Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Lớp 4 Skkn giải pháp hình thành năng lực, phẩm chất cho hs lớp 4 theo thông tư số 30tt...

Tài liệu Skkn giải pháp hình thành năng lực, phẩm chất cho hs lớp 4 theo thông tư số 30tt bgd&đt

.PDF
22
97
139

Mô tả:

"Giải pháp hình thành năng lực, phẩm chất   cho HS lớp 4  theo Thông tư số 30/TT­BGD&ĐT ". 1.PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí  do chọn đề tài: Với học sinh tiểu học, các năng lực được hình thành và phát triển trong   quá trình trải nghiệm, tham gia thường xuyên vào các hoạt động học tập, sinh   hoạt tập thể, vận dụng kiến thức trong cuộc sống hàng ngày. Điều này được  thể hiện qua việc tự phục vụ, tự quản; giao tiếp hợp tác; tự  học và giải quyết   vấn đề. Các phẩm chất của HS được hình thành và phát triển trong quá trình trải  nghiệm, tham gia thường xuyên vào các hoạt động học tập, sinh hoạt tập thể,  vận dụng kiến thức trong cuộc sống hàng ngày; chia sẻ, hợp tác, giao tiếp, ứng   xử với bạn bè, thầy cô, người lớn. Điều này được thể hiện qua việc chăm học,   chăm làm, tích cực tham gia hoạt động giáo dục; Tự  tin, tự trọng, tự chịu trách   nhiệm; Trung thực, kỉ luật, đoàn kết; Yêu gia đình, bạn bè, con người. GV sẽ  quan sát các biểu hiện trong hoạt động của học sinh hàng ngày,   hàng tuần để  nhận xét, nhận định sự  hình thành và phát triển một số năng lực,  phẩm chất, từ đó động viên, khích lệ, giúp HS khắc phục khó khăn, phát huy ưu  điểm và các tố chất riêng, điều chỉnh hoạt động để tiến bộ, ứng xử kịp thời để  tiến bộ. Thực hiện Nghị quyết số 29­ NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành  Trung  ương về  đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp  ứng công   nghiệp hóa hiện đại hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế  thị  trường định   hướng xã hội chủ  nghĩa và hội nhập quốc tế: “ Đổi mới căn bản hình thức và   phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá kết quả   giáo dục, đào tạo”, “Phối hợp sử  dụng kết quả  đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kì, cuối năm học;  đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học ; đánh giá của nhà trường  với đánh giá của gia đình và xã hội”, ngày 28/8/2014 Bộ  trưởng Bộ  Giáo dục,  đào tạo đã ban hành Thông tư số 30/2014 về đánh giá Học sinh Tiểu học.  Thông  tư  30 bắt đầu có hiệu lực từ  ngày 15/10/2014 và chính thức được áp dụng vào  việc đánh giá học sinh các trường Tiểu học trên toàn quốc. Từ  chỗ  kiểm tra  đánh giá thường xuyên bằng điểm số  và chủ  yếu hướng vào ghi nhớ  kiến thức   trước đây, được thay bằng đánh giá thường xuyên bằng nhận xét và kiểm tra  đánh giá hướng vào năng lực, chú ý nhận xét, tư  vấn, phản biện, mức độ  thể  hiện năng lực, phẩm chất học sinh.   Đặc biệt, cách đánh giá mới, không xếp  loại học tập theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu, không so sánh học sinh này  với học sinh khác nhằm khuyến khích được các em tự  nỗ  lực vươn lên, góp  phần đáng kể giảm áp lực điểm số, căn bệnh thành tích trong giáo dục. Vậy làm  thế nào để hình thành cho cho học sinh sự phát triển đúng đắn lâu dài về phẩm  chất, năng lực theo Thông tư số 30/TT­BGD&ĐT về việc đánh giá học sinh tiểu   học ? Để làm tốt nội dung trên đòi hỏi người giáo viên phải thực sự có cái nhìn   sâu rộng, sự  linh động sáng tạo,  ứng xử  thích hợp đối với từng đối tượng học   sinh, để  có thể  dẫn dắt các em từ  chỗ  chưa có ý thức phải thực hiện theo sự  nhắc nhở và cuối cùng đă có ý thức chuyển sang tự giác học tập, sinh hoạt. Là một người giáo viên Tiểu học trực tiếp giảng dạy lớp 4, tôi  xác định  rõ trọng trách, xem mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục học sinh phát triển  năng lực, phẩm chất  cho HS trong điều kiện xã nhà trường thuộc địa bàn còn  khó khăn, là vấn đề  không đơn giản nó khiến bản thân tôi trăn trở, chọn đề  tài  nghiên cứu: "Giải pháp hình thành năng lực, phẩm chất cho HS lớp 4  theo   Thông tư số 30/TT­BGD&ĐT ". 1.2. Điểm mới của đề tài: Trường thuộc địa bàn xã còn khó khăn, Tỉ  lệ  hộ  nghèo, cận nghèo còn  nhiều, một bộ phận phụ huynh mãi làm ăn chưa quan tâm đến việc học tập của   con em, phần nào  ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục các em học sinh. Điểm  mới của đề tài là:  ­ Giúp HS có kỹ năng giao tiếp nhằm hình thành và phát triển năng lực và  phẩm chất theo hướng tích cực giúp HS tự tin sáng tạo trong việc tìm tòi, khám  phá tri thức. ­ Tạo được sự  chuyển biến tích cực về  nhận thức cho phụ  huynh trong   công tác giáo dục học sinh. Có mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm  và phụ huynh thông qua việc thiết lập kênh thông tin điện tử: Bằng điện thoại,  gmail.....