Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Giáo án điện tử Giáo trình giáo dục học đại cương...

Tài liệu Giáo trình giáo dục học đại cương

.PDF
70
247
103

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH KHOA SP TIỂU HỌC – MẦM NON GIÁO TRÌNH (Lưu hành nội bộ) GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG (Dành cho sinh viên ngành CĐGD mầm non) Tác giả: Nguyễn Thị Diễm Hằng Phùng Thị Huyền Năm 2016 1 MỤC LỤC MỤC LỤC..................................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC.............................................................. 2 1.1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt............................................................................ 2 1.2. Chức năng của giáo dục..........................................................................................................5 1.3. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của giáo dục học..................................... 8 1.4. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của giáo dục học.............................................. 12 1.5. Hệ thống các khoa học về giáo dục và mối quan hệ giữa giáo dục học với các khoa học khác ..................................................................................................................................................... 17 1.6. Một số khái niệm cơ bản của giáo dục học...........................................................................19 CHƯƠNG 2. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH..............................................21 2.1. Sự phát triển nhân cách của con người................................................................................. 21 2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách.............................................................. 23 CHƯƠNG 3. MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU GIÁO DỤC VÀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN ..................................................................................................................................................... 33 3.1. Khái niệm mục đích, mục tiêu giáo dục và mối quan hệ giữa mục đích, mục tiêu giáo dục33 3.2. Mục đích giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay........................................................ 36 3.3. Hệ thống giáo dục quốc dân................................................................................................. 49 CHƯƠNG 4. NGƯỜI GIÁO VIÊN MẦM NON........................................................................54 4.1. Vai trò, chức năng nhiệm vụ của người giáo viên mầm non................................................ 54 4.2. Đặc điểm lao động sư phạm của người giáo viên mầm non.................................................57 4.3. Yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người giáo viên mầm non.......................................59 4.4. Các mối quan hệ công tác của người giáo viên mầm non trong hoạt động sư phạm........... 63 4.5. Vấn đề bồi dưỡng, hoàn thiện nhân cách của người giáo viên mầm non............................. 64 2 LỜI NÓI ĐẦU Giáo dục học đại cương là một trong những môn học then chốt của chương trình đào tạo đại cương ở các trường Đại học Và Cao đẳng. Để đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của sinh viên thuộc nhiều nhóm ngành khác nhau, chúng tôi biên soạn tập giáo trình này. Trong khi biên soạn, nhóm tác giả đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc nhiều tài liệu hiện có trong và ngoài nước, đồng thời mạnh dạn mở rộng, bổ sung nhiều vấn đề hiện đại mang tính cập nhật như: Vấn đề di truyền; vai trò, chức năng, nhiệm vụ người giáo viên mầm non, đặc điểm lao động sư phạm người giáo viên mầm non… cho nên giáo trình này là tài liệu tham khảo bổ ích đối với cán bộ giảng dạy, sinh viên thuộc ngành giáo dục mầm non. Trong quá trình biện soạn giáo trình khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định, mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp và độc giả 3 CHƯƠNG 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC 1.1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt 1.1.1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt Từ khi xuất hiện trên trái đất, để tồn tại và phát triển, loài người đã bắt tay vào lao động. Bằng lao động, con người đã sử dụng toàn bộ năng lực bản chất của mình tác động vào thế giới tự nhiên để làm ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại của con người, thông qua đó thúc đẩy sự phát triển xã hội. Trong quá trình đó, con người được cải tạo và ngày càng phát triển, hoàn thiện. Cùng với lao động, loài người phải nhận thức thế giới khách quan, không ngừng nắm bắt những quy luật, những thuộc tính bản chất về thế giới và vận chúng vào thực tiễn cải tạo thế giới. Những kinh nghiệm trong lao động sản xuất, sinh hoạt xã hội cũng như nhận thức được tích lũy, khái quát hóa, hệ thống hóa ngày càng phong phú, đa dạng. Trong quá trình đó, loài người nảy sinh nhu cầu truyền thụ lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm đã tích lũy được. Một mặt, làm cho những kinh nghiệm xã hội đó không những không mất đi, không lãng quên mà còn được bảo tồn, lưu giữ, kế tục, ngày càng phong phú lên. Mặt khác, quan trọng hơn là chuẩn bị cho thế hệ sau có đủ năng lực để bước vào cuộc sống, lao động, sản xuất, không chỉ duy trì sự tồn tại của mình mà còn thông qua đó thúc đẩy sự phát triển xã hội. Nhờ sự tiếp nhận những kinh nghiệm xã hội mà thế hệ trước truyền lại, những thế hệ sau tái tạo năng lực bản chất của lòai người thành năng lực bản chất cho chính mình để trở thành những chủ thể xã hội. Các thế hệ đi sau vì thế mà bao giờ cũng có sự phát triển với trình độ cao hơn các thế hệ đi trước. Hiện tượng đó gọi là sự giáo dục. Vậy giáo dục hiểu theo nghĩa rộng nhất là sự truyền thụ kinh nghiệm xã hội từ thế hệ trước cho thế hệ sau nhằm chuẩn bị cho thế hệ sau bước vào cuộc sống. Với ý nghĩa đó, giáo dục ra đời từ khi xã hội mới hình thành, do nhu cầu của xã hội và trở thành một yếu tố cơ bản để là phát triển xã hội. Giáo dục là một hoạt động có ý thức của con người nhằm vào mục đích phát triển của chính con người và phát triển xã hội. Vì vậy giáo dục là một hiện tượng xã hội và là một nhu cầu tất yếu của xã hội. Tuy nhiên, giáo dục ban đầu thực hiện một cách