Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Giáo án điện tử GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ...

Tài liệu GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

.DOCX
28
360
147

Mô tả:

GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1. Lịch sử phát triển và những quy định hiện hành về thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 Thủ tục rút gọn là một trong những thủ tục đặc biệt, được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên, qua nghiên cứu lịch sử lập pháp của Nhà nước ta, khẳng định rằng thủ tục này không phải là vấn đề mới, mà đã được quy định ngay sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 33c/SL ngày 13/9/1945, thành lập Tòa án quân sự ở các địa phận khác nhau trong phạm vi cả nước nhằm bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng. Thủ tục rút gọn được quy định tại Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 về thẩm quyền của các Tòa án quân sự và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án. Cụ thể Sắc lệnh 51 đã quy định, Tòa án sơ cấp có quyền chung thẩm một số vụ án hình sự có tính chất vi cảnh như: “Những án phạt bạc từ 0,5đ đến 9đ”; “Những án xử bồi thường từ 150đ trở xuống do nguyên cáo bị thiệt hại trong một vụ vi cảnh thỉnh cầu trong đơn khiếu, hay chậm nhất lúc việc vi cảnh đem ra phiên xử”. Sắc lệnh 51 còn quy định cho phép giản lược một số thủ tục đối với những vụ án tiểu hình nhất định thuộc thẩm quyền của Tòa án đệ nhị cấp trong giai đoạn điều tra, truy tố như: “Ông biện lý có thể cho trát gọi thẳng bị can ra xét xử tại một phiên tòa tiểu hình gần nhất”; trong trường hợp là một vụ tiểu hình phạm pháp quả tang thì “Ông biện lý phải hỏi cung ngay bị can và có thể hạ trát tống giam rồi đưa bị can ra xét xử tại một phiên tòa gần nhất”… Tại Điều 23, Sắc lệnh 51 - SL quy định “Nếu việc phạm pháp quả tang có thể xử phạt từ 05 năm tù trở xuống thì viện công tố có thể đưa ngay vụ án ra phiên tòa, không cần có cáo trạng…”. Tiếp đến trong giai đoạn từ năm 1954 đến khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, các cơ quan có thẩm quyền cũng đã ban hành nhiều văn bản dưới luật, quy định về thủ tục rút gọn như: Thông tư số 139 ngày 28/5/1974 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử các vụ án phạm pháp quả tang. Thông tư này quy định: Đối với các vụ án phạm tội quả tang không thuộc loại trọng án có đủ chứng cứ, bị can nhận tội, thì cơ quan Công an lập biên bản đưa sang Viện kiểm sát nhân dân để quyết định chuyển thẳng sang Tòa án để xét xử. Thông tư số 10 - TATC ngày 08/07/1974 của Tòa án nhân dân tối cao quy định về thủ tục rút ngắn trong việc điều tra, truy tố, xét xử một số vụ án hình sự ít quan trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản, rõ ràng. Tiếp đó Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 01-TT ngày 28/2/1975 hướng dẫn về nội dung hoạt động của Kiểm sát viên trong công tác kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút ngắn đối với các vụ án ít nghiêm trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản, rõ ràng. Như vậy: Thủ tục rút gọn đã được pháp luật Tố tụng hình sự nước ta quy định và áp dụng từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập. Tuy nhiên, trước đây những thủ tục này chỉ là thủ tục rút ngắn về thời gian tiến hành tố tụng mà chưa đơn giản hóa các thủ tục tố tụng. Nghị quyết số 08 - NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ: “Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục tố tụng rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng”. Thể chế hoá Nghị quyết của Đảng, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003 đã xây dựng một chương mới (chương XXXIV) gồm 7 điều, từ Điều 318 đến Điều 324 quy định về thủ tục rút gọn, đánh dấu bước phát triển mới của tố tụng hình sự Việt Nam. 1.1. Khái niệm về thủ tục rút gọn Thủ tục rút gọn là một trong những thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự, được rút ngắn về thời gian tố tụng, giản lược một số thủ tục nhất định nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc chung của tố tụng hình sự, nhằm giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử được nhanh chóng đối với những vụ án nhất định. Từ khái niệm trên có thể hiểu: Hoạt động tố tụng được rút gọn cũng chỉ có thể là các hoạt động tố tụng ở ba giai đoạn này, chỉ giản lược được một số thủ tục mang tính hình thức tố tụng: Quyết định đề nghị truy tố thay cho bản kết luận điều tra, quyết định truy tố thay cho bản cáo trạng. Thủ tục phiên tòa về cơ bản là theo trình tự chung nhưng vì không có cáo trạng nên trước khi vào phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát thay vì đọc bản cáo trạng sẽ đọc quyết định truy tố bị can ngắn gọn. Quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong Tố tụng hình sự. So với các quy định về thủ tục rút gọn trong các văn bản trước năm 1988, phạm vi này đã được thu hẹp, như tại thông tư số 16/TATC ngày 12/10/1974 của Tòa án nhân dân tối cao quy định về thủ tục rút gọn trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, song theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì thủ tục rút gọn lại chỉ được áp dụng giải quyết ở giai đoạn sơ thẩm, đối với giai đoạn phúc thