hay không, tức là có phát sinh trách
nhiệm của Toà án trong việc giải quyết các yêu cầu
khỏi kiện hoặc khởi tô" đó hay không. Bản chất của
hoạt động này là việc Toà án xác định tất cả các
điều kiện khỏi kiện, khởi tô" có được bảo đảm hay
không, từ đó tiến hành vào sổ thụ lý vụ án theo quy
định của pháp luật.
Như vậy, thụ lý vụ án là tổng hỢp các hành vi tố^
tụng, theo đó Toà án nhân dân tiến hành kiểm tra
5
điều kiện khởi kiện, khởi tô" và vào sô thụ lý vụ án
theo quy định của pháp luật.
1.2.
Những công việc phải tiến hành khi
thụ lý vụ án
1.2.1.
kiện
N hãn đơn và xét các điều kiên khởi
Ngay sau khi nhận được đơn kiện của đương sự,
Toà án cần tiến hành việc xem xét các vấn đê' sau
đây;
Thứ n h ấ t Về hình thức, đơn khỏi kiện có bảo
đảm những yêu cầu được quy định tại Điều 34
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự hay
không, cụ thể có ghi đầy đủ họ, tên, tuổi và chỗ ở
của nguyên đơn, bị đơn hay không; trường hợp nếu
có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì ngưòi
khỏi kiện đã ghi rõ tên và chỗ ở của người đó chưa?
Thứ hài'. Về nội dung, đơn kiện sẽ được kiểm tra
theo các yêu cầu sau đây:
i) Người khởi kiện có quyền khởi kiện hay không?
Để xác định được điều đó, Thẩm phán cần xác
định rõ:
- Yêu cầu của ngưòi khởi kiện là gì?
Đây là khâu đầu tiên hết sức quan trọng bởi chỉ
có thể tiến hành việc giải quyết vụ án khi biết rõ là
đương sự yêu cầu gì và Toà án phải giải quyết gì
theo yêu cầu của họ. Vê' góc độ pháp lý thì những
6
yêu cầu mà đưđng sự đê xuất chính là những quan
hệ pháp luật mà Toà án sẽ giái quyết, do vậy việc
xác định rõ các yêu cầu của đương sự là rất cần
thiết.
Thông thường, ngưòi khởi kiện phải nói rõ yêu
cầu của mình trong đơn kiện, nhưng điểu đó không
phải lúc nào cũng đúng trong mọi truồng hỢp. Ví dụ
việc ly hôn do một bên yêu cầu hay thuận tình ly
hôn không phải lúc nào cũng được thể hiện rõ trong
đơn xin ly hôn. Trong khi đó thì thủ tục giải quyết
việc ly hôn do một bên yêu cầu có nhiều điểm khác
cơ bản so với thủ tục giải quyết việc thuận tình ly
hôn. Hoặc trong tran h chấp liên quan đến nhà ở,
các đương sự không phải lúc nào cũng xác định
đưỢc đây là tranh chấp liên quan đến hợp đồng (ví
dụ hỢp đồng mua bán) hay là tranh chấp liên quan
đến quyền sở hữu. Trong khi đó thì tranh chấp về
hợp đồng đưỢc giải quyết hoàn toàn khác vối tranh
chấp về quyền sở hữu. Tất nhiên, khi đi kiện, trách
nhiệm của ngưòi khởi kiện là phải tự xác định được
yêu cầu của mình, nếu không thì phải có sự trỢ
giúp của Luật sư. Nhưng ỏ nước ta, việc mòi Luật
sư tham gia tô' tụng mới chỉ được quy định là quyền
chứ không phải là nghĩa vụ bắt buộc cho đương sự.
Do vậy, thực tiễn xét xử cho thấy, Toà án vẫn phải
làm việc xác định lại đúng yêu cầu. Thực ra đây
không những chỉ là việc hướng dẫn giúp đỡ các
đương sự thực hiện cốc quỳền vầ iìghĩa vụ của họ
mà chính Toà án sẽ thuận tiện hơn trong việc giải
7
quyết vụ án sau này.
- Căn cứ cho các yêu cầu đó
Từ việc xác định yêu cầu của ngưòi khởi kiện,
Thẩm phán cần làm rõ xem ngưòi khởi kiện có
quyền khởi kiện không. Cụ thể là ngưòi khỏi kiện
có quyền lợi bị xâm hại hoặc tranh chấp trong
những quan hệ mà họ đề xuất giải quyết hay
không. Điều này thường được thể hiện bằng những
chứng cứ và tài liệu mà ngưòi khởi kiện xuất trình
kèm theo đơn khởi kiện. Vì vậy khi nhận đơn khởi
kiện, Thẩm phán phải yêu cầu người khỏi kiện gửi
luôn các giấy tò tài liệu làm cơ sở cho yêu cầu của
họ. Thẩm phán phải kiểm tra kỹ những tài liệu mà
đương sự đã cung cấp. Trường hỢp cần thiết, Toà
án có thể yêu cầu người khởi kiện phải cung cấp
thêm. Nói chung, đây là một yêu cầu khó đối với
đương sự, nhưng trong nhiều trưòng hdp, nếu
đương sự không thực hiện được yêu cầu này thì
chưa đủ điều kiện để Toà án thụ lý vụ án và Toà án
sẽ phải trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại Điều
36, khoản 1 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là
Toà án để mặc đương sự mà trong chừng mực nhất
định nên giúp đỡ để đương sự có thể thực hiện đưỢc
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ này. Vấn đề là ở chỗ,
cần phải xác định những giấy tò phải nộp trong
từng loại vụ án là những giấy tờ gì. Hơn nữa, đây
cũng chỉ là việc xem xét điều kiện để th ụ lý vụ án,
8
chứ chưa đặt vấn đề là có chảp nhận hay không
chấp nhận yêu cầu của đương sự. Do vậy, Thẩm
phán phải hết sức thận trọng khi xem xét điều kiện
này.
- Xác định tư cách chủ thể của ngưòi đi kiện
Một ngưòi có quyền lợi bị xâm hại muốn khỏi
kiện thì phải có đủ năng lực hành vi tổ’tụng dân sự.
Theo quy định tại Điều 21 Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự, đương sự là cá nhân đưỢc
coi là có đủ năng lực hành vi tô" tụng dân sự nếu
ngưồi đó từ đủ 18 tuổi, không có nhưỢc điểm về thể
chất hay tinh thần. Việc kiểm tra năng lực chủ thể
không phải là việc khó đôi với Thẩm phán th ụ lý vụ
án. Nhưng Thẩm phán có thể gặp trường hỢp người
đi kiện bị bệnh tâm thần (tình trạng phân liệt, lúc
tỉnh lúc không). Cách xử lý trong trường hỢp này là
không thể không thụ lý vụ án mà Thẩm phán phải
có yêu cầu cho cha mẹ hoặc giám hộ của đương sự
đó tham gia tô' tụng vối tư cách ngưòi đại diện
đương nhiên của đương sự.
Một khả năng khác mà Thẩm phán phải kiểm
tra là vấn đề họ tên của ngưòi khởi kiện và những
người liên quan khác. Đã có trường hợp là ngưòi đi
kiện ghi họ tên khai sinh (họ tên theo lý lịch),
nhưng lại ký một tên khác (tên thường gọi). Sau đó
trong quá trình tô' tụng lại dùng một tên thưòng gọi
khác khi ký các biên bản lấy lòi khai. Đây là trường
hỢp ít gặp nhưng đã xảy ra và hiện đang có nhiều
9
ý kiến khác nhau về việc xử lý tình huống đó vì thủ
tục tô" tụng của vụ án gần như đã hoàn tất.
Như vậy bằng việc kiểm tra kỹ điều kiện thứ
nhất của việc khỏi kiện, Thẩm phán đã giúp
nguyên đơn có một hồ sơ đi kiện tương đốĩ đầy đủ.
Điều này rõ ràng sẽ là điều kiện thuận lợi để Toà
án giải quyết vụ án sau này.
ii) Xác định thẩm quyền của Toà án
Sau khi đã xác định rõ quyền khởi kiện của
ngưòi khởi kiện, Thẩm phán phải kiểm tra thẩm
quyền giải quyết vụ án, bao gồm cả thẩm quyền
chung, thẩm quyền xét xử của Toà án các cấp và
thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ. Mục đích là để
xác định vụ án có thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án mình không.
Vê' thẩm quyền chung, Thẩm phán cần căn cứ
vào Điều 10 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự. Khi xem xét, cần chú ý xác định loại việc
mà đương sự yêu cầu có thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án nhân dân hay thuộc thẩm quyền
giải quyết của cơ quan Nhà nưóc khác.
