Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
GIÚP HỌC SINH LỚP 4 GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
ĐẠT HIỆU QUẢ CAO TRONG VIỆC HỌC TOÁN
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong chương trình lớp 4, bên cạnh môn tiếng Việt đóng vai trò quan trọng thì
môn toán mang tính chủ lực quyết định đến kết quả học tập của học sinh. Nó là nền
tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc học toán ở các lớp trên. Chương trình toán lớp 4 bao
gồm những dạng toán cơ bản đi dần đến chuyên sâu nhằm từng bước hình thành kiến
thức toán học vững chắc tạo đà cho học sinh học tốt toán lớp 5. Trong đó dạng giải
toán có lời văn giữ vai trò rất quan trọng, giúp cho học sinh bước đầu phát triển năng
lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý và diễn đạt đúng (cách nói và viết), cách phát
hiện, cách giải quyết những bài toán có liên quan đến thực tế cuộc sống, kích thích
tưởng tượng, tạo hứng thú học toán, góp phần hình thành phương pháp tự học và làm
việc có kế hoạch, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.
Trong một đề toán lớp 4 bên cạnh những câu thực hiện phép tính có điểm số
không chênh lệch nhau lắm thì giải toán có lời văn lại chiếm một số điểm khá cao
mang tính tổng quát quyết định đến kết quả của một bài thi hay một bài kiểm tra, hơn
thế nữa khi học sinh giải được trọn vẹn một bài giải toán có lời văn có nghĩa là các em
đã hình thành kĩ năng tính toán khá hoàn chỉnh từ lời giải cho đến cách đặt tính, đáp
số và có trách nhiệm với kết quả bài toán.
Thế nhưng khi phải giải quyết những bài giải toán có lời văn hầu hết các em
đều lúng
túng, thiếu tự tin, không biết bắt đầu từ đâu. Có tình trạng học sinh đặt lời giải đúng
nhưng thực hiện phép tính sai, lại có tình trạng sai lời giải dẫn đến sai cả bài, có khi cả
lời giải và phép tính đúng nhưng ra đáp số sai…Đứng trước tình hình như vậy tôi
cùng đồng nghiệp phải đầu tư, tranh luận để tìm hiểu lí do vì sao các em còn lúng
1
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
túng khi thực hiện những bài tập giải toán có lời văn nhằm không ngừng nâng cao
chất lượng giảng dạy môn toán . Đó chính là lí do tôi chọn đề tài “Giúp học sinh lớp
4 giải toán có lời văn đạt hiệu quả cao trong việc học toán”
PHẦN II: NỘI DUNG –BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1-Thực trạng ban đầu của vấn đề :
-Năm học 2012 -2013 tôi được phân công giảng dạy lớp 4B.Qua thăm lớp, dự
giờ các lớp 4 khác trong tổ,qua kiểm tra bài viết của học sinh,tôi thấy rằng việc học
môn toán có lời văn của học sinh lớp tôi còn hạn chế cần phải khắc phục. Vì vậy ,từ
đầu năm 2013- 2014 tôi đã có kế hoạch thực hiện việc giảng dạy môn toán có lời văn
cho học sinh lớp 4.
Kết quả khảo sát đầu năm lớp 4B có 28 em kết quả thu được như sau:
*Kết quả kiểm tra, khảo sát :
Năm học
2013 -
Sỉ
Giỏi
số
SL TL
S
TL(
S
TL(
S
TL(%
(%)
L
%)
L
%)
L
)
17,8
8
28,6
11 39,3
4
14,3
28 5
Khá
TB
Yếu
Ghi chú
2014
-Qua trao đổi với nhiều em học sinh lớp 4, đa số các em đều có ý kiến là toán
lớp 4 có nhiều dạng, khó hơn chương trình lớp 3. Kiến thức môn toán ở lớp 3 khá đơn
giản trong phạm vi 100 000, các dạng toán có lời văn phần nhiều chỉ có một hoặc hai
phép tính, bước đầu tạo cơ bản cho học sinh chưa bắt buộc phải suy luận nhiều.
-Khi tiếp xúc với chương trình toán lớp 4 các em gặp nhiều dạng toán khác
nhau (giải toán cơ bản, trung bình cộng, Tổng –hiệu, Tổng –tỉ, hiệu –tỉ…). Đối với
các dạng toán đó, các bước tính nhiều hơn, lời giải đa dạng hơn, buộc học sinh phải
2
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
tư duy, suy luận nhiều hơn. Đồng nghiệp dạy lớp 4 cùng chung suy nghĩ với tôi là
chương trình toán lớp 4 mặc dù đã có sự thay đổi sách giáo khoa, cải tiến phương
pháp giảng dạy nhưng nhìn chung khá nặng nề đối với học sinh và giáo viên. Cụ thể là
có rất nhiều bài toán liên quan đến thực tế cuộc sống xung quanh các em, mỗi khi họp
tổ giáo viên thường tranh luận mất nhiều thời gian do một bài toán có nhiều cách giải
khác nhau. Bên cạnh đó, chương trình đòi hỏi phải làm sao tạo được nền tảng cơ bản
nhất cho học sinh khi lên lớp 5 mà phải đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng.
-Đối với những bài toán khó các em không giải được, phụ huynh cũng không
giúp được các em, vậy các em chỉ biết trông cậy vào giáo viên giảng dạy trên lớp. Có
một thực tế là việc soạn giảng của giáo viên có khi còn chưa đáp ứng được trình độ
nhận thức nhạy bén của học sinh. Việc soạn giảng còn theo đáp án bài tập chưa đi sâu
vào phương pháp hướng dẫn cách giải bài toán và có tình trạng giáo viên giải mẫu cho
học sinh chép vào vở. Đôi khi một bài toán có nhiều cách giải nhưng giáo viên chỉ cho
học sinh chọn một cách giải áp đặt theo ý của giáo viên không để học sinh tự tìm tòi
cách giải khác. Chưa dùng nhiều phương pháp trực quan để giúp học sinh dễ tiếp thu
kiến thức. Vì thế, học sinh gặp khó khăn khi giải toán do các em không biết bắt đầu từ
đâu.
-Chính những lí do trên đã dẫn đến kết quả học sinh không tìm được phương
pháp giải toán, các em chán nản hoặc sao chép bài mẫu. Từ đó, các em không còn
hứng thú học toán và như thế càng làm cho giáo viên thiếu kiên nhẫn trong giảng dạy,
học sinh thiếu tự tin dẫn đến chất lượng giảng dạy không cao. Trước thực trạng trên,
tôi luôn tự hỏi mình phải làm sao để nâng chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh
một cách hiệu quả và chắc chắn? Chỉ có cách cải tiến phương pháp giảng dạy phù hợp
với đặc điểm lớp học của mình thì việc “ nâng cao chất lượng môn Toán cho học
sinh lớp 4” mới có kết quả.
2/Biện pháp và quá trình tổ chức thực hiện :
-Thông qua việc ôn tập, tiếp xúc với học sinh trong một hai tuần đầu và dựa vào
kết quả khảo sát chất lượng đầu năm, bản thân giáo viên phải tìm cách nắm được đặc
3
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
điểm tâm lí học sinh, trình độ nhận thức của học sinh để đề ra phương pháp giảng dạy
sao cho phù hợp . Xu hướng của giáo dục hiện nay bắt buộc mỗi giáo viên phải đầu tư
vào mỗi bài dạy nhằm tìm ra phương pháp tích cực giúp học sinh lĩnh hội kiến thức
một các chắc chắn. Giáo viên là người đặt ra vấn đề, học sinh là người giải quyết vấn
đề. Vậy làm sao để học sinh thành thạo các bước giải toán có lời văn để nâng chất
lượng môn toán. Sau đây là những biện pháp mà tôi đã áp dụng :
a-Phân nhóm học sinh theo trình độ:
-Qua kiểm tra chất lượng đầu năm kết hợp với 1 -2 tuần thực dạy tôi sẽ chia học
sinh của lớp ra thành 4 nhóm.
*Nhóm 1:Những học sinh giải toán , có kiến thức cơ bản vững vàng chắc chắn,
đa số các em thuộc thành phần gia đình khá giả, có đủ điều kiện học tập, được phụ
huynh quan tâm; cũng có trường hợp các em là học sinh có hoàn cảnh khó khăn
nhưng thông minh, hiếu học và học rất giỏi. Tôi sẽ giới thiệu sơ lược qua về chương
trình toán học lớp 4 cho các em nắm. Từ đó, yêu cầu các em sẽ có sự hỗ trợ cho các
bạn khác trong quá trình học toán, đặc biệt là các bạn yếu toán. Khuyến khích các em
gần nhà với nhau lập thành các nhóm nhỏ để giúp đỡ nhau trong học tập.
*Nhóm 2:Những học sinh học khá toán và những em tuy học giỏi toán nhưng
thiếu cẩn thận dẫn đến sai sót không đáng có. Tôi cho các em có cách nhìn sơ lược về
các dạng toán ở lớp 4 để khuyến khích các em cần sự học tập trao đổi đối với các bạn
giỏi và dành thời gian học với các bạn yếu để cùng tiến bộ.
*Nhóm 3:Những học sinh dạng trung bình toán, đa số các em bị mất căn bản
với nhiều lí do như: phụ huynh không quan tâm, thuộc thành phần con gia đình lao
động nghèo, phải lao động phụ giúp gia đình. Sẽ cho các em ôn lại thật kĩ các kiến
thức cơ bản lớp dưới và biết sơ lược chương trình toán lớp 4 để từ đó có cách nhìn
tổng thể về toán lớp 4.
*Nhóm 4:Những học sinh dạng yếu toán, đây là số học sinh chiếm tỉ lệ 30% so
với khảo sát đầu năm học, là đối tượng cần phải quan tâm nhiều hơn. Nhóm này được
phụ đạo
4
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
2 buổi/tuần. Các em được trao đổi nhóm nhỏ, giúp các em mạnh dạn trao đổi, học
hỏi các bạn trong nhóm nếu chưa hiểu bài.
+Khi giao việc cụ thể cho học sinh thì giáo viên tiến hành lập thành nhóm nhỏ
( 4- 5 học sinh ) đối với học sinh cả lớp. Mỗi nhóm như thế gồm các đối tượng học
sinh (học sinh giỏi, khá, trung bình, học sinh yếu). Đồng thời giáo viên trang bị cho
học sinh một cách học toán dễ hiểu, dễ nhớ nhất. Đó là cách giải các bài toán có lời
văn
b-Hướng dẫn học sinh giải bài toán có lời văn:
Để giúp học sinh có hứng thú học tập và ham thích giải các bài toán có lời văn
thì giáo viên phải luôn đổi mới cách soạn giảng, làm sao cho học sinh dễ tiếp thu kiến
thức mới, làm được bài . Trước hết giáo viên phải giúp học sinh nắm chắc các bước
giải bài toán có lời văn:
Bước 1: Đọc kĩ đề toán, xác định đâu là: “cái đã cho”, đâu là “cái cần tìm”
Khi giải bất cứ bài toán dù là ở dạng nào ta cũng cần phải đọc kĩ đề. Đọc để
hiểu đề, hiểu đúng nghĩa của nó và xác định yêu cầu của đề bài, không nên xem
thường bước này. Đọc kĩ đề bài sẽ xác định được đề bài cho biết những gì? Cần tìm
thêm những gì? Yêu cầu buộc học sinh phải đọc đi đọc lại nhiều lần và kết quả là”nhớ
đề bài”(tránh tình trạng học sinh hiểu nhầm , giáo viên yêu cầu các em học thuộc lòng
đề bài)
Trong quá trình giải toán , nếu các em chỉ đọc qua loa chiếu lệ, rất dễ dẫn đến
trường hợp sau:
+Hiểu nhầm 1 trong các dữ liệu đề ra.
+Xác định không đúng yêu cầu của đề bài.
+Xác định chưa tới đỉnh.
Từ đó nhắc học sinh phải đọc kĩ đề bài trước khi làm bài.
Bước 2: Tóm tắt đề toán bằng cách thích hợp:
Tóm tắt đề toán bằng nhiều cách:
+Bằng ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn.
5
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
+Bằng sơ đồ đoạn thẳng.
+Bằng các hình tượng trưng.
+Bằng sơ đồ ven…
Ở lớp 4 thường gặp nhất là cách tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng, tuy nhiên ở một
số dạng toán như: toán về đại lượng tỉ lệ nghịch hay tỉ lệ thuận thì cần tóm tắt bằng
ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn.
Bước 3:Phân tích đề toán để tìm cách giải:
Đây là bước quan trọng nhất trong các bước giải một bài toán. Nó là yếu tố
quyết định chất lượng bài giải trong tiết dạy, nó phụ thuộc vào sự hướng dẫn, dẫn dắt
của giáo viên. Hướng dẫn các em phân tích đề toán để tìm cách giải, thường có hai
con đường:
*Con đường theo lối phân tích:
Cách phân tích này thường bắt đầu bằng câu hỏi nhỏ: Bài toán hỏi gì ? Muốn
trả lời câu hỏi ấy cần biết gì ? Trong số đó cái nào đã cho, cái nào cần tìm ? Muốn tìm
được cái đó ta phải làm sao ? Tức là từ câu hỏi bài toán, ta sẽ đi ngược lại các điều đã
cho trong bài toán. Đây là cách phân tích, tìm cách giải hay nhất và áp dụng được với
nhiều loại bài.
Ví dụ :Một khu đất hình chữ nhật có chiều dài 3km, chiều rộng bằng 1/3 chiều
dài . Tính diện tích khu đất đó? (SGK/101)
Học sinh: đọc đề, phân tích tìm cách giải
+Bài toán yêu cầu tính gì? (diện tích khu đất hình chữ nhật )
+Muốn biết được diện tích hình chữ nhật ta cần biết gì? (chiều dài, chiều rộng )
+Đề bài đã cho biết gì ? (chiều dài 3km, chiều rộng bằng 1/3 chiều dài)
+Vậy ta cần tính gì ? (chiều rộng)
+Muốn tính chiều rộng ta làm thế nào? (3: 3 )
Đến đây học sinh đã giải được bài toán.
*Con đường theo lối tổng hợp:
6
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
Đây là cách giải theo con đường ngược lại với cách phân tích ở trên. Từ các
điều đã cho trong bài toán có thể suy ra hoặc tính được điều gì giúp ích cho việc giải
bài toán không?...cứ như thế suy luận dần dần từ những điều đã biết cho đến câu hỏi
của bài toán.
Ví dụ : Để lát một căn phòng người ta cần sử dụng hết 200 viên gạch hình
vuông có cạch 30cm. Hỏi căn phòng đó có diện tích bao nhiêu mét vuông, biết phần
gạch vữa không đáng kể? (SGK/65)
Học sinh:đọc đề phân tích tổng hợp cách giải
+Mỗi viên gạch có cạnh 30cm, vậy ta sẽ tính được gì có ích cho việc giải bài
toán? (diện tích một viên gạch)
+Đơn vị là gì? (cm2 )
+Người ta dùng 200 viên gạch như thế để lát nền nhà, vậy ta có thể trả lời câu
hỏi của bài toán được chưa? Tính bằng cách nào? (200 x diện tích một viên )
+Ra đơn vị là gì? (cm2 )
+Vì đơn vị hỏi là m2 nên ta cần làm thêm bước gì? ( đổi từ cm2 ra m2 )
Đến đây học sinh có thể giải được bài toán.
-Tuy nhiên quá trình phân tích tổng hợp không phải học sinh nào cũng trả lời có
định hướng đúng đắn (như đã nêu ở trên ).Ví dụ : cạnh của viên gạch hình vuông là
30cm, từ điều này ta tính được gì? Học sinh có thể trả lời : “ta tính được chu vi viên
gạch”. Nên ta cần nhắc các em “tính được gì có lợi cho việc giải bài toán”.
c-Một số kinh nghiệm khi hướng dẫn giải bài toán cơ bản ở lớp 4:
Cách 1:Toán về tìm số trung bình cộng :
Đây là dạng toán đơn giải nhất trong chương trình toán có lời văn ở lớp 4.
Những bài toán đơn giản theo mẫu ở bài học thì học sinh chỉ cần dùng công thức đã
học để áp dụng tính (muốn tìm trung bình cộng của nhiều số,ta tính tổng của các số đó
rồi chia tổng cho số các số hạng).
7
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
Khi dạy tiết hình thành qui tắc cho học sinh, giáo viên cần hết sức giúp cho học
sinh hiểu cụm từ “số các số hạng”. Có thể hiểu rõ cụm từ này, học sinh mới thực hiện
đúng qui tắc, áp dụng đúng qui tắc vào các bài toán có lời văn.
Ở một số dạng bài này nhưng khá phức tạp hơn, giáo viên cần quan tâm để
hướng dẫn học sinh giải tốt.
Ví dụ : Có 9 ô tô chuyển thực phẩm vào thành phố, trong đó 5 ô tô đi đầu, mỗi
ô tô chuyển được 36 tạ và 4 ô tô đi sau, mỗi ô tô chuyển được 45 tạ. Hỏi trung bình
mỗi ô tô chuyển được bao nhiêu tấn thực phẩm? (SGK /28)
Thông thường chúng ta hướng dẫn bằng lời, học sinh khá có thể theo dõi và
nắm bắt được. Nhưng học sinh trung bình cần có sự hướng dẫn tỉ mỉ hơn.
Sơ đồ tóm tắt bằng đoạn thẳng giúp các em dễ hình dung hơn:
36 tạ
Ô tô đi đầu :
45 tạ
Ô tô đi sau :
-Dựa vào sơ đồ trên ta dễ dàng hướng dẫn học sinh tìm hiểu :
+Giả sử mỗi ô tô chuyển hàng là một đoạn thẳng
vậy có tất cả bao nhiêu ô
tô chuyển hàng : ( 5 + 4 = 9 )
+5 ô tô đi đầu , mỗi ô tô chuyển được bao nhiêu tạ?
+4 ô tô đi sau, mỗi ô tô chuyển được bao nhiêu tạ?
+Vậy trung bình mỗi ô tô chở được bao nhiêu tạ?
(Lưu ý : học sinh ở đây tổng cộng 9 ô tô, số các số hạng là 9. Trong trường hợp
này học sinh dễ nhằm lẫn là 2)
Cách 2:Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó :
Đây là dạng toán thường xuyên áp dụng nên ngay từ đầu ta cần lưu ý cho học
sinh để các em quan tâm nhiều hơn.
Trong nội dung kiến thức cần truyền đạt cho học sinh thì dạng toán này có thể
giải bằng nhiều cách khác nhau, song các bài luyện tập không yêu cầu giải bằng 2
8
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
cách . Vì thế nên ta có thể hướng dẫn cho học sinh làm quen với một cách, sau đó mới
giới thiệu cách
thứ 2. Ví dụ ta có thể hướng dẫn cho các em tìm số bé trước.
Số bé = (tổng – hiệu ) : 2
Số lớn = (tổng + hiệu ) : 2
Đối với dạng toán này một số em khá giỏi chỉ cần đọc đề bài, sau đó xác định
đâu là tổng, đâu là hiệu, các em áp dụng công thức rồi tìm ra câu trả lời của bài toán.
Tuy nhiên, đối với học sinh trung bình, yếu ta cần hướng dẫn bằng sơ đồ đoạn
thẳng để các em tìm ra cách giải.
Tóm tắt :
?
Sản phẩm
Phân xưởng I :
120 sản phẩm
Phân xưởng II:
1200 sản phẩm
------------
-Hướng dẫn học sinh giải : ta xem đoạn thẳng ngắn hơn biểu thị số sản phẩm phân
xưởng I , đoạn thẳng dài hơn biểu thị số sản phẩm của phân xưởng II . Tổng chính là
của cả 2 đoạn thẳng cộng lại.
+Nếu ta đem tổng sản phẩm của 2 phân xưởng trừ đi hiệu sản phẩm của 2 phân
xưởng ta được hai lần số sản phẩm phân xưởng nào? (hai lần số sản phẩm phân xưởng
I)
Vậy muốn tìm số sản phẩm phân xưởng I ta còn phải làm gì nữa? (lấy hai lần số
sản phẩm phân xưởng I chia cho 2). Đến đây ta có tìm được số sản phẩm của phân
xưởng II không? Em hãy tìm cách tính, tính dễ nhất. (Số sản phẩm của phân xưởng I
cộng với 120 sản phẩm).
Tuy nhiên bước giải cuối cùng (tìm số sản phẩm của phân xưởng II nhiều hơn
em sẽ áp dụng công thức: số lớn = (tổng + hiệu) : 2 . Nên giáo viên cần hướng dẫn các
em tìm cách tính dễ nhất, nhanh nhất.
*Phần trực quan tóm tắt bằng sơ đồ, nó là điểm tựa trong trí nhớ của học sinh.
Nó sẽ giúp các em dễ nhớ và nhớ lâu về công thức áp dụng tính cho dạng toán này.
9
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
Giúp các em mở rộng tư duy tìm cách giải cho các dạng bài khác nữa. Vì vậy giáo
viên phải dặn dò học sinh luôn phải tóm tắt đối với dạng toán này. Vì có tóm tắt bằng
sơ đồ đoạn thẳng như thế ta mới dễ dàng nhận ra cách giải.
Cách 3:Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số đó:
Để giúp học sinh học tốt 2 dạng toán này thì giáo viên phải chuẩn bị chu đáo
cho các em kiến thức về “tỉ số”.
Ví dụ :Tổ có 3 bạn gái và 6 bạn trai thì tỉ số của bạn trai so với bạn gái là 6 : 3 =
2 . Ta nói rằng “số bạn trai gấp 2 lần số bạn gái”. Cũng tổ ấy,nhưng nếu là tỉ số của
bạn gái so với bạn trai thì lại khác. Tỉ số của bạn gái so với bạn trai là 3 : 6 = 3/6. Ta
nói rằng “số bạn gái bằng 3/6 số bạn trại”.
*Lưu ý học sinh: đại lượng đầu thì số tương ứng là tử số, đại lượng sau thì số
tương ứng là mẫu số.
Ví dụ : Nói : “khối lượng gạo loại I bằng 1/4 khối lượng gạo loại II ” thì ta biết
là khối lượng gạo loại I là một phần, khối lượng gạo loại II là 4 phần.
Trước khi giải các bài toán trong 2 dạng này, ta cần yêu cầu học sinh đọc kĩ đề,
đọc kĩ phân số (hay số nguyên ) chỉ tỉ số. Sau đó hỏi lại cách hiểu tỉ số đó ở học sinh
để kiểm tra đúng sai, sửa chữa, hướng dẫn kịp thời mới cho tóm tắt, làm như thế đỡ
tốn thời gian tiết học, vừa ôn lại kiến thức cũ cho các em. Tuyệt đối giáo viên không
được làm thay các em khâu này, cần gọi học sinh lên bảng tóm tắt, học sinh bên dưới
nhận xét, chữa bài nếu sai.
*Ở hai dạng bài này, cần lưu ý các em:
+Sau khi tóm tắt cần tìm phương pháp nào để biết trong tổng ấy ( hay trong
hiệu ấy) được chia ra làm mấy phần bằng nhau?
+Tính giá trị của một phần.
+Từ đó tính giá trị của nhiều phần.
Ví dụ bài toán : Mẹ hơn con 27 tuổi. Sau 3 năm nữa tuổi mẹ sẽ gấp 4 lần tuổi
con. Tính tuổi của mỗi người hiện nay? (SGK /176)
10
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
Bài toán mang tính suy luận nên cho 01 học sinh đọc đề bài, sau đó học sinh
giải theo nhóm rồi trình bày bài để đi đến cách thống nhất cách giải.
Vì mỗi năm mỗi người tăng thêm 1 tuổi nên hiệu số tuổi giữa mẹ và con không
thay đổi theo thời gian.
Ta có sơ đồ sau 3 năm:
? tuổi
-Tuổi con :
27 tuổi
-Tuổi mẹ :
? tuổi
Từ sơ đồ tóm tắt, học sinh sẽ tính được hiếu số phần bằng nhau là : 4 -1 = 3 (phần )
Tính được tuổi của con sau 3 năm là : 27 : 3 = 9 (tuổi)
Tuổi của co hiện nay là: 9 -3 = 6 (tuổi)
Tuổi của mẹ hiện nay là : 6 + 27 =33 (tuổi )
d)Lồng ghép một số bài toán vui –học để gây hứng thú cho học sinh :
Thỉnh thoảng , giáo viên nên lồng ghép một số bài toán vui để tạo hứng thú
trong học toán cho học sinh. Nội dung những bài toán đó không khó lắm để học sinh
giải được. Tuy nhiên vẫn có những điểm “mẹo” để học sinh tranh luận gây sôi nổi
trong tiết học.
Ví dụ bài toán : +Một người đốt 15 cây nến ở trong phòng, một lúc sau vì có
gió nên đã làm tắt đi 3 cây nến. Thấy thế, người đó mới đóng các cánh cửa lại thì nến
không tắt nữa. Hỏi một lúc sau thì còn mấy cây nến?
+Bài toán : Một con ốc sên leo lên đỉnh một cái cây thẳng đứng cao 14m. Ban
ngày ốc sên ta leo lên được 4m, nhưng ban đêm do buồn ngủ nên bị tụt xuống hết 2m.
Hỏi sau mấy ngày thì ốc sên leo lên tới đỉnh?
e)Thành lập nhóm yêu toán, đăng lên báo lớp những bài toán hay và những bài có
cách giải hay.
11
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
Để các em tình nguyện tham gia vào nhóm học sinh yêu toán 1 tuần có thể sinh
hoạt các em một buổi. Trong buổi đó các em giải theo nhóm một bài toán nào đó, hay
tìm cách giải mới cho một bài toán ở trên lớp, hoặc đặt đề toán cho một câu tóm tắt do
giáo viên đưa ra.
Trong các buổi họp mặt đó các em vui-học nên thoải mái hơn, thích thú hơn,
giúp giáo viên vui vẻ hơn, yêu nghề mến trẻ hơn nữa.
Mặt khác bên cạnh tờ báo tường của lớp, ta cần làm thêm những tờ báo với tiêu
đề: “Góc tiếng Việt” hay “Góc toán vui-Toán học”. Trên đó ta cho gắn những bài giải
điểm cao, những bài toán hay, những kiến thức cơ bản trong chương trình của khối
lớp học. Làm như vậy nhằm khích lệ tinh thần học tập của các em. Nhằm giúp các em
noi gương bạn bè để hoàn thiện mình hơn.
Giúp các em không thấy khó khăn khi học công thức toán,không cảm thấy quá
khô khan, cứng nhắc.
g)Tổ chức các buổi học ngoại khóa cho các em:
Ngoài giờ học trên lớp, các em cần có những tiết phụ đạo để ôn lại kiến thức cũ,
củng cố kiến thức mới. Cần cho các em tham gia thi với các lớp khác về kiến thức
toán học ở mỗi giữa học kì 1 lần hoặc vào sáng thứ 2 hàng tuần, với nhiều hình thức
thay đổi như: đố em, hái hoa dân chủ, rung chuông vàng,….
h)các hoạt động hỗ trợ:
Giáo viên thường xuyên liên hệ với phụ huynh học sinh để nhắc nhở, động viên
các em học bài, làm đầy đủ bài tập ở nhà theo vở bài tập toán. Đối với học sinh yếu
giáo viên chuẩn bị một số đề toán dạng cơ bản để giao cho các em luyện thêm trong
các buổi học phụ đạo. Đối với học sinh khá,giỏi thì giao cho các em những bài toán
nâng cao nhằm phát hiện học sinh giỏi toán. Đề toán đưa ra với nhiều hình thức khác
nhau như : trắc nghiệm, tự luận, …nhằm giúp các em tự học, tự đánh giá mình, không
nên ỉ lại bạn bè và thầy cô.
Trong các buổi học ôn tập giáo viên luôn thay đổi hình thức ôn tập: bảng con,
làm vở, thảo luận để tạo hứng thú học tập cho học sinh.
12
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
3-Nguyên nhân thành công và tồn tại nẩy sinh trong quá trình tổ chức:
*Thành công : -Do giáo viên có kế hoạch ngay từ đầu năm,nắm tình hình đặc
điểm của từng học sinh và từng nhóm học sinh. Từ đó xây dựng một lớp học đoàn kết,
gắn bó, hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong học tập. Có kế hoạch phân nhòm học tập với nhiều
đối tượng giỏi, khá, trung bình, yếu khác nhau nhằm tạo dựng tình cảm thân thiết giữa
thầy và trò, giữa trò với trò.
-Phối hợp nhiều hình thức học tập, giữa thảo luận nhóm, cá nhân, tập thể dưới
sự hướng dẫn của thầy mà học sinh học tập một cách tích cực, chủ động, sáng tạo.
Giúp học sinh hiểu học tốt môn toán lớp 4 chính là tạo nền tảng vững chắc cho việc
học toán lớp 5.
-Khi học sinh gặp khó khăn trong giải toán , giáo viên cần có thái độ gợi mở,
nhẹ nhàng, chọn lựa câu hỏi dễ hiểu, gần gũi, tránh gây căng thẳng , giúp các em tự
tin trong học tập. Giáo viên chịu khó thiết kế đề bài trắc nghiệm cho học sinh ôn tập
để học sinh làm quen với cách ra đề của phòng, sở .
Giáo viên phải luôn là người có tác phong chuẩn mực, có sự chuẩn bị chu đáo
về kế hoạch bài học trước khi lên lớp, ứng xử linh hoạt với các tình huống xảy ra
trong lớp.
*Tồn tại :-Do chương trình lớp 4 đa dạng, phong phú từ cơ bản đến suy luận nên
học sinh thường ngán ngại. Một số em mất cơ bản về giải toán có lời văn ở lớp dưới
nên khả năng tiếp thu chậm.
4-Kết quả đạt được:
Tóm lại, việc nâng cao chất lượng giải Toán có lời văn lớp 4 là một công việc đòi
hỏi giáo viên phải cải tiến phương pháp giảng dạy và tự đề ra cho mình một số biện
pháp tích cực, phù hợp với từng đối tượng học sinh và đặc điểm của lớp học. Người
giáo viên cần phải linh hoạt , sáng tạo khi áp dụng biện pháp không cứng nhắc, rập
khuôn, điều quan trọng là tạo sự hứng thú, say mê học toán đối với các em ngay từ khi
mới bước chân vào lớp 4. Tất cả điều đó sẽ giúp cho kết quả môn toán ở cuối năm học
đạt kết quả cao.
13
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
*Kết quả thực hiện kiểm chứng:
Năm học
2012 -
Sỉ
Giỏi
số
SL TL
S
TL(
S
TL(
S
TL(%
(%)
L
%)
L
%)
L
)
13
43,3
30
5
16,66
Khá
9
30
TB
2013
2013 -
28
6
21,42
9
10
32,1
11
39,3
2
7,14
12
40
1
3,33
10
35,7
0
0
Ghi chú
Cuối HKI
4
30
7
23,33
10
2013
2013 -
3
3
2014
2012 -
Yếu
33,3
3
28
8
28,6
10
35,7
Cuối năm
2014
-Từ kết quả đạt được của học sinh trong năm học :2013 -2014, tôi vui mừng
nhận thấy chất lượng môn toán của học sinh được nâng lên rõ rệt, số lượng học sinh
giỏi toán có phần tăng lên, học sinh trung bình, yếu môn toán giảm đi hẳn.
5-Tác dụng của sáng kiến kinh nghiệm:
-Qua nhiều năm áp dụng biện pháp nêu trên tôi nhận thấy hiệu quả của việc
“nâng cao chất lượng giải toán có lời văn lớp 4” thật đáng khích lệ. Số lượng học sinh
giỏi tăng lên rõ rệt, học sinh khá dần dần khắc phục những sai sót, rèn luyện tính cẩn
thận. Chất lượng học sinh trung bình, yếu được nâng lên rõ rệt. Đa số các em đã có ý
thức học tập, tự giác làm bài, biết giúp đỡ lẫn nhau, biết sử dụng đồ dùng học toán
một cách thành thạo, biết quan sát các đối tượng liên quan đến toán học trong thực tế
cuộc sống.
6-Phạm vi, tác dụng của sáng kiến kinh nghiệm :
14
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
- Từ thực tế dạy học và thực trạng của học sinh, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra
một số kinh nghiệm trong việc dạy toán có lời văn cho học sinh lớp 4 vào việc họp
chuyên môn trong tổ để được chia sẽ. Hy vọng sẽ phần nào giúp các đồng chí, đồng
nghiệp có thêm kinh nghiệm để dạy toán cho học sinh của lớp mình được tốt hơn. Rất
mong nhận được sự góp ý của các đồng chí, đồng nghiệp để tôi ngày một hoàn thiện
hơn về chương trình môn toán có lời văn ở lớp 4. Từ đó giúp học sinh yêu thích, có
hứng thú học môn học này hơn và không còn nhàm chán.Đồng thời sẽ giảm bớt tình
trạng học sinh bỏ học giữa chừng vì bị hỏng kiến thức hay không tiếp thu được bài,khi
học môn toán.
7-Những bài học kinh nghiệm:
-Giáo viên phải luôn quan tâm đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với
đặc điểm tâm lý và trình độ nhận thức của học sinh lớp mình. Đồng thời phải nắm
được trình độ nhận thức của từng học sinh, tạo sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
đối tượng học sinh, giúp học sinh tích cực, chủ động , sáng tạo trong học tập. Đặc
biệt tạo cho học sinh có thói quen thực hiện các bước khi giải bài toán có lời văn:
+Đọc kĩ đề bài trước khi làm bài.
+Tóm tắt và suy nghĩ để tìm cách giải.
+Trình bày bài giải.
+Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải.
-Giáo viên nên tích lũy kinh nghiệm qua từng bài, từng tiết học để lần sau dạy
các em dễ nhớ, dễ hiểu hơn, hiệu quả bài học cao hơn.
-Thường xuyên quan tâm, theo dõi học sinh yếu để có kế hoạch phụ đạo, tổ
chức các buổi học ngoại khóa, thành lập nhóm yêu toán, lồng ghép một số bài toán
vui để gây hứng thú cho học sinh.
-Trình tự việc làm trên lớp của giáo viên là: giao nhiệm vụ, tổ chức hướng dẫn
và kiểm tra đánh giá. Khâu giao nhiệm vụ cho học sinh có nghĩa là em nào cũng nắm
được yêu cầu bài tập. Khi hướng dẫn thực hiện cần chia mức độ để phù hợp với đối
15
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
tượng học sinh. Cần giúp đỡ học sinh yếu bằng câu hỏi gợi mở. Trong quá trình tiến
hành phải tăng dần mức độ độc lập của học sinh.
-Khâu kiểm tra đánh giá rất quan trọng, nó vừa khích thích hứng thú học tập
cho học sinh, vừa cho học sinh sản phẩm tốt nhất…..nên giáo viên phải nắm chắc lời
giải đúng nhất và có những cách giải hay nhất, chính xác nhất, kịp thời khuyến khích
những em tư duy tốt.
-Trong họp tổ chuyên môn phải đi sâu vào phương pháp giải toán có lời văn.
Nên mở nhiều chuyên đề toán học ở cấp tổ, cấp trường.
-Điều cuối cùng là giáo viên giáo dục các em phải trung thực khi làm bài ,
không nên ỷ lại vào bạn .
PHẦN III: KẾT LUẬN
-Để nâng cao chất lượng giải toán lời văn , giáo viên cần hết sức nỗ lực, luôn
tìm ra phương phát mới để giúp cho học sinh biết cách học ; biết phân biệt được các
dạng toán khác nhau ; nắm được các quy trình giải toán (đọc kĩ đề, xác định được cái
đã cho, cái cần tìm ; phân tích đề toán để tìm cách giải ; giải bài toán và thử lại lời
giải ; tìm cách giải khác ). Từ đó có lòng mê sai, hứng thú học, các em biết tự làm việc
độc lập . Chắc chắn các em sẽ tự tin, tự học, tự tìm tòi khám phá kiến thức mới, kết
quả học tập sẽ cao.
-Để học sinh có lòng tự tin trong giải toán thì giáo viên luôn tôn trọng những
hiểu biết của các em, khuyến khích các em giải bài toán bằng nhiều cách, tạo không
khí sôi nổi vui tươi khi tham gia giải toán. Cần hiểu rằng kĩ năng giải toán của học
sinh cao hay thấp phần lớn là ảnh hưởng bởi người thầy, bởi tính tận tụy hay lơ là,
quan tâm giúp đỡ hay qua loa chiếu lệ của người thầy. Hãy thương yêu học sinh, trải
rộng lòng với các em rồi các em sẽ đáp lại bằng kết quả học tập không chỉ ngay trước
mắt mà còn là lưu trữ nâng dần đến tận mai sau.
16
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
*Đối với học sinh : Được giáo viên quan tâm đến từng đối tượng học sinh ngay từ
đầu năm nên các em đã biết cách học và hứng thú học. Do đặc điểm tâm lí thích học
tập vui chơi theo nhóm nên các em rất thích khi được trao đổi cùng bạn bè. Được giáo
viên giao việc cụ thể , có kiểm tra các em hoàn thành rất tốt. Do được rèn luyện từ đầu
năm học về cách ôn luyện toán (cá nhân, trong nhóm ) nên các em đã biết tự tìm ra
cách giải toán và giải được bài toán theo nhiều cách khác nhau . Các em được làm
quen với nhiều dạng toán khác nhau : tự luận, trắc nghiệm,….
*Đối với giáo viên : Do có kế hoạch ngay từ đầu năm học nên khi tiếp cận với
học sinh từ lớp 3 lên, giáo viên dễ dàng phân nhóm học sinh theo trình độ, theo nhóm
học tập để giúp các em có động cơ học tập ngay từ đầu năm. Giáo viên chịu khó
nghiên cứu, học hỏi, linh hoạt, sáng tạo trong bài dạy khi áp dụng các hình thức dạy
học sẽ giúp giáo viên truyền thụ kiến thức một cách nhẹ nhàng, tiết học sinh động,
giáo viên tự tin hơn. Giáo viên chịu khó thiết kế đề trắc nghiệm phù hợp kiến thức đã
dạy và qua nhiều năm sẽ tích lũy nhiều kinh nghiệm giảng dạy hơn.
- Đây cũng chính là điều thú vị, là niềm hạnh phúc của người giáo viên khi dạy
môn toán. Để đạt được các điều đó, người giáo viên cần chú ý :
Trong quá trình giảng dạy giáo viên không nên nóng vội, mà phải bình tĩnh
trong
thời gian không phải một ngày, hai ngày . Đặc biệt luôn xem xét phương pháp giảng
dạy của mình để điều chỉnh sao cho phù hợp với việc nhận thức của học sinh, gây
được hứng thú học tập cho các em.
Phải nghiên cứu để nhận thức rõ về vị trí, nhiệm vụ của phần kiến thức vừa
dạy.
Lưu ý nội dung giảm tải để điều chỉnh sao cho phù hợp với đặc điểm tình hình của lớp
mình..
Không ngừng học hỏi ,trao đổi với đồng nghiệp để nghiên cứu đổi mới
phương
17
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng. Trong giảng dạy, giáo viên không được
áp đặt học sinh mà coi nhiệm vụ học của học sinh là quan trọng, là nhân tố chủ yếu
cho kết quả giáo dục. Luôn gợi mở khám phá tìm tòi biện pháp tốt nhất cho học sinh
nắm chắc kiến thức. Rèn cho học sinh cách tư duy thông minh, sáng tạo, làm việc độc
lập, nâng cao kết quả tự học của mình. Tạo cho học sinh có niềm vui trong học tập, có
hứng thú đặc biệt trong học tập. Giáo viên luôn luôn giải quyết tình huống vướng mắc
cho học sinh.
*Đối với tổ chuyên môn: Ngoài việc tích lũy kinh nghiệm của bản thân thì
trong họp tổ chuyên môn, giáo viên luôn trao đổi cùng đồng nghiệp những cái hay, cái
mới để đồng nghiệp học hỏi và làm theo, luôn đi sâu quan tâm vào nội dung họp tổ,
thống nhất đưa ra những biện pháp hiệu quả nhất trong dạy và học.
*Đối với trường và ngành: Được sự quan tâm sâu sát của lãnh đạo ngành, cùng
Ban giám hiệu nên những năm qua chương trình thay sách giáo khoa mới đã tạo điều
kiện thuận lợi cho bản thân mỗi giáo viên mạnh dạn đổi mới phương pháp giảng dạy
cho phù hợp với sự phát triển tâm sinh lí học sinh tiểu học. Sự ra đời của hội đồng bộ
môn Toán ở tiểu học càng tạo thêm chỗ dựa vững chắc cho hoạt động dạy và học. Khi
chất lượng môn toán được nâng lên sẽ giúp cho kết quả dạy và học của lớp, của
trường đạt chỉ tiêu đề ra.
-Để đạt được những thành quả trên, ngoài việc nỗ lực phấn đấu của bản thân
mà còn được sự giúp đỡ của tổ chuyên môn, Ban giám hiệu, của các cán bộ là thanh
tra Phòng giáo dục, Hội đồng bộ môn Toán . Bản thân đã học tập và tiếp thu nhiều
kinh nghiệm qua các tiết dự giờ. Tôi sẽ cố gắng, không ngừng học hỏi để nâng cao tay
nghề, hoàn thành tốt nhiệm vụ của ngành đặt trọn cho tôi ./.
18
Sáng kiến kinh nghiệm của GV Lớp 4C –Trường Tiểu học Tây Phú
19
- Xem thêm -