để trao đổi các thông tin kịp thời về công tác giáo dục học sinh đối với  các phụ  huynh, hộ  gia đình đi làm ăn xa. Hình thành thói quen cho phụ  huynh  thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để học sinh học tập.  ­  Phối hợp với giáo viên bộ môn tạo cho các em môi trường giao tiếp tốt   từ  đó các em có nền nếp học tập tự  giác, tích cực, đồng thời nâng cao chất   lượng công tác giáo dục về năng lực, phẩm chất cho học sinh. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng: 2.1.1. Thuận lợi: ­ Ban giám hiệu luôn quan tâm đến chất lượng dạy và học. ­ Tổ  chuyên môn, đoàn thể  trong nhà trường luôn tạo điều kiện giúp đỡ  hỗ trợ nhiệt tình về mọi mặt. ­ Cơ sở vật chất của trường đảm bảo cho việc dạy và học: Lớp học rộng  rãi, thoáng mát, bàn ghế đầy đủ đúng quy cách phù hợp cho các em học sinh. ­  Thông qua cuộc họp phụ huynh Nhà trường đã chỉ đạo GVCN triển khai  Thông tư  30 đến tận từng phụ  huynh để  cùng phối kết hợp trong giáo dục và  đánh giá học sinh. ­ Bản thân nhiệt tình trong công tác, hết lòng vì học sinh thân yêu. ­ Một số phụ huynh đã quan tâm đến việc học tập của con em mình. Công   tác xã hội hóa giáo dục  được phát triển. ­ Lớp 4A là lớp được Nhà trường mạnh dạn đăng ký học theo mô hình  VNEN từ lớp 2 lên đây là một thuận lợi cho việc hình thành các năng lực, phẩm  chất để các em phát triển toàn diện. ­ Phần lớn học sinh ngoan ngoãn, biết yêu thương đoàn kết giúp đỡ  lẫn  nhau trong học tập. 2.1.2.  Khó khăn: * Về  học sinh ­  Thực tế  trong năm học  2015­ 2016, lớp  4A  do tôi phụ  trách còn  một số em ý thức học tập chưa cao: Học sinh đến lớp không đúng giờ,  quên mang dụng cụ  học tập, chưa tập trung chú ý trong giờ  học, chưa hợp tác  trong nhóm gây ảnh hưởng đến việc học tập cũng như nề nếp của lớp. ­Nhiều em còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin; còn thụ động trong học tập  và sinh hoạt chung. Một số em chưa biết cách diễn đạt, trình bày, ứng xử có  phần còn mang tính “ tuỳ tiện ”. Một số ít em tiếp thu bài còn chậm nhưng chưa  dám tìm kiếm sự giúp đỡ của bạn, của cô giáo về những điều mình chưa biết. * Về phụ huynh ­ Phần lớn các em là con nhà nông dân, một số gia đình khó khăn mãi làm  ăn nên phụ huynh không có thời gian quan tâm đến việc học tập của con cái.  ­ Địa bàn học sinh  ở  rộng dẫn đến  ảnh hưởng không ít đến việc đi lại,  học hành của con em nhất là mùa mưa bão, việc phối kết giữa GV và phụ huynh   cũng có phần khó khăn. 2.1.3.  Điều tra khảo sát, thống kê một số kĩ năng: * Khảo sát nội dung: “Thảo luận nhóm” qua quan sát HS thực hành thảo luận  nhóm trong một số tiết Toán, Tiếng Việt, Khoa học. TSHS Năng lực hợp tác nhóm Biết cách hợp tác, chia sẻ Chưa biết cách lắng nghe, hay tách  SL 14 27 ra khỏi nhóm, không chia sẻ. SL % 13 48,1 % 51,9 * Khảo sát về chất lượng môn Toán­ Tiếng Việt đầu năm học: Môn Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Toán 4 14,8 8 29,6 11 40,7 4 14,8 Tiếng  5 18,5 9 33.3 9 33,3 4 14,8 Việt Từ những thực trạng trên là giáo viên chủ nhiệm lớp tôi đã băn khoăn, tìm  tòi để  tìm ra những giải pháp nhằm hình thành năng lực, phẩm chất của học   sinh lớp mình phụ trách. Với mong muốn được góp một phần kinh nghiệm của  mình vào việc giáo dục một số năng lực, phẩm chất cho học sinh  theo Thông tư  30/Bộ GDĐT là điều thực sự cần thiết.  2.2. Các giải  pháp: 2.2.1. Tổ chức điều tra sơ khảo về tình hình thực tế qua phụ huynh,   tiếp cận tạo niềm tin: Ngay từ đầu năm học khi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 4A,   bản thân đã trực tiếp điều tra tình hình thực tế, sơ  khảo về  tình hình mọi mặt  để  nắm mặt mạnh, mặt yếu của lớp mình phụ  trách. Trong lớp có bao nhiêu  học sinh con gia đình nghèo, gia đình khó khăn, con công nhân, con nông dân...  Từ  đó có cơ  sở  để  phân loại các biện pháp giáo dục. Đối với những học sinh   nghèo, học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn thì luôn kết hợp với nhà trường, hội   cha mẹ học sinh, các ban ngành đoàn thể khác tạo mọi điều kiện giúp đỡ các em  về mọi mặt tinh thần cũng như vật chất.   Sau khi nhân l ̣ ơp tôi đã tìm hi ́ ểu kỹ  tưng em thông qua phu huynh băng ̀ ̣ ̀   nhưng câu hoi thông th ̃ ̉ ương nh ̀ ư: hoi tên, tuôi, s ̉ ̉ ở thich,…khen ng ́ ợi đô dung cua ̀ ̀ ̉   cac em đê giup cac em manh dan, t ́ ̉ ́ ́ ̣ ̣ ự  tin va cam thây gân gui v ̀ ̉ ́ ̀ ̃ ơi giao viên h ́ ́ ơn.   Nhât la đôi v ́ ̀ ́ ới nhưng em nhut nhat, ch ̃ ́ ́ ưa tự  tin khi chia sẻ  ý kiến trước đám  đông. Qua phu huynh giao viên con phai biêt thêm vê nh ̣ ́ ̀ ̉ ́ ̀ ững măt  ̣ ưu điêm, khuyêt ̉ ́  điêm cua t ̉ ̉ ưng em đê phat huy va co biên phap khăc phuc. ̀ ̉ ́ ̀ ́ ̣ ́ ́ ̣ Tôi luôn tạo ra sự  gần gũi với các em trong học tập cũng như  trong giao  tiếp, vui chơi để phát hiện khả năng nhận thức tư duy ở mỗi em. Thường xuyên  theo dõi để  phát hiện học sinh nào chăm học, học sinh nào lười học, em nào  trung thực, em nào chưa trung thực. Với những em lười học, tôi thường động   viên các em bằng những lời nói nhẹ nhàng, bằng những tuyên dương tán thưởng   khi các em chăm học hơn. Với những em chưa trung thực, tôi thường dùng các  câu chuyện có tình huống để  kể  cho các em nghe, cho các em liên hệ  giáo dục  qua câu chuyện đó. Ví dụ:  Với những học sinh thuộc gia đình có hoàn cảnh khó khăn, đầu năm học  các em chưa đủ  sách vở    để  học thì giáo viên mượn sách trong tủ  sách dùng  chung để cho các em học.  Với những học sinh còn rụt rè, nhút nhát tôi luôn gần gũi, trò chuyện,   trong giờ học thường tạo cơ hội cho các em được bày tỏ ý kiến của mình. 2.2.2. Tìm hiểu về  tâm lí, năng lực phẩm chất, kiến thức kĩ năng  thông qua giáo viên dạy ở các em ở lớp 4: Ngay từ  đầu năm học nhà trường đã có kế  hoạch cụ  thể  trong công tác  chuyển giao tiếp nhận học sinh từ lớp dưới. Vào kì thi cuối mỗi năm học Ban giám hiệu trường tiểu học thống nhất và  có dự  kiến phân công GVCN lớp năm sau tiến hành coi chấm thi nghiệm thu   chất lượng của lớp dưới. Tiến hành kiểm tra kiến thức và năng lực của học  sinh, qua kiểm tra tôi đã nắm bắt được những học sinh có năng lực nổi trội hoặc  còn hạn chế như: Em nào đọc tốt, rõ lưu loát, học sinh nào viết chữ đẹp, em nào  nắm chắc về  toán, em có kĩ năng tính toán chậm, diễn đạt trong viết văn còn  lủng củng......  Ngoài ra tôi còn gặp giáo viên đã trực tiếp giảng dạy các em để tìm hiểu  rõ về  tình hình mọi mặt của từng học sinh, để  nắm được các mặt mạnh, mặt   yếu của từng học sinh, đặc biệt là năng lực của các em. Qua đó, tôi biết được  học sinh nào học giỏi, có năng lực nổi trội nào, học sinh nào ngoan, gia đình của  học sinh đã quan tâm đến các em...để  từ  đó có biện pháp cụ  thể  hơn cho lớp   mình trong năm học tới. Ví dụ: Ở lớp 4 có em Đoàn Kim Quý hiện đang là học sinh lớp 4 tôi chủ  nhiệm,  ở  lớp 4 em là học sinh có năng khiếu đặc biệt về  môn Mỹ  thuật. Thế  nhưng em lại học chậm các môn học khác. Hay em Nguyễn Thị Thùy Nhung ở  lớp 3 em có năng lực quản lý tốt, mấy năm liền làm lớp trưởng từ lớp 1­ 3, em   Nguyễn Thị Thu Hà có năng khiếu nổi trội là kể chuyện hay và hát hay... Qua việc nắm bắt tình hình của từng học sinh, giáo viên lên kế hoạch đặt   ra mục tiêu cụ thể cho từng học sinh của lớp mình để  giúp các em vừa học tốt  vừa phát huy được thế mạnh của mình. 2.2.3. Xây dựng kế hoạch, nề nếp nội quy lớp học : Từ việc điều tra sơ khảo đã nắm được mặt mạnh, mặt yếu của lớp từ đó   có biện pháp giáo dục thích hợp: Tổ chức cho lớp bầu ra Hội đồng tự quản của   lớp, Hội đồng tự  quản phải là người có học lực khá giỏi, đối xử  hoà đồng với   bạn bè, mạnh dạn, nhanh nhẹn, nhiệt tình trong công việc được giao, có khả  năng điều hành, tự quản lớp hoạt động tốt. Xây dựng lớp có nề nếp tốt tức là tạo cho các em học sinh có năng lực tự  quản tốt, vì vậy ngay từ  đầu năm học giáo viên chủ  nhiệm phải lên kế  hoạch  cho cả năm học, từng tháng, từng tuần dựa trên kế  hoạch của nhà trường. Xây  dựng được nề nếp tự  quản, bầu chọn được Hội đồng tự  quản của lớp gồm: 1  Chủ  tịch Hội đồng, 2 Phó Chủ  tịch, 5 trưởng ban phụ  trách theo các ban: Ban  học tập, văn nghệ, sức khỏe, đối ngoại, thư  viện. Sau khi bầu xong, giáo viên  họp Hội đồng tự  quản và các trưởng ban để  phân công quán triệt rõ nhiệm vụ  cho từng em. GVCN cùng Hội đồng tự  quản và các ban xây dựng các nội quy  của lớp cụ thể, rõ ràng cho cả năm học. Ngoài ra, giáo dục các em phải: “Nói lời hay, làm việc tốt”, “Gọi bạn   xưng mình”. Thường xuyên giáo dục các em có tính tự  giác, chấp hành tốt nội  quy của lớp, của trường. Muốn các em thực hiện tốt, nghiêm túc thì người giáo  viên chủ nhiệm lớp phải thực sự gương mẫu về mọi mặt, phải là: “Tấm gương  sáng cho học sinh noi theo”, nói phải làm, đề ra phải thực hiện và khen chê đúng  mực. Vì học sinh tiểu học các em đang ở lứa tuổi nhỏ nên giáo dục nghiêm khắc  nhưng cởi mở  gần gũi độ  lượng, luôn vị  tha đối với học sinh biết nhận lỗi và  sửa lỗi, tuyệt đối không trù ém sĩ nhục học sinh. Trong học tập không những chú trọng rèn luyện cho học sinh bằng nhiều  hình thức khác nhau mà còn chú trọng khâu nề nếp ngay từ đầu năm như vào lớp   thuộc bài, lên lớp hiểu bài, trật tự nghe giảng trong giờ học, trong lớp Ban học  tập kiểm tra bài tập về nhà của các bạn trong tổ... Vì nề nếp tốt là cực kì quan   trọng góp một phần lớn quyết định kết quả  học tập của học sinh. Chính vì thế  ngay từ  đầu năm học, giáo viên phải quán triệt nề  nếp bằng cách: Cho cả  lớp   học nội quy lớp học, và mọi quy định của giáo viên, nội quy của nhà trường và 5  điều Bác Hồ dạy.           Đê giup cac em biêt đem đung đô dung hoc tâp cho t ̉ ́ ́ ́ ́ ̀ ̀ ̣ ̣ ừng buôi hoc (vi đâu ̉ ̣ ̀ ̀  năm phân l ̀ ơn cac em ch ́ ́ ưa biêt đoc ch ́ ̣ ữ ), giao viên s ́ ử dung cac ch ̣ ́ ữ sô đê đanh ́ ̉ ́   dâu vao cac cuôn sach, đ ́ ̀ ́ ́ ́ ể cac em không lân lôn. V ́ ̃ ̣ ới phương pháp này giáo viên  không mất nhiều thời gian, không tạo áp lực đối với học sinh mà còn giúp cho  lớp đi vào nề nếp tốt.  Ví dụ:  Phía trên tay trái góc bảng ghi rõ lớp, sĩ số  học sinh, dưới sĩ số  là   các kí hiệu ở góc bảng;  + , B , V , S , 1, 2, 3, 4 ... Chỉ vào + là cả lớp trật tự lắng nghe giáo viên giảng bài.      Khi viết kí hiệu B là cả lớp lấy bảng con cá nhân làm bài.     Giáo viên gõ thước đầu tiên học sinh đưa bảng, thước thứ hai là quan sát,   nhận xét bài trên bảng, thước thứ ba xóa bảng.     Giáo viên ghi kí hiệu / học sinh đọc cá nhân, // đọc đồng thanh nhóm, /// cả  lớp đọc.      Giáo viên ghi kí hiệu 1 dành cho học sinh khó khăn trong học tập.      Khi viết kí hiệu S là học sinh mở sách, kí hiệu V là lấy vở ra để ghi hoặc  làm bài tập tại lớp. Sau khi học sinh làm xong thì giáo viên xoá các kí hiệu đó,  học sinh sẽ cất sách hoặc vở đi. Kí hiệu 1, 2, 3, 4 là nhắc nhở mỗi tổ khi chưa nghiêm túc trong giờ học.          Cùng trong một lớp nhưng các tổ luôn thi đua với nhau, nếu tổ nào có một   em đi học muộn hoặc nghỉ học không có giấy xin phép của cha mẹ  các em thì   xét thi đua tổ  đó đứng sau các tổ  không có em nào vi phạm. Muốn động viên  phong trào thi đua thì giáo viên chủ nhiệm phải công minh, tuyệt đối không thiên  vị theo cảm tính, từ đó gây lòng tin với các em. Không những giáo dục học sinh có nề  nếp tốt trong giờ  học, trong lớp   mà còn thường xuyên giáo dục các em có nề nếp tốt trong mọi hoạt động, sinh   hoạt ngoài giờ. Ví dụ:  Bắt đầu có trống báo là các em có mặt đầy đủ   ở  lớp để  lớp   trưởng, lớp phó, tổ trưởng kiểm tra việc chuẩn bị bài ở  nhà sau đó các em ngồi  vào truy bài dưới sự chỉ đạo của lớp trưởng, tổ chức cho các em đi vào nề nếp   truy bài, tuy giáo viên không có mặt ở lớp các em vẫn làm tốt. Nhưng cũng không phải phó mặc cho cán bộ lớp, giáo viên chỉ  nghe lớp  trưởng báo cáo kết quả  chuẩn bị  bài của các em mà ngoài 5 phút kiểm tra đột   xuất 1, 2 bài trong mỗi tổ. Áp dụng biện pháp này đỡ tốn thời gian, không chiếm  mất giờ  dạy mà còn rèn cho học sinh tính tự  giác cao, đồng thời hạn chế  đùa  nghịch của các em khi chưa vào học. 2.2.4. Phân loại đối tượng học sinh trong lớp, đưa ra các biện pháp cụ thể  để giáo dục học sinh:        Căn cứ vào tình hình của lớp sau một thời gian học tập, tiến hành phân loại   đối tượng học sinh trong lớp để biết có bao nhiêu học sinh tốt, có bao nhiêu học   chưa tốt. Để có biện pháp giáo dục các em về mặt nào, môn nào để còn kịp thời   bồi dưỡng nâng cao trình độ đồng đều của lớp. Những em yếu, chậm tiến bộ thì xếp các em ngồi vị trí giáo viên dễ tiếp   cận, xếp một em học tốt ngồi bên cạnh, giao nhiệm vụ  cho em kèm bạn yếu  qua từng tiết học, bài học trong mọi giờ học. Đồng thời cũng tiện cho giáo viên   theo dõi hướng dẫn học sinh học tập và theo dõi kết quả  học tập của các em   qua từng bài học. Đặc biệt cần chú ý phát triển tư  duy nâng cao kiến thức bồi  dưỡng học sinh có năng lực học tập tốt. Bên canh đo, giao viên th ̣ ́ ́ ương xuyên tô ch ̀ ̉ ức cac buôi sinh hoat cho cac ́ ̉ ̣ ́  em hat tâp thê, ch ́ ̣ ̉ ơi cac tro ch ́ ̀ ơi dân gian đê giup cac em cang gân nhau h ̉ ́ ́ ̀ ̀ ơn, thân   thiên cung nhau h ̣ ̀ ơn, giup cac em phat huy kha năng giao tiêp,  ́ ́ ́ ̉ ́ ứng xử tinh huông ̀ ́   dê dang h ̃ ̀ ơn. Giao viên găp g ́ ̣ ỡ phu huynh th ̣ ương xuyên đê tim hiêu thêm vê hoan canh ̀ ̉ ̀ ̉ ̀ ̀ ̉   riêng cua t ̉ ưng em, t ̀ ư đo co cach giup đ ̀ ́ ́ ́ ́ ỡ cho phu h ̀ ợp. Đông th ̀ ời kêu goi s ̣ ự phôí  hợp chăt che gi ̣ ̃ ưa phu huynh va giao viên trong viêc xây d ̃ ̣ ̀ ́ ̣ ựng thơi gian biêu hoc ̀ ̉ ̣   ở  nha, nhăc nh ̀ ́ ở  viêc chuân bi đô dung hoc tâp tr ̣ ̉ ̣ ̀ ̀ ̣ ̣ ước khi đên l ́ ớp, kiêm tra bai ̉ ̀  lam, bai hoc  ̀ ̀ ̣ ở nha cho hoan chinh. ̀ ̀ ̉ Đôi v ́ ơi hoc sinh ca biêt, giao viên cân phai tăng c ́ ̣ ́ ̣ ́ ̀ ̉ ường viêc găp g ̣ ̣ ỡ, trao  đôi th ̉ ương xuyên v ̀ ơi phu huynh đê năm ro nguyên nhân, t ́ ̣ ̉ ́ ̃ ừ đo tim biên phap kha ́ ̀ ̣ ́ ̉  thi nhât đê giup đ ́ ̉ ́ ỡ em nhiêu h ̀ ơn. Chu y khai thac điêm tôt du nho nhât đê khich ́ ́ ́ ̉ ́ ̀ ̉ ́ ̉ ́   lê, đông viên, khen th ̣ ̣ ưởng kip th ̣ ơi, gây s ̀ ự chu y, ng ́ ́ ương mô cua cac ban trong ̃ ̣ ̉ ́ ̣   lơp, tao niên tin, đê cac em thây đ ́ ̣ ̀ ̉ ́ ́ ược viêc hoc la quan trong, la t ̣ ̣ ̀ ̣ ̀ ương lai sau naỳ   cua môt đ ̉ ̣ ời ngươi, la niêm hy vong cua gia đinh va xa hôi, t ̀ ̀ ̀ ̣ ̉ ̀ ̀ ̃ ̣ ừ đo cac em se co y ́ ́ ̃ ́ ́  thưc h ́ ơn va chuyên h ̀ ̉ ương ro rêt. Điêu tôi ky nhât la đ ́ ̃ ̣ ̀ ́ ̣ ́ ̀ ừng nhin cac em v ̀ ́ ới caí  nhin gay găt, va không nên nh ̀ ́ ̀ ớ hoai nh ̀ ưng thoi h ̃ ́ ư, tât xâu cua cac em, v ̣ ́ ̉ ́ ới caí  tâm cua môt ng ̉ ̣ ươi th ̀ ầy, cua môt ng ̉ ̣ ươi me hay m ̀ ̣ ̃ ở rông tâm long vi tha v ̣ ́ ̀ ̣ ơi cac ́ ́  em hơn mơi thât s ́ ̣ ự cam hoa cac em dân hoan thiên h ̉ ́ ́ ̀ ̀ ̣ ơn. Đôi v ́ ơi nh ́ ưng em gia đinh găp hoan canh kho khăn, giao viên cân co s ̃ ̀ ̣ ̀ ̉ ́ ́ ̀ ́ ự  quan tâm đăc biêt h ̣ ̣ ơn, tham mưu vơi lãnh đ ́ ạo nhà trương v ̀ ơi Ban đ ́ ại diện  CMHS hô tr ̃ ợ  vê vât chât, đông viên vê tinh thân tao điêu kiên cho cac em đ ̀ ̣ ́ ̣ ̀ ̀ ̣ ̀ ̣ ́ ược  tham gia hoc tâp tôt, ngoai ra giao viên cân phai trao đôi v ̣ ̣ ́ ̀ ́ ̀ ̉ ̉ ới phu huynh đông viên ̣ ̣   cho cac em đi hoc chuyên c ́ ̣ ần, không bo d ̉ ở nưa ch ̃ ưng du trong bât c ̀ ̀ ́ ứ hoan canh ̀ ̉   nao. ̀ Không chi quan tâm đên hoc sinh ca biêt ma môt khâu quan trong trong ̉ ́ ̣ ́ ̣ ̀ ̣ ̣   công tac chu nhiêm la giao viên cân phai quan tâm đên nh ́ ̉ ̣ ̀ ́ ̀ ̉ ́ ững em tốt, nhưng em ̃   co năng khiêu bâm sinh nh ́ ́ ̉ ư  ve đep, hat hay, kê chuyên tôt… c ̃ ̣ ́ ̉ ̣ ́ ử  tham gia cać   phong trao nha tr ̀ ̀ ương hay đia ph ̀ ̣ ương tô ch ̉ ức vừa giup cac em phat huy đ ́ ́ ́ ược  kha năng v ̉ ưa đ ̀ ược điêm phong trao cho l ̉ ̀ ơp, cho tr ́ ương. ̀ Trong giảng dạy, giáo viên phải dự  kiến các tình huống sư  phạm có thể  xảy ra và cách  ứng xử  với học sinh. Thực hiện công tác giáo dục toàn diện  thông qua việc kết hợp chặt chẽ  giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Thường   xuyên liên hệ  trao đổi thông tin hai chiều với phụ  huynh hoặc đến nhà để  trao  đổi tình hình học tập của học sinh. Lớp đã xây dựng được các nhóm học tập để  giúp đỡ  nhau như: Đôi bạn cùng tiến, Nhóm học tập tự  quản... Qua đó thường  xuyên kiểm tra động viên khuyến khích các em bằng phong trào hội hoa học tốt. 2.2.5. Xây dựng các mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh và giữa  học sinh với học sinh: * Xây dựng mối quan hệ thầy­ trò: Trước đây, quan hệ thầy, trò là quan hệ chịu ơn­ ban ơn; bề trên­ kẻ dưới;  giảng giải­ ghi nhớ. Ngày nay, quan hệ này được thay bằng quan hệ phân công­ hợp tác. Thầy thiết kế­trò thi công. Thầy giao việc­trò làm. Mỗi lời thầy nói ra  phải là một “lệnh” (một lời giao việc). Do vậy, mọi yêu cầu tôi đưa ra, học trò  phải thi hành thật nghiêm. Ngay từ  đầu, tôi yêu cầu học trò phải cố  gắng làm  cho đúng. Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng mới thôi. Đúng là đúng từ  việc làm, nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ  không phải  ở  thái độ  khắt khe,  gay gắt. Quan hệ cơ bản nhất của tôi và học trò là quan hệ hợp tác làm việc: tôi   giao việc­ học trò làm; tôi hướng dẫn­ học trò thực hiện. Khi giao việc, tôi chỉ nói một lần, nhưng chỉ nói khi lớp trật tự. Với cách  làm này, tự nhiên thầy sẽ trở nên nói ít, học trò sẽ làm nhiều. Làm việc như thế  nào thì phẩm chất, năng lực sẽ kèm theo như thế ấy. Làm đến nơi đến chốn thì  ý thức kỉ luật cũng đến nơi đến chốn. Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực  tiếp đến tâm lí cũng như sự hình thành tính cách của trẻ. Vì vậy, khi lên lớp, tôi  luôn chú ý đến cả cách đi đứng, nói năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết,  thái độ,...để học trò noi theo. Không vì bất cứ lí do gì mà tôi cho phép mình cẩu  thả hoặc xuề xòa, qua loa trước mặt học sinh. Khi học sinh nào làm bài chưa đúng, tôi yêu cầu học sinh đó phải làm lại  chứ không phê phán ngay. Tôi giúp đỡ, hướng dẫn học sinh làm lại ngay tại lớp.  Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót, tôi luôn cố gắng kiềm chế và tôn trọng   học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ các em  sửa chữa. Tôi không bao giờ có những lời nói, cử  chỉ xúc phạm các em. Ở tuổi  này, lòng tự  trọng của các em rất cao, chỉ  một lời nói xúc phạm sẽ  làm tan nát   tâm hồn trẻ thơ. Thậm chí có em sẽ oán hận, căm ghét thầy cô, bỏ học và không   bao giờ trở lại lớp học nữa cho dù có nhiều người đến nhà vận động. Qua nhiều năm làm công tác chủ  nhiệm lớp, tôi biết rằng có những em  học yếu hoặc có hôm không học bài, làm bài nhưng lỗi không phải hoàn toàn là  do các em. Có em ham chơi nên quên học bài, có em do bị mất căn bản từ các lớp  dưới. Nhưng cũng có em học yếu, hoặc không học bài làm bài là do những điều  kiện khách quan. Gia đình của các em đâu phải lúc nào cũng đầm  ấm, hạnh  phúc; đâu phải em nào cũng may mắn dược bố mẹ, ông bà động viên trong mỗi  bước học tập. Và có biết bao nhiêu bố  mẹ  phải lo làm thuê, làm mướn kiếm   sống hoặc vì ăn chơi cờ  bạc hay  ốm đau bệnh hoạn,...nên không để  ý gì đến  việc học của con cái, thậm chí các em còn bị  mắng chửi, bị đánh đập... Những  sóng gió đó đã tác động đến tâm lí trẻ thơ, cản trở việc học tập của các em. Nếu  như  giáo viên không biết được những nguyên nhân đó thì rất dễ  nổi giận đùng  đùng, rồi la mắng, trừng phạt các em. Điều đó rất bất lợi cho quan hệ thầy­trò.   