Trong thực tiễn thì việc phân biệt thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất là
một loại việc khó mà ngưòi Thẩm phán thường hay
gặp. Về vấn đê' này, đã có Thông tư liên, ngành sô"
02/TTLN ngày 28/7/1997 của Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục địa
10
chính hướng dẫn. Tuy nhiên mọi vấn đề không
phải đã được tháo gỡ. Do vậv hiện nay Toà án nhân
dân tốì cao vẫn tiếp tục có nhiều văn bản hướng
dẫn. Có thể xem trong Báo cáo tổng kết hoạt động
xét xử của ngành Toà án năm 1998; Công văn sô"
16/KHXX ngày 1/2/1999 của Toà án nhân dân tốỉ
cao giải đáp một số vấn đê về hình sự, dân sự, kinh
tế, lao động, hành chính và tô" tụng.
Ngoài ra, với sự thành lập các Toà chuyên trách
khác trong hệ thống Toà án nhân dân, việc phân
biệt thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục tô"
tụng dân sự, tô" tụng kinh tế, tô" tụng lao động, tô"
tụng hành chính cũng hết sức cần thiết.
Sau khi đã xác định được loại vụ việc thuộc thẩm
quyển giải quyết của Toà án nhân dân, Thẩm phán
thụ lý tiếp tục xác định vụ việc đó sẽ thuộc thẩm
quyển của cấp xét xử nào, của Toà án nhân dân cấp
huyện hay của Toà án nhân dân cấp tỉnh. Vấn đề
này sẽ căn cứ vào Điều 11 khoản 2 Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án dân sự. Riêng về quyền tác
giả, Toà án nhân dân tốì cao đã có văn bản hướng
dẫn thêm. Đó là Công văn số 97/KHXX ngày
21/8/1997, theo đó loại việc này sẽ thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án nhân dân cấp tỉnh vì tính
phức tạp của loại vụ án. Hoặc thẩm quyền giải quyết
loại án ly hôn liên quan đến một đương sự đang sốhg
ở nưóc ngoài cũng có hhữhg chú ý nhất định: nêu
đương sự xin ly hôn với ngưòi đang sốhg ở nước
11
ngoài hoặc đương sự ở nước ngoài muôn xin ly hôn
với người đang sống ở trong nước thì thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Nhưng nếu đương sự lại chỉ làm thủ tục xin xác
nhận ngưòi mất tích hoặc đã chết thì loại việc này lại
thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện.
Sau khi Toà án cấp huyện đã ra được bản án xác
nhận công dân mất tích thì theo yêu cầu của đương
sự, Toà án cũng có thể tuyên cho đương sự được ly
hôn với ngưòi mất tích trong cùng bản án này theo
hưống dẫn của Nghị quyết sô" 03/HĐTP ngày
19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao hướng dẫn thực hiện một sô" quy định của
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
Thẩm qu 3'ền xét xử theo lãnh thổ của Toà án
nhân dân là vấn đề cuối cùng của Thẩm phán khi
xem xét vấn đề thẩm quyền. Cụ thể, Thẩm phán
cần phải xác định loại việc này có thuộc thẩm
quyền của Toà án mình hay thuộc thẩm quyền của
một Toà án khác cùng cấp. Theo Điều 13 của Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thẩm
quyền theo lãnh thổ thường được xác định theo nơi
cư trú của bị đơn. Trường hỢp nếu có những quan
điểm khác nhau về vấn đề nơi cư trú của bị đơn thì
cần căn cứ vào quy định này trong Bộ lu ật Dân sự
để giải quyết.
Ui) Xác định thời hiệu giải quyết của vụ án
Thòi hiệu khởi kiện là thòi hạn mà trong đó
12
ngưòi khởi kiện có quyền yêu cầu Toà án giải quyết
vụ án. Hết thời hạn này, họ không còn quyền khởi
kiện nữa. Thực tiễn xét xử cho thấy có một sô tranh
chấp hiện đang có những khó khăn nhất định về
vấn đề thòi hiệu giải quyết, như loại tranh chấp về
nỢ, hụi. Do vậy Toà án nhân dân tối cao đã có nhiều
ván bản hướng dẫn: Công văn sô" 49/KHXX ngày
20/5/1997; Công văn sô 120/KHXX ngày
27/10/1997; Công văn sô 19/KHXX ngày 13/3/1998.
Tinh thần chung của các Công văn này là đốỉ với
những tranh chấp về nỢ, hụi, họ nếu xảy ra trước
ngày 1/7/1996 sẽ đưỢc giải quyết theo Thông tư liên
ngành sô" 04/TTLN ngày 8/8/1992. Đốì với những
tranh chấp về nỢ, hụi phát sinh từ ngày 1/7/1996
thì Toà án chưa thụ lý để giải quyết. Nếu đã thụ lý
thì Toà án phải ra quyết định tạm đình chỉ việc giải
quyết vụ án để chờ hướng dẫn mới (hiện nay, Toà
án nhân dân tôl cao, Viện kiểm sát nhân dân tốì
cao đang soạn thảo văn bản hướng dẫn).
iv) Vụ án phải chưa được Toà án giải quyết bằng
bản án, quyết định đã có hiệu lực
Về nguyên tắc, nếu vụ án đã được Toà án giải
quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật thì Toà án không thụ lý, trừ một số trường hỢp
mà pháp luật có quy định khác. Các ngoại lệ này
thường được xem xét với những vụ án về hôn nhân
và gia đình. Thông thường, Toà án sẽ thụ lý và giải
quyết lại vụ án trong lĩnh vực này sau khi bản án,
13
hoặc quyết định giải quvết cúa Toà án đã^có hiệu
lực pháp luật được một năm.
ư) Vụ án có cẩn phải được giải quyết tại cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền khác trước hay không?
1.2.2.
vụ án
Thu tam ứng án p h í và vào sô thụ lý
•
Sau khi đã xác định tấ t cả những điều kiện khởi
kiện, nếu thấy đã bảo đảm theo quy định, Thẩm
phán sẽ báo cho đương sự phải nộp tạm ứng án phí
đê vào sô thụ lý vụ án.
i) Xác định mức tạm ứng án phí
Tạm ứng án phí là khoản tiền mà đương sự phải
nộp để Toà án thụ lý và giải quyết vụ án. Nếu
đương sự không nộp được khoản tiền này thì Toà
án không thụ lý và không giải quyết vụ án (Điều 37
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự). Để
có thể xác định được mức tạm ứng mà đương sự
phải nộp, Thẩm phán phải bắt đầu từ việc xác định
đây là loại án có giá ngạch hay là không có giá
ngạch. Đốì với loại không có giá ngạch thì mức tạm
ứng mà đương sự phải nộp là năm mươi nghìn
đồng. Đôi vói vụ án có giá ngạch mà giá trị tranh
chấp từ trên một triệu đồng thì mức tạm ứng bằng
50% mức án phí cuả vụ án đó. Do vậy, đối với vụ án
có giá ngạch, để xác định được mức án phí thì phải
xác định được sơ bộ giá trị của tài sản tranh chấp.
Do vậy ngay khi nhận đơn khỏi kiện liên quan đến
14
tài sản nói riêng và có giá ngạch nói chung, Thẩm
phán ỵêu cầu đương sự tự xác định giá trị của tài
sản tranh chấp. Nếu bản thân đương sự không tự
đánh giá đưỢc thì Thẩm phán có ý kiến và lưu ý
đương sự đây chỉ là việc xác định đê tính mức tạm
ứng án phí.
Sau khi đã xác định được mức tạm ứng mà
đương sự phải nộp, theo thông lệ, Thẩm phán sẽ
ghi mức tiền này trên đơn khởi kiện và hướng dẫn
đương sự nộp khoản tiền này tại cơ quan thi hành
án dân sự cùng cấp với Toà án đang thụ lý vụ án.
Đồng thòi yêu cầu rõ, khi nộp tiền đương sự phải đề
nghị cho được nhận hai biên lai thu tiền tạm ứng
án phí, trong đó một biên lai sẽ nộp lại cho Toà án
để Toà án vào sổ thụ lý vụ án.
Một điểm nữa là người phải nộp tạm ứng án phí
là ai cũng phải được Thẩm phán xác định thận
trọng chính xác và đầy đủ.
ii) Vào sổ thụ lý vụ án
Việc vào sổ thụ lý vụ án là hành vi xác định một
cách chính thức trách nhiệm giải quyết vụ án. Đặc
biệt thời điểm này còn có ý nghĩa quan trọng về
mặt tô" tụng: thòi hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự
đưỢc xác định chính từ thòi điểm này. Do vậy, thời
điểm thụ lý vụ án cần phải hết sức chính xác.
- Đôl với vụ án do chính nguyên đơn khởi kiện, .
thòi điểm thụ lý vụ án là thời điểm nguyên đơn
15
khởi kiện xuất trình đưỢc biên lai thu tạm ứng án
phí.
- Đối vói những vụ án mà đương sự là người có
hoàn cảnh kinh tê khó khàn được Uỷ ban nhân dân
xã, phường, cơ quan N hà nước hoặc tổ chức xã hội
xác nhận thì Toà án có thể xem xét để họ được miễn
nộp một phần hoặc toàn bộ sô" tiền tạm ứng án phí.
Do vậy thòi điểm th ụ lý vụ án này là khi Toà án
chấp nhận cho nguyên đơn miễn nộp một phần
hoặc toàn bộ tiền tạm ứng án phí.
- Đối với vụ án do tổ chức xã hội khởi kiện hoặc
Viện kiểm sát khởi tô" thì thòi điểm thụ lý vụ án là
khi Toà án đã xem xét xong các điều kiện của việc
khởi kiện hoặc khỏi tố. v ề cơ bản những điều kiện
khởi kiện, khởi tô" của các chủ thê này cũng phải
được xem xét giông như đối vói điều kiện của ngưòi
khởi kiện là đương sự. Do những chủ thể này không
phải nộp tạm ứng án phí (Điểu 32 Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án dân sự), nên thòi điểm thụ
lý vụ án là khi Toà án chấp nhận đơn khởi kiện
hoặc quyết định khởi tô" đó.
1.3. Trả lai đơn k h ỏi k iên cho đương sư.
Cũng trong hoạt động th ụ lý vụ án có một vấn đê
m ậ Toà án cần chú ý. Đó là việc trả lại đơn cho
đương sự đã khởi kiện (xem Điều 36 Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án dân sự).
Đốì với đơn kiện của tổ chức xã hội hoặc quyết
16
định khởi tô" của Viện kiểm sát nhân dân, Toà án
cũng trả lại đơn khởi kiện hoặc quyết định khỏi tô"
cho các chủ thể này vâi điều kiện và cách thức
giống như đối với nguyên đơn đã khỏi kiện.
2. KỲ NẢNG
Thụ lý là giai đoạn khởi đầu cả quá trình giải
quyết một vụ án dân sự. Qua đơn khởi kiện và các
chứng cứ ban đầu do đương sự xuất trình, cán bộ
làm công tác thụ lý phải nghiên cứu, nếu đã đủ điều
kiện theo quy định của pháp luật thì đề xuất thụ lý
vụ kiện. Thực tê cho thấy, nếu th ụ lý vụ kiện làm
không chặt chẽ, sẽ thụ lý cả những vụ không thuộc
thẩm quyền hoặc hết thòi hiệu khởi kiện làm cho
Toà án mất nhiều công sức trong việc điều tra chứng
minh, giải quyết hậu quả mà thực chất không giải
quyết đưỢc vấn để. Ngược lại cũng có không ít
trường hỢp do không nắm vững pháp luật mà yêu
cầu khởi kiện chính đáng của công dân không được
Toà án thụ lý làm cho đương sự phải khiếu kiện ở
nhiều nơi nhiều cấp gây phức tạp không đáng có. Vì
vậy cần có những hiểu biết cần thiết đốỉ với cán bộ
thụ lý vụ án.
2.1. N ghiên cứu đơn khởi k iện
Khi nghiên cứu đơn kiện, ngưòi th ụ lý phải nắm
vững những thông tin cơ bản sau đây:
- Họ tên, địa chỉ, nghề nghiệp của người khởi
- Họ tên, địa chỉ của người bị kiện (bị đơn) và
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan;
- Nội dung việc tranh chấp;
- Yêu cầu của ngưòi khởi kiện.
Khi thấy đơn khởi kiện đã đầy đủ và rõ ràng
những thông tin như trên (theo Điều 34 khoản 3
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự) thì
cán bộ thụ lý mới xem đến tài liệu chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu của đương sự.
Nếu qua nghiên cứu đơn thấy chưa rõ về địa chỉ,
chúa rõ nội dung hoặc chưa rõ yêu cầu của đương
sự thì phải mòi đương sự là ngưòi khởi kiện đến
Toà án, yêu cầu bổ sung hoặc làm rõ nội dung đơn
khởi kiện. Trưòng hỢp đương sự là ngưòi có trình
độ hạn chế, có thê hướng dẫn họ làm rõ yéu cầu.
2.2. Xem xét những tài liệu, những chứng
cứ do đương sự xuất trình
Đương sự khởi kiện phải tự chứng minh cho yêu
cầu của mình. Thông thường tại trụ sở Toà án có
bảng hướng dẫn thủ tục làm đơn khỏi kiện các loại
án. Vì thê đường sự nộp đơn khởi kiện kèm theo
những tài liệu, chứng cứ để chứng minh. Nếu có
đương sự không biết thì phải hưóng dẫn để đương
sự tự chứng minh cho yêu cầu của mình.
Tuỳ theo yêu cầu khởi kiện của đương sự mà cán
bộ thụ lý kiểm tra chứng cứ tài liệu liên quan đến
18
yêu cầu kiện tụng. Ví dụ đương sự xin ly hôn thì
phải nộp đăng ký kết hôn, giấy khai sinh của các
con. Đương sự kiện về hỢp đồng mua bán nhà đất
thì phải xuất trình hỢp đồng mua bán nhà đất, giấy
tờ chứng minh về căn nhà đang có tranh chấp...
việc kiểm tra này mang tính chất sơ bộ, chưa phải
là đánh giá chứng cứ của vụ kiện, mà chỉ nhằm
kiểm tra xem đương sự khởi kiện có cơ sở hay
không để thụ lý.
2.3. Những trường
hỢp
trả lại đơn kiện
Khi nghiên cứu đơn khởi kiện và các tài liệu
chứng cứ do đương sự xuất trình, cán bộ thụ lý phải
đốỉ chiếu với các quy định của pháp luật xem đơn
kiện có rơi vào những trường hỢp quy định tại Điều
36 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
Cụ thể phải trả lại đơn kiện khi:
- Người nộp đơn không có quyển khởi kiện: Đó là
những trưòng hỢp người khởi kiện không có liên
quan gì đến nội dung đang tranh chấp, ví dụ như
một ngưòi khởi kiện đòi nhà đối với người khác,
nhưng người đó không phải là chủ sở hữu, cũng
không được chủ sở hữu nhà uỷ quyền khởi kiện;
hoặc quan hệ tranh chấp trong đơn khởi kiện là
quan hệ có nội dung trái pháp luật, không được
pháp luật bảo vệ, ví dụ như đòi tiền nỢ do thua bạc.
- Thòi hiệu khởi kiện đã hết
Những căn cứ để xem xét thòi hiệu khởi kiện là
19
quy định oúa Bộ luật Dân sự từ Điều 163 đến Điều
171: Điều 6 Nghị quyết Quốc hội khoá IX kỳ họp
thứ 8 ngày 28 tháng 10 năm 1985 về việc thi hành
Bộ luật Dân sự; Mục III Thông tư liên ngành sô
03/TTLN ngày 10 tháng 08 nàm 1996 của Toà án
nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tôi cao
hướng dẫn áp dụng pháp luật theo Nghị quyết của
Quôc hội về việc thi hành Bộ luật Dân sự.
Theo những căn cứ trên đây, có một sô" thòi hiệu
cần lưu ý khi thụ lý vụ án dân sự:
+ Tranh chấp liên quan đến quyển sử dụng đất
xác lập ti-ưóc ngày 15 tháng 10 năm 1993 (Ngày
ban hành Luật Đất đai) thì thụ lý giải quyết đến
ngày 15 tháng 10 nàm 1996. Hết ngày 15 tháng 10
năm 1996 các đương sự không có quyền khởi kiện
yêu cầu Toà án giải quyết các tranh chấp phát sinh
trước 15 tháng 10 năm 1996.
+ Đôi vói các hỢp đồng dân sự xác lập trưốc ngày
01 tháng 07 năm 1996 (Trước khi có Bộ luật Dân
sự), nếu có vi phạm hỢp đồng thì bên khởi kiện có
thòi hạn 3 năm tính từ thời điểm xảy ra vi phạm
hỢp đồng đê khởi kiện. Quá thời hạn này bên bị vi
phạm mất quyền khởi kiện. Thòi hiệu này không
áp dụng đốì với các hỢp đồng dân sự xác lập sau
ngày 01 tháng 07 năm 1996.
+ Thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu do ngưòi chưa thành niên, ngưòi
m ất năng lực hành vi dân sự, ngưòi bị hạn chê
20
- Xem thêm -