đơn giản, trực tiếp trong lao động và trong cuộc sống, được thực hiện bởi người lớn, ở mọi lúc, mọi nơi. Khi xã hội ngày càng phát triển lên, kinh nghiệm xã hội được đúc kết ngày càng nhiều, yêu cầu của xã hội đối với con người ngày càng cao, các loại hình xã hội ngày càng mở rộng hơn thì giáo dục theo phương thức trực tiếp không còn phù hợp nữa mà đòi hỏi một phương thức giáo dục có hiệu quả hơn. Giáo dục gián tiếp theo phương thức nhà trường, được thực hiện một cách chuyên 4 biệt ra đời và ngày càng phát triển đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của xã hội. Do đó xã hội càng phát triển, giáo dục ngày càng trở nên phức tạp, đa dạng và mang tính chuyên biệt hơn. Sự phát triển đó là yêu cầu tất yếu của xã hội và do sức mạnh to lớn của giáo dục tạo ra sự phát triển xã hội. 1.1.2. Tính quy định của xã hội đối với giáo dục Giáo dục là một hiện tượng xã hội có tác động mạnh mẽ đến xã hội và chịu sự chi phối sâu sắc của các mặt đời sống xã hội. Tính quy định của xã hội đối với giáo dục thể hiện ở những tính chất sau: 1.1.2.1 Tính lịch sử - xã hội của giáo dục. Sự ra đời và phát triển của giáo dục gắn liền với sự ra đời và phát triển của xã hội. Một mặt nó phục vụ cho sự phát triển xã hội, xã hội không thể phát triển thêm một bước nào nếu không có những điều kiện cần thiết do giáo dục tạo ra. Mặt khác, sự phát triển của giáo dục luôn chịu sự quy định của xã hội thông qua những yêu cầu ngày càng cao và những điều kiện ngày càng thuận lợi. Chính vì vậy mà trình độ phát triển của giáo dục phản ánh những đặc điểm phát triển của xã hội. Như vậy, ở mỗi giai đoạn phát triển xã hội nói chung và ở mỗi quốc gia nói riêng sẽ có một nền giáo dục tương ứng. Nền giáo dục phong kiến đã phản ánh những đặc trưng của xã hội phong kiến với một nền nông nghiệp lạc hậu, trì trễ và có vai trò to lớn trong việc duy trì sự bền vững của xã hội phong kiến trong cả nghìn năm. Khi cuộc cách mạng công nghiệp thành công ở châu Âu đưa nhân lọai bước sang một nền văn minh mới - nền văn minh công nghiệp - cùng một lúc nền giáo dục mới ra đời. Đó là nền giáo dục theo phương thức nhà trường, có khả năng giáo dục đồng loạt, được tổ chức một cách khoa học, cung cấp cho nền kinh tế công nghiệp đội ngũ những người lao động đồng bộ, có trình độ cao. Trong thời đại ngày nay, nền giáo dục của mỗi quốc gia đang không ngừng cải cách, đổi mới thích ứng với xu hướng phát triển mới mẻ và năng động của toàn nhân loại. Sự đổi mới giáo dục trở thành một yêu cầu cấp bách và sống còn của mỗi quốc gia. Sự phát triển giáo dục phù hợp với sự phát triển của xã hội thể hiện trên tất cả các mặt, các yếu tố của nền giáo dục: mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, hình thức tổ chức giáo dục, chính sách giáo dục…Sự khác nhau của các yếu tố trên cũng đều do sự quy định của các đặc điểm phát triển giáo dục. 1.1.2.2 Tính giai cấp của giáo dục Trong xã hội có giai cấp thì giáo dục tất yếu mang tính giai cấp vì giai cấp cầm quyền bao giờ cũng nắm vững giáo dục, sử dụng giáo dục. Một mặt giáo dục trở thành công cụ đắc lực đấu tranh giai cấp nhằm bảo vệ và củng cố địa vị thống trị của giai cấp. Giáo dục có chức năng truyền bá hệ tư tưởng, đường lối, quan điểm, chính sách giai cấp. Mặt khác, giai cấp thống trị biến giáo dục thành phương tiện để đào tạo lớp người trung thành, phục vụ đắc lực cho sứ mệnh của giai cấp mình. 5 Tính giai cấp quy định mục đích giáo dục, hệ thống giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, hình thức tổ chức giáo dục… Nói tóm lại tính giai cấp chi phối toàn bộ nền giáo dục trong xã hội có giai cấp. Ví dụ: trong xã hội phong kiến, giáo dục nhằm đào tạo những con người giáo điều, buộc phải học, phải làm một cách máy móc, rập khuôn những điều đã nói trong sách, phục vụ một cách mù quáng cho giai cấp phong kiến nắm chính quyền. Còn trong xã hội ta, nền giáo dục mang tính chất giai cấp công nhân, được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhằm mục tiêu chung là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, tạo mọi cơ hội cho mọi người đều được đi học, đều được phát triển mọi mặt về nhân cách và trở thành những công dân, người sáng tạo, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. 1.1.2.3 Tính kế thừa của giáo dục Giáo dục bao giờ cũng mang tính kế thừa, vì đó là những kinh nghiệm, những thành tựu của nhân loại đúc kết qua quá trình xây dựng và phát triển giáo dục theo lịch sử phát triển của xã hội. Tính kế thừa của giáo dục đòi hỏi: một mặt tiếp nhận có chọn lọc, có phê phán những yếu tố tích cực của nền giáo dục cũ, làm cho nó phù hợp với hoàn cảnh mới, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn giáo dục mới. Mặt khác, mạnh dạn xóa bỏ, loài trừ những yếu tố lạc hậu, lỗi thời thay thế vào đó những yếu tố mới mẻ, tích cực và tiên tiến của thế giới để có thể xây dựng một nền giáo dục vừa mang tính truyền thống, vừa mang tính hiện đại, phù hợp với tình hình đất nước trong thời kỳ hiện nay. Giáo dục Việt Nam đang trong giai đoạn đổi mới mang tính đột phá. Một mặt vừa phải kế thừa những thành quả của hơn 60 năm nền giáo dục cách mạng và truyền thống hơn 4000 nghìn năm văn hiến của dân tộc. Mặt khác, phải tiếp nhận những thành tựu tiên tiến của các nền giáo dục thế giới cũng như những thành tựu của nền giáo dục khoa học- công nghệ hiện đại của nhân loại để hiện đại hóa nền giáo dục nước nhà, xây dựng một nền giáo dục mang tầm thời đại, có đủ khả năng để đào tạo ra những thế hệ con người phát triển hài hòa, thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. 1.2. Chức năng của giáo dục 1.2.1. Chức năng kinh tế - sản xuất Bất kỳ một nước nào muốn phát triển kinh tế, sản xuất thì phải có đủ nhân lực và nhân lực phải có chất lượng cao. Nhân lực là lực lượng lao động của xã hội, là đội ngũ những người lao động đang làm việc trong tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… đảm bảo cho xã hội vận động và phát triển đúng quy luật. Chức năng kinh tế - sản xuất của giáo dục thể hiện tập trung nhất thông qua việc đào tạo nguồn nhân lực. Cụ thể là giáo dục đào tạo những con người có trình độ chuyên môn, 6 nghiệp vụ và phẩm chất nhân cách cao, giáo dục tạo ra sức lao động mới một cách khéo léo, tinh xảo, hiệu quả để thay thế sức lao động cũ mất đi, vừa tạo sức lao động mới cao hơn, góp phần tăng năng suất lao động, đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội. Chính giáo dục đã tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo ra lực lượng trực tiếp sản xuất và quản lý xã hội với trình độ, năng lực cao. Giáo dục giúp cho mọi thành viên trong xã hội các cơ hội được mở mang trí tuệ, trau dồi nhân cách, phát triển các sức mạnh tinh thần và thể chất để vươn lên làm chủ trong lao động, trong cuộc sống cộng đồng... Khi mọi thành viên trong xã hội đều được tiếp nhận một nền giáo dục đúng đắn thì xã hội thực sự được tái sản xuất sức lao động với chất lượng cao hơn. Người lao động, do kết quả đào tạo của nhà trường sẽ được phát triển hài hòa các năng lực chung và riêng và do đó xã hội sẽ được tăng thêm sức lao động mới thay thế sức lao động cũ bị mất đi. Sức lao động mới có chất lượng hơn sẽ đem lại năng suất lao động nhiều hơn. Đặc biệt trong xã hội hiện đại, khi trình độ phát triển của nền kinh tế là do trình độ của con người được giáo dục và đào tạo ra quyết định thì vai trò của giáo dục càng được khẳng định. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn nhân lực còn được gọi là nguồn vốn nhân lực (cùng với nguồn vốn tài nguyên, nguồn vốn sản xuất và nguồn vốn khoa học – công nghệ) với tư cách là một nhân tố tăng trưởng kinh tế. Trong các nguồn vốn thì vốn nhân lực được coi quan trọng nhất bởi lẽ nó không đơn thuần là một nguồn vốn mà nó còn giữ vai trò chủ thể đối với các nguồn vốn khác, nó quyết định khả năng khai thác và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn khác. Theo lí thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại, tỉ lệ tăng GDP phụ thuộc vào tốc độ tăng của các yếu tố đầu vào: nhân lực, vốn sản xuất, tài nguyên, khoa học – công nghệ và hiệu quả sử dụng chúng. Tuy nhiên những nghiên cứu của các nhà kinh tế học, quản lý xã hội và quản lý kinh tế đã thừa nhận vốn và kỹ thuật chỉ góp một phần nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, còn phần rất quan trọng của “sản phẩm thặng dư” gắn liền với chất lượng nguồn nhân lực (trình độ được giáo dục về thể lực, trí lực, tâm lực). Vai trò của nhân lực ở chỗ, trước hết nó là một đầu vào của tăng trưởng GDP, sau nữa nó còn có ý nghĩa quyết định đối với tỷ lệ tăng của các nguồn lực khác.  Để thực hiện tốt chức năng kinh tế- sản xuất, giáo dục phải thỏa mãn một số yêu cầu cơ bản sau đây: - Giáo dục phải gắn bó với sự phát triển kinh tế - sản xuất, thỏa mãn các yêu cầu phát triển kinh tế- sản xuất trong từng giai đoạn cụ thể. - Xây dựng một hệ thống ngành nghề cân đối, đa dạng phù hợp với sự phát triển kinh tế - sản xuất của đất nước. - Các loại hình cán bộ kỹ thuật và công nhân phải đảm bảo tính cân đối, tránh tình trạng thừa thầy, thiếu thợ, đồng thời phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất cao, thỏa mãn các yêu cầu sản xuất hiện đại. Như vậy, với chức năng kinh tế - sản xuất giáo dục là động lực chính thúc đẩy nền kinh tế phát triển và giáo dục phải đi trước sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi nền khoa học và 7 công nghệ đạt đến trình độ phát triển cao, nhu cầu xã hội đa dạng, người lao động phải là những người có trình độ học vấn cao, có kiến thức rộng, có tay nghề vững, có tính năng động, sáng tạo… thì giáo dục phải đào tạo nhân lực một cách có hệ thống, chính quy ở trình độ cao. 1.2.2. Chức năng chính trị - xã hội Bên cạnh chức năng tái sản xuất sức lao động xã hội, giáo dục còn mang chức năng chính trị - xã hội. Giáo dục không đứng ngoài chính trị mà nó là phương thức tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách… của một chế độ chính trị, giai cấp hay chính đảng cầm quyền. Giáo dục trực tiếp truyền bá hệ tư tưởng chính trị, đường lối chính sách của giai cấp nắm quyền và trực tiếp đào tạo chuẩn bị cho thế hệ trẻ tham gia vào cuộc sống, bảo vệ chế độ chính trị, xã hội đương thời. Xã hội nào cũng có cấu trúc của nó – đó là một tổng thể, một tập hợp bao gồm các bộ phận, các yếu tố tạo thành xã hội như cộng đồng xã hội, dân tộc, giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội.v.v… đã được hình thành một cách lịch sử – tự nhiên, tất yếu khách quan trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội là tác động đến tập hợp các bộ phận xã hội và tính chất của các mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Trong xã hội phong kiến, giáo dục góp phần không nhỏ trong việc khoét sâu thêm sự phân chia giai cấp, xây dựng một cấu trúc xã hội mang tính chất giai cấp và đẳng cấp rõ rệt. Những chính sách giáo dục phân biệt, bất bình đẳng trong xã hội phong kiến đã duy trì vị trí đối kháng giữa các đẳng cấp và giai tầng xã hội. Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở nên thuần nhất hơn bằng cách xoá bỏ sự phân chia giai cấp và làm cho các tầng lớp xích lại gần nhau. Nền Giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền giáo dục “của dân, do dân, vì dân”, nền giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người, giáo dục góp phần nâng cao trình độ học vấn chung đã làm cho các tầng lớp xã hội được xích lại gần nhau. Nhờ đó, trong xã hội ta các tầng lớp xã hội tuy khác nhau về lợi ích xã hội, về tính chất và trình độ xã hội, về hoạt động và phát triển xã hội, song cùng đoàn kết, hợp tác đấu tranh xây dựng xã hội nhằm đạt tới mục tiêu chung: “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,văn minh”. 1.2.3 Chức năng tư tưởng – văn hóa Giáo dục có tác dụng to lớn đến việc xây dựng một hệ tư tưởng chi phối toàn xã hội, hình thành ở mỗi cá nhân thế giới quan, tư tưởng chính trị, ý thức, tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội. “Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” (Điều 3, chương I, Luật giáo dục 2005). Nền giáo dục Việt Nam phải phục vụ mục đích chính trị tốt đẹp và tư tưởng cao quý của Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh. Giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ, quá trình này giúp cho mỗi cá nhân tích lũy kiến thức, mở mang trí tuệ, hình thành và nâng 8 cao trình độ văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ cho mỗi cá nhân và cho toàn xã hội. Một quốc gia giàu mạnh là một quốc gia có nền kinh tế vững mạnh, khoa học công nghệ tiên tiến, chính trị bền vững và trình độ dân trí cao. Giáo dục góp phần xây dựng và nâng cao trình độ dân trí – trình độ văn hóa chung cho toàn xã hội. Nền giáo dục không chỉ hướng vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực mà còn hướng vào quá trình phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Giáo dục không chỉ thực hiện sứ mệnh lịch sử là chuyển tải nền văn hóa của thế hệ này cho thế hệ kia mà còn là phương thức đặc trưng cơ bản để bảo tồn và phát triển nền văn hóa của dân tộc và nhân loại. Giáo dục bảo tồn, phát triển nền văn hoá dân tộc và nhân loại thông qua các con đường giáo dục, trong đó dạy học là con đường cơ bản nhất. Thông qua các con đường giáo dục học sinh không chỉ biết gìn giữ mà còn có khả năng làm phong phú, sáng tạo thêm những giá trị văn hóa, những loại hình văn hóa đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc… Tóm lại, thông qua ba chức năng xã hội, giáo dục đã góp phần vào sự phát triển của xã hội, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao về sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ xã hội, ý thức xã hội… Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, giáo dục được quan niệm không chỉ là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng, mà nó còn là một bộ phận thuộc hạ tầng cơ sở, “Giáo dục không chỉ là sự phản ánh đơn thuần các lực lượng kinh tế và xã hội đang họat động trong một xã hội. Nó còn là một phương tiện quan trọng để cấu thành các lực lượng kinh tế - xã hội và văn hóa và quyết định chiều hướng phát triển của các lực lượng này. Đến lượt mình động lực của các lực lượng này lại tác động đến đặc điểm của giáo dục. Do vậy, có một mối quan hệ vòng tròn trong mối quan hệ qua lại giữa giáo dục và một loạt các nhân tố xã hội và con người khác” (Raja Roy Singh). Thế giới coi giáo dục là động lực cơ bản, là đòn bẩy mạnh mẽ, là điều kiện tiên quyết thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đảng CSVN khẳng định phát triển giáo dục là “quốc sách hàng đầu” và “ đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển bền vững nhất”. 1.3. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của giáo dục học 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu của giáo dục học Phần đông các nhà giáo dục học đều xác định giáo dục học có đối tượng nghiên cứu rất rõ ràng - đó là quá trình giáo dục với hàm nghĩa rộng (còn gọi là quá trình sư phạm tổng thể), bao quát toàn bộ các tác động giáo dục và dạy học được định hướng theo mục đích xác định, được tổ chức một cách hợp lý, khoa học nhằm hình thành và phát triển nhân cách người học. * Đặc điểm của quá trình sư phạm tổng thể  Qúa trình sư phạm tổng thể có những đặc điểm sau: - Là một dạng vận động, phát triển liên tục của các hiện tượng, tình huống giáo dục và dạy học, được tổ chức thực hiện theo những quy trình xác định. 9 - Là một dạng vận động xã hội, có quan hệ gián tiếp với các quá trình khác (kinh tế, chính trị, văn hóa…) nhưng được tổ chức một cách chuyên biệt (theo quy luật của giáo dục). - Trong quá trình giáo dục luôn có sự tác động qua lại của các thành phần tham gia: người dạy (chủ thể tác động) và người học (chủ thể hoạt động) trong đó nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo và chủ thể hoạt động độc lập, sáng tạo. Qúa trình sư phạm tổng thể là một hệ thống gồm nhiều yếu tố: Mục đích và nhiệm vụ giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, phương tiện giáo dục, nhà giáo dục, người được giáo dục, kết quả giáo dục. Toàn bộ các yếu tố này vận động và phát triển, quan hệ biện chứng với nhau, thúc đẩy lẫn nhau trong cùng một hệ thống và đều bị chi phối bởi các quá trình kinh tế - xã hội, các nhân tố lịch sử - xã hội cụ thể. Giáo dục học nghiên cứu những mối quan hệ giữa các yếu tố của quá trình sư phạm tổng thể cũng như giữa quá trình sư phạm tổng thể với môi trường của nó, để phát hiện được những quy luật của chúng. Từ đó xác lập phương phướng, giải pháp để tổ chức các quá trình giáo dục, phát triển giáo dục nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu của sự phát triển xã hội. *Cấu trúc của quá trình giáo dục - Qúa trình giáo dục (sư phạm tổng thể) là sự thống nhất của hai quá trình bộ phận: quá trình dạy học và quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp). Cả hai quá trình đều thực hiện chức năng chung của giáo dục trong việc hình thành nhân cách toàn diện. Song mỗi quá trình đều có chức năng trội của mình và dựa vào chức năng trội đó để thực hiện các chức năng khác nhau. Chức năng trội của quá trình dạy học là trau dồi học vấn, là truyền thụ và lĩnh hội một hệ thống tri thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo, nhận thức và hành động. Chức năng trội của quá trình giáo dục là xây dựng một hệ thống niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, tính cách, thói quen, là hình thành những phẩm chất thế giới quan chính trị, đạo đức…của cá nhân.    - So sánh quá trình dạy học và giáo dục: Qúa trình dạy học Qúa trình giáo dục Có thế mạnh trong việc hình thành Về các biểu tượng, khái niệm, định luật, lý chức thuyết, các kỹ năng, kỹ xảo nghĩa là ảnh năng, hưởng của nó thiên về trí tuệ, nhận nhiệm thức. vụ Chương trình, kế hoạch dạy học được quy định chặt chẽ 10 Có thế mạnh trong việc hình  thành niềm tin, chuẩn mức, lý  tưởng, động cơ, nguyên tắc hành  vi đạo đức…nghĩa là ảnh hưởng của nó thiên về thái độ, cảm xúc,  tâm hồn. Nội dung giáo dục chỉ có tính định hướng: có thể là sinh hoạt văn hóa, chính trị, xã hội, lao động nghệ thuật, thể thao, du lịch…có  tính chất quần chúng. Nội dung giáo dục được xác định chủ yếu dựa theo nhu cầu xã hội, nguyên  vọng và hứng thú của tập học sinh ở từng lứa tuổi khác nhau. Người thầy kết hợp với học sinh và phụ huynh học sinh để lựa chọn các  hoat động giáo dục nhằm đảm bảo yêu cầu giáo duc toàn diện. Về nội dung Khi dạy học, các hình thức thường Trong quá trình giáo dục thì Về được sử dụng là: giờ lên lớp, xemine, các hình thức thường được sử thực hành thí nghiệm… dụng là: sinh hoạt tập thể, hoạt hình  động xã hội, tham quan, lao động thức xã hội – công ích… Người lãnh đạo quá trình dạy học Người lãnh đạo là đại diện của tập thể học sinh như lớp Về chủ yếu là thầy giáo. trưởng, cán bộ đoàn, đội với sự quản lý giúp đỡ của các thầy giáo chủ nhiệm. - Qúa trình giáo dục tổng thể cũng như quá trình giáo dục bộ phận đều được tạo nên bởi các yếu tố sau: * Mục đích, nhiệm vụ giáo dục Mục đích giáo dục có thể được coi là “đơn dặt hàng” của xã hôị đối với nền giáo dục về mẫu nhân cách người được giáo dục, mà giáo dục cần đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội về giáo dục con người lao động trong từng giai đoạn phát triển lịch sử của xã hội. Để thực hịên tốt mục đích này, giáo dục phải hoàn thành tốt các nhiệm vụ giáo dục: giáo dục trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất và giáo dục lao động. Những nhiệm vụ này liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau và thâm nhập vào nhau. Mục đích và nhiệm vụ giáo dục được coi là yêú tố hàng đầu của quá trình giáo dục tổng thể hoặc bộ phận vì nó định hướng cho sự vận động và phát triển của toàn bộ quá trình giáo dục này cũng như cho sự vận động và phát triển của các yếu tố khác. * Nội dung giáo dục: Nội dung giáo dục bao gồm hệ thống những giá trị xã hội mà người được giáo dục cần tiếp nhận để phát triển nhân cách theo những yêu cầu mà xã hội đặt ra. Đó là hệ thống những 11 giá trị nhân văn, đạo đức, văn hóa, khoa học, công nghệ…được lựa chọn trong kho tàng giá trị của nhân loại. Nội dung giáo dục, về cơ bản, được phản ánh trong chương trình và sách giáo khoa. Nó tạo nên nội dung hoạt động thống nhất cho nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm đạt mục đích giáo dục đã định. * Phương pháp và phương tiện giáo dục Phương pháp và phương tiện giáo dục quy định những cách thức và những phương tiện hoạt động của nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm hoàn thành nhiệm vụ giáo dục và đạt được mục đích giáo dục đã định. Phương pháp và phương tiện giáo dục là hai yếu tố độc lập nhưng trong thực tiễn giáo dục, chúng luôn được thực hiện trong mối liên hệ biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra nhau và tạo ra sức sống cho nhau. * Nhà giáo dục Nhà giáo dục cùng tập thể sư phạm của họ đóng vai trò định hướng, tổ chức, điều khiển, điều chỉnh và đánh giá hoạt động nhận thức và tự giáo dục của người được giáo dục. Nói gọn lại, đó là vai trò chủ đạo của nhà giáo dục. *Người được giáo dục Người được giáo dục, cùng với tập thể của họ một mặt là đối tượng giáo dục, tiếp nhận sự tác động có định hướng của nhà giáo dục; mặt khác là chủ thể nhận thức, chủ thể tự giáo dục. Hai vai trò thống nhất với nhau, trong đó vai trò chủ thể là cơ bản nhất. *Kết quả giáo dục Kết quả giáo dục là trình độ phát triển nhân cách của người được giáo dục đạt được sau mỗi quá trình giáo dục nhất định và sau toàn bộ quá trình giáo dục. Đồng thời kết quả này cũng được coi là kết quả sinh động của sự vận động và phát triển của quá trình giáo dục bộ phận và của quá trình giáo dục tổng thể. Những yếu tố trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại và thống nhất với nhau. Ví dụ: mục đích, nhiệm vụ giáo dục có vai trò định hướng cho sự vận động và phát triển của các yếu tố khác; về phần mình các yếu tố khác lại phục vụ cho việc hoàn thành các nhiệm vụ giáo dục và đạt được mục đích giáo dục đề ra. Những yếu tố trên đây có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại, thống nhất với môi trường kinh tế - xã hội và môi trường khoa học - công nghệ. Các môi trường đặt ra các yêu cầu cho quá trình giáo dục ngày càng cao, đòi hỏi quá trình giáo dục phải đào tạo ra những người công dân, những người lao động theo mẫu nhân cách nhất định, mặt khác, lại tạo điều kiện thuận lợi để quá trình này đạt đựơc những kết quả với chất lượng và hiệu quả cao. *Cả quá trình giáo dục tổng thể lẫn các quá trình giáo dục bộ phận và từng yếu tố của 12 nó đều là đối tượng nghiên cứu của giáo dục học 1.3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của giáo dục học - Nghiên cứu bản chất của giáo dục và mối quan hệ giữa giáo dục với các bộ phận khác của xã hội. -  Nghiên cứu các quy luật của giáo dục. - Nghiên cứu các nhân tố của HĐGD (mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức giáo dục… ). Từ đó tìm tòi con đường nâng cao chất lượng và hiệu quả HĐGD. Cùng với sự phát triển và đổi mới giáo dục, nhiều vấn đề mới trong thực tiễn nảy sinh, đòi hỏi sự đáp ứng của Giáo dục học trong giai đoạn mới. Vì vậy nhiệm vụ của Giáo dục học còn thể hiện ở việc giải quyết những vấn đề sau: - Nghiên cứu và hoàn thiện những vấn đề thuộc phạm trù phương pháp luận khoa học giáo dục. - Nghiên cứu góp phần giải quyết mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải phát triển nhanh quy mô giáo dục, vừa phải nâng cao chất lượng trong khi khả năng và điều kiện đáp ứng yêu cầu còn nhiều hạn chế. - Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục trong nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục trong những điều kiện mới… - Các vấn đề trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong quản lý giáo dục và đào tạo… 1.3.3 Phương pháp luận nghiên cứu giáo dục học Phương pháp luận được hiểu là lý thuyết về các nguyên tắc để tiến hành các phương pháp, các hình thức hoạt động nhận thức khoa học, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo hoạt động chủ thể. Phương pháp luận trong giáo dục học được xem là sự tổng hợp các luận điểm về nhận thức giáo dục và cải tạo, biến đổi thực tiễn giáo dục. Những quan điểm phương pháp luận là kim chỉ nam hướng dẫn các nhà khoa học, tìm tòi, nghiên cứu khoa học, có thể đề cập một số quan điểm phương pháp luận nghiên cứu giáo dục như sau: - Quan điểm duy vật biện chứng: Khi nghiên cứu các nhà khoa học phải xem xét sự vật, hiện tượng, quá trình giáo dục trong mối quan hệ phức tạp của chúng, đồng thời khi nghiên cứu phải xem xét đối tượng trong sự vận động và phát triển. - Quan điểm lịch sử - logic: Yêu cầu khi sử dụng phải phát hiện nguồn gốc nảy sinh, quá trình diễn biến đối tượng nghiên cứu trong không gian và thời gian với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. - Quan điểm thực tiễn: Yêu cầu khi nghiên cứu giáo dục cần phải xuất phát từ thực tiễn, phải khái quát để tìm ra quy luật phát triển của chúng từ thực tiễn, kết quả nghiên cứu được kiểm nghiệm trong thực tiễn và phải ứng dụng trong thực tiễn. - Quan điểm hệ thống: Khi nghiên cứu đối tượng phải phân tích chúng thành những bộ phận để xem xét một cách sâu sắc và toàn diện, phải phân tích mối quan hệ giữa các sự 13 vật, hiện tượng, các quá trình cũng như mối quan hệ giữa các bộ phận trong sự vật, hiện tượng và quá trình đó. * Các phương pháp nghiên cứu giáo dục học - Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm: + Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết + Phương pháp mô hình hóa - Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm: + Phương pháp quan sát + Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi + Phương pháp phỏng vấn + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục + Phương pháp thực nghiệm sư phạm + Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động + Phương pháp chuyên gia - Phương pháp sử dụng toán thống kê (Các phương pháp này sẽ được học cụ thể trong học phần Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục) 1.4. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của giáo dục học 1.4.1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của khoa học giáo dục * Trong thời kỳ cổ đại, giáo dục được xem là một trong những mặt hoạt động xã hội bình thường trong cuộc sống hàng ngày gắn với tiến trình phát triển chung của xã hội. Vào thời kỳ này xuất hiện các nhà tư tưởng giáo dục nổi tiếng như: Khổng Tử (551 - 479 TCN); Xôcrát (469 - 399 TCN); Arixtôt (384 - 322 TCN); Platôn (427 - 347 TCN)... - Xôcơrát (469 - 399 TCN): là nhà giáo dục thực hành, ông quan niệm giáo dục phải giúp con người tìm thấy, tự khẳng định chính bản thân mình, vì thế tư tưởng của ông mang giá trị nhân văn rất cao. Trong hoạt động giáo dục ông nổi tiếng là nhà sáng tạo. Bao giờ ông cũng nêu câu hỏi để người học suy nghĩ, tự tìm lời giải đáp. Trong 40 năm hoạt động, ông đã nêu cao tấm gương đức hạnh của mình, tình yêu chân lí và sự can đảm trong việc bảo vệ chân lí… - Platôn (427 - 347 TCN): là học trò của Xôcơrát, ông đã có công sưu tập, ghi lại và xuất bản phần lớn các tác phẩm của Xôcơrát. Theo ông, việc giáo dục trước hết liên quan tới đạo đức, tâm lí học, xã hội học. Ông cho rằng, sống đạo đức trước hết là sống công bằng, một cá nhân được xem là công bằng khi nội tâm đảm bảo được sự thăng bằng giữa 3 yếu tố: dục vọng, sự can đảm và lý trí, nhưng “hành động của con người chỉ hợp lý nếu cái bụng và trái tim chịu sự phục tùng cái đầu”. Ông cũng cho rằng, con người và xã hội chỉ có thể đạt tới hạnh phúc bởi một nền giáo dục quốc gia. Mỗi con người phải được giáo dục như nhau 14 ngay từ ngày đầu. Đây là quan điểm tiến bộ, song không phù hợp với thể chế của xã hội nô lệ. - Khổng Tử (551 – 479 TCN): là nhà giáo vĩ đại của Trung Hoa cổ đại và của nhân loại. Ông quan niệm giáo dục con người phải nhằm mục đích đào tạo nên những người nhân nghĩa, có phẩm hạnh. Trong quá trình hoạt động giáo dục, Khổng Tử đã sáng tạo và vận dụng nhiều phương pháp giáo dục tiến bộ so với đương thời. Ông đã dùng cách gợi mở, đi từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp nhưng vẫn đòi hỏi người học phải tích cực suy nghĩ để nắm vững vấn đề; ông đòi hỏi người phải luyện tập, nề nếp và thói quen trong học tập, theo hướng “ôn cũ để biết cái mới”. Để gắn nội dung giáo dục với cuộc sống, ông còn dùng phương pháp đối thoại, yêu cầu học sinh liên hệ những điều đã học vào thực tế hàng ngày… Vào thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng giáo dục đồng thời cũng là nhà khoa học, triết học, do đó các tư tưởng giáo dục thường phát triển và được trình bày trong các tác phẩm triết học và khoa học nói chung… * Ở phương Tây, vào thời kỳ trung cổ, vai trò độc tôn của nhà thờ đã có ảnh hưởng rất rõ nét đối với sự phát triển của nhà trường nói chung và về tư tưởng giáo dục nói riêng. Giáo dục học chưa xuất hiện với tư cách là một khoa học độc lập. Ở Tây Âu, vào thời kỳ Trung cổ, triết học cùng giáo dục chủ yếu phục vụ cho thần học. Thời ấy chỉ có các trường của giáo hội, các nhà tôn giáo chủ trương kết hợp và dung hòa lý trí, sự phát triển trí tuệ với niềm tin tôn giáo, chính đó là sự thể hiện nguồn gốc nảy sinh ra triết học kinh viện, nhằm chứng minh rằng niềm tin bao giờ cũng định hướng và ở vị trí cao hơn trí tuệ, có trước trí tuệ và khoa học. Đến thế kỷ XII - XIII ở Tây Âu đã hình thành ba loại trường: Trường tu viện; trường của nhà thờ và trường dòng. Lúc đầu ở các loại trường này chỉ dạy giáo lý, kinh bản. Sau đó dạy thêm số học, hình học, thiên văn và âm nhạc. Bên cạnh trường tôn giáo có hệ thống giáo dục kị sĩ, với nội dung giáo dục “Bảy đức tính của kỵ sĩ”: Cưỡi ngựa, bơi, dùng giáo, đấu kiếm, đi săn, đánh cờ, làm thơ. Thực chất giáo dục tôn giáo và giáo dục kị sĩ ở Tây Âu đều phục vụ cho chế độ phong kiến thần quyền đương thời. * Đến cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV khi mầm mống của xã hội tư bản xuất hiện, nhân loại bước vào thời đại Phục hưng. Các nhà tư tưởng nhân văn tiên tiến xuất hiện, tạo nên nhu cầu, động lực mới thúc đẩy giáo dục phát triển với tư tưởng giáo dục tiến bộ: Vượt ra khỏi khuôn khổ giáo dục kinh viện - tôn giáo, hướng về chủ nghĩa nhân văn. Các nhà nhân văn chủ nghĩa chủ trương đề cao giá trị con người, cho rằng con người cần được phát triển toàn diện. Chính bước quá độ từ chế độ phong kiến qua chủ nghĩa tư bản đã làm xuất hiện những hệ thống tri thức mới ra đời, trong đó có nhiều khoa học tách ra khỏi triết học. Giáo dục học từ đây cũng tồn tại và phát triển như là một khoa học độc lập do công của nhà giáo dục học vĩ đại Tiệp Khắc Comenxki (1592 - 1670). Ông là nhà lý luận và là nhà tư tưởng giáo dục đã đề cao giáo dục phổ cập, việc dạy tiếng mẹ đẻ trong các nhà trường và nêu ra 15 luận chứng chặt chẽ trong tác phẩm nổi tiếng: “Phép giảng dạy vĩ đại”. Rất nhiều nguyên tắc dạy học vẫn được sử dụng đến ngày nay như: Nguyên tắc trực quan, nguyên tắc tính khoa học và tính hệ thống trong dạy học vv… đã được nêu bật trong tác phẩm ấy. Sau Comenxki, xuất hiện nhiều nhà nghiên cứu giáo dục học, như Lốccơ (1632 - 1701), Rútxô (1712 - 1778),… trong đó phải kể đến Petxtalogi, ông đặc biệt nhấn mạnh tác dụng của việc kết hợp lao động với học tập, nhấn mạnh tác dụng vai trò của trực quan trong dạy học và giáo dục và vạch ra một hệ thống các phương pháp giáo dục chung. Cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội tư bản, kinh tế - xã hội, văn hóa và khoa học phát triển rất nhanh, giáo dục đã được nâng cao. Tuy vậy, mâu thuẫn xã hội cũng đã xuất hiện và ngày càng gay gắt, tất cả đều được phản ánh rõ nét trong hệ tư tưởng, trong đời sống xã hội. * Vào nửa đầu thế kỷ XIX cùng với sự phát triển chung của khoa học, giáo dục học cũng đã phát triển và thể hiện sự đấu tranh gay gắt giữa các quan điểm lí luận giáo dục của giai cấp tư sản và lợi ích giáo dục của nhân dân. Nhiều nhà giáo dục tiến bộ, như A. Dixtécvéc (1790 - 1866), A. XanhXimông (1760 - 1837)… đã tiếp tục phát triển quan điểm giáo dục của Petxtalozi, họ không những kế thưa tư tưởng giáo dục tiến bộ của ông mà còn phát triển, làm phong phú thêm, xây dựng cơ sở cho các quan điểm giáo dục xã hội chủ nghĩa về sau, nâng cao tầm tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa trong giáo dục. * Cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX, giáo dục học tiếp tục phát triển với cơ sở phương pháp luận khoa học, làm cho giáo dục học tiếp thu, kế thừa và phát huy được toàn bộ thành tựu của các tư tưởng giáo dục tiến bộ của nhân loại, gắn liền với sự phát triển và tiến bộ của giáo dục với công cuộc đấu trành giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức bóc lột, mọi tệ nạn xã hội, góp phần tổ chức lại xã hội theo hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển những giá trị tinh hoa trong di sản giáo dục của nhân loại, học thuyết Mác - Lênin về giáo dục đã chứng minh một cách khoa học các vấn đề có tính quy luật trong giáo dục như: Sự hình thành con người, tính quy định của kinh tế - xã hội đối với giáo dục, tính lịch sử của giáo dục trong tiến trình phát triển của xã hội và vai trò của giáo dục trong điều kiện xã hội có giai cấp. Những luận điểm trên đã được xem là các quan điểm cơ bản, có vai trò định hướng cho mọi quá trình nghiên cứu, ứng dụng các vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục, giúp cho giáo dục học ngày càng phong phú và phát triển sâu rộng như ngày nay. 1.4.2 Xu thế phát triển hiện nay của giáo dục học ở Việt Nam Trên cơ sở đánh giá thực trạng giáo dục nước ta trong thời gian qua, phân tích bối cảnh trong nước và ngoài nước, nhận định về thời cơ và thách thức đối với giáo dục trong thời kỳ mới, Đảng ta đã đưa ra các quan điểm chỉ đạo thực tiễn giáo dục Việt Nam trong giai đoạn mới - công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật Giáo dục(2005), Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 đã thể 16 hiện những quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục ở nước ta như sau: 1. Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao vai trò các tổ chức, đoàn thể chính trị, kinh tế, xã hội trong phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính sách ưu đãi đối với giáo dục, đặc biệt là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương; ưu tiên ngân sách nhà nước dành cho phát triển giáo dục phổ cập và các đối tượng đặc thù. 2. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, tiên tiến, hiện đại, xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó để đạt được mặt bằng chung, đồng thời tạo điều kiện để các địa phương và các cơ sở giáo dục có điều kiện bứt phá nhanh, đi trước một bước, đạt trình độ ngang bằng với các nước có nền giáo dục phát triển. Xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học, học suốt đời, đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số, người nghèo, con em diện chính sách.  3. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo dục gắn với phát triển khoa học và công nghệ, tập trung vào nâng cao chất lượng, đặc biệt chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành để một mặt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng; mặt khác phải chú trọng thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi người học, những người có năng khiếu được phát triển tài năng. 4. Hội nhập quốc tế sâu, rộng về giáo dục trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng giao lưu hợp tác với các nền giáo dục trên thế giới, nhất là với các nền giáo dục tiên tiến hiện đại; phát hiện và khai thác kịp thời các cơ hội thu hút nguồn lực có chất lượng. 1.4.3. Xu thế phát triển hiện nay của giáo dục học thế giới Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, sự hình thành nền kinh tế tri thức, xã hội thông tin và xu thế toàn cầu hóa… đã tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục. Xu thế phát triển giáo dục thế giới đã được UNESCO khái quát thành 21 điểm với các tư tưởng chủ yếu: - Giáo dục thường xuyên phải là điểm chủ đạo của mọi chính sách giáo dục; giáo dục suốt đời, giáo dục bằng mọi cách, giáo dục cho mọi người, xây dựng một xã hội học tập. Giáo dục phải làm cho mỗi người trở thành người dạy và người kiến tạo nên sự tiến bộ văn hóa của bản thân - Giáo dục không chỉ dạy cho con người có học vấn mà phải thực hành, thực nghiệm để có tay nghề, vào đời không bỡ ngỡ. Phát triển giáo dục gắn liền với phát triển kinh tế - xã 17 hội, chú ý giáo dục hướng nghiệp để có thể lập thân, lập nghiệp - Giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường phải là một mục tiêu lớn trong chiến lược giáo dục. Giáo dục phổ thông cơ sở phải là mục tiêu hàng đầu của chính sách giáo dục. - Giáo viên phải được đào tạo để trở thành những nhà giáo dục hơn là những chuyên gia truyền đạt kiến thức. Việc giảng dạy phải thích nghi với người học chứ không phải áp đặt máy móc buộc người học tuân theo. Các nước trên thế giới đang tiến hành cải cách giáo dục theo các hướng lớn sau: - Tăng cường giáo dục nhân văn - Công nghệ - thông tin - Đào tạo những con người vừa có tri thức, vừa có kỹ năng, năng lực thực sự đóng góp vào sự phát triển xã hội. - Hiện đại hóa các phương pháp day học – giáo dục Nền giáo dục Việt Nam cũng đang trên con đường đổi mới nhằm đáp ứng với những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Các giải pháp chiến lược phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay là: - Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục – đào tạo. - Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy - người học - Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục – đào tạo và tăng cường cơ sở vật chất các trường học - Đổi mới công tác quản lý giáo dục - Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục * Các định hướng phát triển giáo dục trên thế giới và trong nước ở trên đã vạch ra cho Giáo dục học những nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu: - Nghiên cứu và hoàn thiện các vấn đề về phương pháp luận khoa học giáo dục - Nghiên cứu hoàn thiện các cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục trong giai đoạn mới, xác định mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục và sự phát triển kinh tế - xã hội. - Nghiên cứu các vấn đề về đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học – giáo dục đáp ứng với sự phát triển thực tiễn - Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu của khoa học – công nghệ vào quá trình dạy học – giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục… Tóm lại, tất cả các vấn đề trong Giáo dục học đều cần phải được nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện theo hướng nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn, làm cho Giáo dục học góp phần thúc đẩy mạnh mẽ nến giáo dục quốc dân đáp ứng với đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội. 1.5. Hệ thống các khoa học về giáo dục và mối quan hệ giữa giáo dục học với các khoa học khác 1.5.1 Hệ thống các khoa học về giáo dục 18 - Giáo dục học có những phân môn sau đây: + Lịch sử giáo dục học: Muốn phát triển đúng hướng, giáo dục học luôn phải vận dụng “nguyên tắc lịch sử trong nội dung và phương pháp nghiên cứu”. Như vậy, lịch sử giáo dục học có vai trò quan trọng trong hệ thống các khoa học giáo dục trước hết đối với giáo dục học. Nhờ quán triệt quan điểm đối với các hiện tượng giáo dục (của các thời đại khác nhau) nhà nghiên cứu sẽ phát hiện đúng đắn bản chất xã hội của giáo dục ở từng thời đại và hiểu được tiến trình phát triển và đổi mới liên tục của giáo dục. Lịch sử giáo dục cung cấp cho giáo dục học các tư tưởng giáo dục tiên tiến, kiệt xuất, dựa trên sự kế thừa có chọn lọc có phê phán các thành tựu và lí luận giáo dục có giá trị trong nước và trên thế giới, giúp cho giáo dục học luôn phát triển, luôn đổi mới, bắt kịp xu thế của thời đại. + Những vấn đề chung của giáo dục học: nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất của giáo dục học, cụ thể là: chứng minh giáo dục học là một khoa học; trình bày những lý luận, những định luật cơ bản về sự hình thành và phát triển nhân cách; giới thiệu mục đích giáo dục, những quan điểm, những nguyên tắc giáo dục cơ bản nhất; hệ thống giáo dục quốc dân; giới thiệu về vai trò của người thầy giáo trong quá trình dạy học và giáo dục. + Lý luận dạy học: Nghiên cứu quá trình dạy học với tư cách là một quá trình sư phạm bộ phận, một phương tiện để trau dồi học vấn, phát triển năng lực và giáo dục các phẩm chất nhân cách thông qua hoạt động đồng thời giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo, nhận thức và hành động cho học sinh. Lý luận dạy học nghiên cứu bản chất và các quy luật của quá trình dạy học, nêu ra được các nguyên tắc chỉ đạo, phương pháp thực hiện và nội dung cần thiết, hình thức và phương pháp thích hợp và cuối cùng là đánh giá kết quả dạy học. + Lý luận giáo dục: Nghiên cứu quá trình sư phạm với tư cách là một quá trình sư phạm bộ phận, nhằm hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, thái độ và thói quen hành vi trong cuộc sống. Lý luận giáo dục nghiên cứu bản chất và tính quy luật của quá trình giáo dục, thiết kế nội dung, xây dựng nguyên tắc, tìm ra các phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục và đánh giá kết quả về mặt giáo dục các phẩm chất nhân cách của học sinh. + Lý luận về quản lý nhà trường: Nghiên cứu quá trình tổ chức và điều khiển công tác giáo dục nhà trường, các cấp học khác nhau. Nhiệm vụ của lý luận quản lý nhà trường là nghiên cứu bản chất, cấu trúc, các tính quy luật vận hành quá trình đó, xác định nội dung, nguyên tắc và triển vọng phát triển của nó nhằm hoàn thiện cái cũ, xây dựng cái mới trong các hình thức tổ chức, phương pháp và biện pháp hoạt động quản lí. Nhân lõi của lý luận quản lý nhà trường là những vấn đề quản lý nội bộ nhà trường, đặc biệt là những vấn đề về tổ chức và lãnh đạo quá trình sư phạm trong nhà trường. - Giáo dục học nằm trong hệ thống của khoa học giáo dục nhưng bản thân nó cũng bao gồm nhiều phân môn khác nhau như: giáo dục học nhà trẻ, mẫu giáo, giáo dục học cho lứa 19 tuổi đi học ... - Trong thực tế giáo dục học còn được nghiên cứu và giảng dạy ở từng ngành chuyên môn – nghề nghiệp (giáo dục học y học, giáo dục học quân sự, giáo dục học kĩ thuật…). - Ngành giáo dục học đặc biệt cũng là một bộ phận của giáo dục học có nhiệm vụ chuyên nghiên cứu những vấn đề dạy học và giáo dục những trẻ khuyết tật về thị giác, thính giác hoặc chậm phát triển về ngôn ngữ, trí tuệ. - Đối với thực tiễn hoạt động ở nhà trường các bộ môn phương pháp dạy học bộ môn có vai trò quan trọng như: Bộ môn phương pháp dạy học toán, văn, sử, địa, sinh, kĩ thuật, v.v… còn gọi là “lí luận dạy học bộ môn" Tuy đối tượng nghiên cứu có khác nhau nhưng các phân môn giáo dục học đều có cơ sở chung là lí luận giáo dục học đại cương, từ những kiến thức và kỹ năng này mà vận dụng, đáp ứng cho việc giáo dục ở các lĩnh vực khác nhau. 1.5.2 Mối quan hệ giữa giáo dục học và các khoa học khác Như đã nói ở trên, giáo dục là một hiện tượng xã hội, giáo dục do xã hội quy định vì thế giáo dục học là một khoa học xã hội. Trong quá trình hoạt động và phát triển, giữa giáo dục học với các hoạt động khoa học xã hội cũng như khoa học tự nhiên có mối liên hệ mật thiết với nhau. Những ngành khoa học liên quan mật thiết với giáo dục học là: triết học, sinh lý học, tâm lý học, đạo đức học… * Giáo dục học với Triết học Triết học là khoa học nghiên cứu các quy luật chung nhất của thế giới về sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người, cho nên nó cũng là nền tảng khoa học cho sự phát triển của giáo dục học. Đồng thời có một số vấn đề chung mà cả triết học và giáo dục học đều quan tâm nghiên cứu. Đó là các vấn đề: sự hình thành con người và mục đích giáo dục; mối liên hệ giữa quá trình giáo dục với các quá trình xã hội khác; lý luận về hoạt động của con người và phương pháp đào tạo con người… * Giáo dục học với Tâm lý học Tâm lý học có vai trò rất quan trọng đối với giáo dục học vì tâm lý học cung cấp cho giáo dục học những tri thức khoa học các cơ sở chế biến và các điều kiện tổ chức các quá trình bên trong của sự hình thành nhân cách con người, theo từng lứa tuổi, trong từng loại hoạt động, làm cơ sở đáng tin cậy cho việc tổ chức các quá trình sư phạm. * Giáo dục học với sinh lý học Sinh lý học được coi là cơ sở tự nhiên của giáo dục học. Việc nghiên cứu giáo dục học phải dựa vào các dự kiện của sinh lý học về sự phát triển của hệ thống thần kinh cấp cấp cao, về đặc điểm các loại hình thần kinh, về đặc điểm của hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai, về sự phát triển và vận hành của các cơ quan cảm giác, về hệ thống tim mạch và hô hấp, về các đặc điểm phát triển của hệ thống cơ thể… Ví dụ: từ đặc điểm phát triển của lứa tuổi 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
Văn hóa anh mỹ...
200
20326
146