Vì vậy, đứng trước một học sinh quậy phá, hay lơ đãng không chịu hợp tác làm  bài, tôi luôn bình tĩnh chờ  đến hết buổi học gặp riêng các em để  hỏi cho rõ   nguyên nhân. Lần đầu các em vi phạm, tôi nhẹ  nhàng nhắc nhở. Nếu lần thứ  hai, các em vẫn tái phạm, tôi phải đến nhà tìm hiểu nguyên nhân để  có biện  pháp giúp đỡ, giáo dục các em. Hàng ngày, luôn khích lệ  và biểu dương các em kịp thời, ca ngợi những  ưu điểm của các em nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Tôi cố tìm ra những ưu   điểm nhỏ nhất để  khen ngợi động viên các em. Nhưng trong khi khen, tôi cũng  không quên chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hoàn thiện   hơn. Khi nói chuyện, khi giảng, cũng như  khi nghiêm khắc phê bình lỗi lầm  của học sinh, luôn thể  hiện cho các em thấy tình cảm yêu thương của một  người thầy đối với học trò. Theo qui luật phản hồi của tâm lí, tình cảm của  thầy trước sau cũng sẽ  được đáp lại bằng tình cảm của học trò. Lòng nhân ái,   bao dung, đức vị  tha của người thầy luôn có sức mạnh to lớn để  giáo dục và   cảm hóa học sinh. “Lớp học thân thiện” chỉ có được khi người thầy có tấm lòng  nhân hậu, bao dung, hết lòng vì học sinh thân yêu của mình. Có một người thầy  như  vậy thì chắc chắn học sinh sẽ  chăm ngoan, tích cực và ham học, thích đi   học. * Xây dựng mối quan hệ bạn bè: Trong cuộc sống của mỗi con người, ngoài những người thân trong gia   đình ra, ai cũng cần có bạn bè để chia sẻ. Học sinh Tiểu học cũng vậy, nếu các  em có nhiều bạn bè thân thiết trong lớp thì các em sẽ hợp tác vui vẻ với nhau và   sẽ  giúp đỡ  nhau cùng tiến bộ. Em học giỏi sẽ  giúp những em học yếu; ngược   lại, em học yếu cũng dễ dàng nhờ  bạn giúp đỡ  mình học tập mà không phải e   ngại, xấu hổ (Học thầy không tày học bạn). Nhưng trong thực tế, một lớp học   thường xuất hiện một số  em chia bè phái, phân biệt giàu nghèo, hay nói xấu   hoặc châm chọc nhau. Những em nữ thì hay rỗi hay hờn giận. Còn các em nam  thì hăm he đánh nhau, trả  thù nhau. Tuy các em chưa gây ra chuyện gì nghiêm  trọng nhưng nó vẫn ảnh hưởng xấu đến tình cảm bạn bè và chất lượng học tập  của lớp. Là một giáo viên chủ  nhiệm, tôi luôn quan tâm đến vấn đề  này. Xây  dựng được mối quan hệ  bạn bè đoàn kết, gắn bó thì tôi sẽ  xây dựng được nề  nếp lớp học, tiến tới xây dựng môi trường học tập thân thiện. Từ  môi trường  học tập thân thiện đó, chất lượng học tập của lớp chắc chắn sẽ được nâng cao. Để  xây dựng mối quan hệ  bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng  giúp đỡ nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự  hợp tác của nhiều học sinh. Cách làm cụ thể như sau: ­ Trong mỗi tiết học, tôi thường xuyên chia nhóm ngẫu nhiên. Tiết học   này, các em chung nhóm với bạn này, nhưng tiết sau, các em lại chung nhóm với   bạn khác. Lúc đầu có em chưa chịu, tuy ngồi chung nhóm nhưng có em lại quay   mặt ra chỗ khác, hoặc ngồi im không tham gia, ai muốn làm gì thì làm; có nhóm  lại cãi nhau, không ai chịu làm nhóm trưởng hoặc đùn đẩy nhau không chịu ghi   kết quả  thảo luận vào phiếu, dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ. Trước tình  trạng đó, tôi tiến hành đánh giá kết quả của từng nhóm và lấy kết quả đó chung  cho tất cả  các thành viên của nhóm. Do đó, những em khá, giỏi buộc phải tích   cực. Còn những em không tích cực hợp tác, cho ngồi riêng một mình và phải làm  toàn bộ  công việc của một nhóm. Bị  ngồi một mình nên không thể  hoàn thành  công việc. Cứ  như  vậy, dần dần việc hợp tác của học sinh trong lớp đã được  cải thiện.        ­ Khuyến khích học sinh tự viết ra những điều em chưa đồng ý về việc làm,   cách cư  xử  của lớp trưởng, lớp phó hoặc của một bạn nào đó trong lớp chứ  không nói xấu, không xa lánh bạn. Căn cứ vào những điều các em viết ra, nếu là  những điều tốt thì tôi đọc cho cả lớp nghe rồi tuyên dương ngay trước lớp. Còn  những điều các em phê bình thì tôi phải điều tra nắm rõ đúng hay sai. Sau đó  mới góp ý riêng với những học sinh bị bạn phê bình, yêu cầu các em phải sửa   chữa.         ­ Khi có chuyện xích mích giữa em này với em kia, tôi kịp thời can thiệp   không để mâu thuẫn kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến tình bạn. Tôi gặp gỡ  trao  đổi riêng với từng học sinh hoặc nhóm học sinh để  biết rõ đầu đuôi. Sau đó  phân tích rõ ai đúng, ai sai. Ai sai thì phải nhận lỗi và xin lỗi bạn. Sau đó giảng   hòa và bắt tay nhau vui vẻ trở lại.          ­ Đầu năm học, tôi thỏa thuận với cả lớp rằng nếu trong lớp mình có bạn   nào đau  ốm nằm viện thì cả  lớp sẽ  quyên góp tiền để  mua quà đến thăm bạn,  động viên bạn an tâm chữa bệnh. Khi bạn khỏi bệnh, những học sinh giỏi sẽ  giúp đỡ  bạn học tập để  theo kịp chương trình. Vì vậy, trong năm học vừa qua,   lớp tôi có 2 em bị  bệnh nặng phải nằm viện dài ngày nhưng khi hết bệnh, các  em được bạn bè giúp đỡ nên đã nhanh chóng theo kịp chương trình cùng với cả  lớp.          ­ Để  tạo dựng cho các em một tình bạn bền đẹp với những kỉ  niệm sâu  sắc của tuổi học trò, tôi tổ  chức sinh nhật cho học sinh ngay tại lớp học trong   giờ  ra chơi. Những em có ngày sinh trùng vào ngày thứ  bảy, chủ  nhật thì sẽ  được tổ  chức vào sáng thứ  bảy. Hình thức tổ  chức do các em trong ban cán sự  quyết định. Nhưng chủ yếu chỉ là múa hát, là những lời chúc mừng và một món   quà nhỏ khoảng vài chục ngàn đồng do cả lớp đóng góp. Có rất nhiều em không  nhớ  ngày sinh của mình. Bởi các em chưa bao giờ  được cha mẹ  tổ  chức sinh   nhật, chưa bao giờ  được nhận một món quà mang ý nghĩa sâu sắc. Vì vậy, khi   được cả lớp tổ chức sinh nhật, nhiều em rất xúc động.                 2.2.6. Vận dụng tốt mô hình dạy học VNEN là con đường hình  thành một số năng lực và phẩm chất cho học sinh tốt nhất.  2.2.7. Thực hiện tốt khấu đánh thường xuyên và cuối kỳ, cuối năm  cho học sinh theo  Thông tư 30/Bộ GD ĐT giúp học sinh biết được kịp thòi   những hạn chế  của mình về  phẩm chất, năng lực từ  đó có những điều  chỉnh theo hướng tích cực. 2.2.8. Kết hợp với giáo viên bộ môn và tổng phụ trách Đội: ­ Kết hợp với giáo viên bộ môn: Việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh được trải   nghiệm qua tất cả các môn học,  ngoài môn Toán, Tiếng Việt như Âm nhạc, Mĩ  thuật, Thể dục . Vì vậy tôi đã kết hợp với giáo viên bộ môn rèn các nề nếp cho   các em.  Qua từng giáo viên bộ môn tôi nắm bắt, tìm hiểu về  kiến thức, năng lực   và phẩm chất của từng học sinh được sát hơn trong tất cả  các môn học khác   như: Âm nhạc, Mỹ thuật, Đạo đức, Tự nhiên xã hội... Vào tiết sinh hoạt của tuần cuối tháng tổ  chức cuộc họp giữa giáo viên   chủ  nhiệm và giáo viên bộ  môn để  trao đổi về  kiến thức, năng lực, phẩm chất   của từng học sinh, qua đó giáo viên nắm rõ từng đối tượng học sinh mình được   khách quan hơn. Cùng với giáo viên chủ  nhiệm đưa ra những hình thức, biện  pháp hay để giáo dục học sinh lớp mình được hiệu quả hơn.          Phối hợp với giáo viên bộ môn trong các tiết học hoạt động ngoài giờ lên  lớp, thể dục, tôi tổ chức cho các em chơi các trò chơi như: làm phóng viên; sắm  vai xử lí các tình huống phòng tránh bị xâm hại, từ chối các chất gây nghiện, bày  tỏ thái độ đối với người bị nhiễm HIV/AIDS,...và đóng vai xử lí các tình huống   trong môn Đạo đức. Thông qua các hoạt động này, các em còn được hình thành  và rèn luyện nhiều kĩ năng sống cần thiết.          Căn cứ vào phiếu điều tra đầu năm, tôi nắm được khả năng của từng em   nên tôi phân công vai diễn, múa hát hoặc giao việc phù hợp với từng em, khuyến  khích động viên các em tự  tin bộc lộ  năng khiếu của mình. Nhờ  vậy, các tiết   học chính khóa trở  nên sôi nổi, các em rất hào hứng tham gia. Thông qua các  hoạt động vui chơi, các em được “làm”, “được trải nghiệm” như  trong cuộc   sống thực, điều đó sẽ giúp các em lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống  một cách nhẹ nhàng, nhưng lại hiệu quả. ­ Kết hợp với tổng phụ trách Đội:           Để  công tác chủ nhiệm lớp được tôt giáo viên chủ  nhiệm phải kết hợp   chặt chẽ  với tổng phụ  trách đội. Giáo viên chủ  nhiệm phải thường xuyên theo   dõi và nắm bắt kịp thời các kế  hoạch của Đội để  tổ  chức các họat động sinh  hoạt tập thể và vui chơi thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp cho các em như:        ­ Tổ chức cho học sinh ôn luyện kiến thức, kĩ năng bằng các trò chơi như:   Hái hoa dân chủ, Thi tìm hiểu về  An toàn giao thông,..Nội dung thi được tôi   soạn bằng chương trình powerPoint nên gây được sự  thích thú, hào hứng cho  học sinh mỗi lần tham gia.       ­ Tổ chức các buổi họp lớp, làm đồ dùng học tập và làm báo tường, vẽ tranh   chào mừng các ngày lễ lớn.       ­ Hướng dẫn các em làm bình hoa, cắt gấp hoa để  trang trí góc học tập và   làm một số  đồ  chơi đơn giản để  trưng bày hoặc để  tặng người thân bạn bè.  Dựa trên hướng dẫn  ở  báo Chăm học, tôi tập chung cả  lớp lại và hướng dẫn  các em làm việc theo nhóm. Các em cùng làm, giúp đỡ nhau làm việc. Nhờ  thường xuyên tổ  chức các hoạt động sinh hoạt tập thể  và các trò  chơi cho cả  lớp nên các em trở  nên rất tự  tin, rất năng động sáng tạo. Và điều  quan trọng là tôi đã thực sự xây dựng được một môi trường học tập thân thiện,   học sinh tích cực. Sĩ số  của lớp tôi luôn đảm bảo, chất lượng học tập của học   sinh ngày càng nâng cao.   hoạt động của đội để  thực hiện có hiệu quả  các hoạt động do Đội tổ  chức  như: Tham gia các hội thi văn nghệ, làm báo tường, vui tết trung thu, tham gia   các trò chơi...v.v Phối hợp giáo viên TPT Đội tổ  chức cho học sinh xem phim tài liệu kỉ  niệm các sự  kiện lịch sử trọng đại của đất nước như: Kỉ  niệm ngày thành lập   Đảng, Cách mạng tháng Tám, Kỉ  niệm ngày quốc khánh, ngày thành lập Quân  đội nhân dân Việt Nam, ngày giải phóng miền Nam,...Những đoạn phim tài liệu  này lấy trên mạng internet rồi kết nối với máy chiếu, chiếu lên cho học sinh   xem.          Tham mưu Liên Đội hỗ trợ các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn vươn   lên học tập tốt; Liên Đội có kế hoạch tạo điều kiện giúp đỡ thông qua các hoạt  động quyên góp như: Vòng tay bè bạn, Kế  hoạch nhỏ, Áo  ấm đến trường, Vì   người nghèo...         2.2.9. Phối hợp giữa giáo viên chủ  nhiệm và phụ  huynh làm tốt công  tác giáo dục học sinh: Tổ  chức họp phụ  huynh đầu năm, thông báo kế  hoạch dạy học và các   hoạt động giáo dục trong năm học của nhà trường, lớp của mình chủ nhiệm. Tổ  chức thảo luận về  các hoạt động của lớp, ký cam kết các nội dung thực hiện  như ATGT, ATTH, An toàn trong mùa mưa Bão, Phòng chống các tệ nạn XH và  phối hợp giáo dục học sinh...v.v. Thông báo cho phụ  huynh về  nội dung Thông  tư  30/BGD&ĐT về  đánh giá học sinh tiểu học để  biết và phối hợp tốt trong   công tác giáo dục con em. * Đối với học sinh có phụ huynh ở nhà làm ăn gần:            Giáo viên chủ nhiệm phải giữ mối quan hệ thường xuyên với phụ huynh   học sinh để  nắm thông tin về  học sinh và qua phụ  huynh trao đổi thêm về  kết  quả  học tập của học sinh, về  đạo đức tác phong… để  gia đình cùng cộng tác  trong việc giáo dục, nhắc nhở, động viên các em trong học tập và sinh hoạt.          Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm, tôi đã đề  ra yêu cầu để  phụ  huynh   cùng rèn nề nếp cho học sinh như: ­ Hằng ngày, kiểm tra sách vở của các em. ­ Nhắc nhở con học và làm bài tập đầy đủ. ­ Chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho con theo thời khoá biểu. ­ Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi. ­ Sinh hoạt điều độ, đúng thời gian biểu, tránh tình trạng vừa học vừa  chơi. ­ Thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm về tình hình học tập của   con qua điện thoại hoặc qua sổ liên lạc. Ngoài ra   giáo viên chủ  nhiệm phải vận  động tuyên truyền trong phụ  huynh học sinh phù hợp. Tuỳ  theo các điều kiện, hoàn cảnh, gia cảnh của mỗi  học sinh mà giáo viên chủ nhiệm có phương pháp tuyên truyền, vận động thuyết  phục. Để  công tác tuyên truyền, vận động có hiệu quả  đòi hỏi giáo viên phải  tìm hiểu gia cảnh, hoàn cảnh, các điều kiện phục vụ khác có liên quan như điều  kiện kinh tế, vị  thế  và quan hệ  xã hội, quan hệ  xóm làng, thân tộc…Điều đó   giúp cho giáo viên có sự thấu hiểu sâu hơn về phụ huynh học sinh để giáo viên   có đồng cảm, tạo dựng được sự thân thiện, từ đó lời nói của giáo viên sẽ có tính  thuyết phục hơn và họ sẽ dễ dàng nghe theo và tạo điều kiện, động viên con em   mình trở lại trường. * Đối với học sinh có phụ  huynh đi làm ăn xa phải thiết lập kênh   thông tin liên lạc với phụ huynh qua điện thoại, Gmail, Facebook, thư từ... ­ Giáo viên chủ  nhiệm chủ  động thu thập số  điện thoai, địa chỉ  gmail,   facebook của từng phụ huynh học sinh trong lớp thông qua cuộc họp phụ huynh,  ghi vào sổ chủ nhiệm hoặc sổ tay cá nhân của chủ nhiệm. ­ Liên lạc bằng điện thoại, hoặc nhắn tin qua gmail  đối với các phụ  huynh đi làm ăn xa nhà để  trao đổi tình hình và thông báo kết quả  học và rèn   luyện của học sinh theo từng tháng từng kì. ­ Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên liên lạc nắm bắt các dịp phụ huynh   về quê để đến nhà trao đổi về tình hình học tập của con em mình. Kết quả đạt được: Cuối năm học 2015­2016, nhờ việc áp dụng các biện pháp trên, lớp tôi đã  chuyển biến rõ rệt về nề nếp, chất lượng học tập cũng như các năng lực và  phẩm chất của các em: ­ Duy trì tốt sĩ số: 27/27em, tỉ lệ 100%; ­ Phẩm chất, năng lực đánh giá Đạt: 27/27 em, tỉ lệ 100%; ­ Kiến thức, kĩ năng các môn học Hoàn thành: 27/27 em, tỉ lệ 100%;
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan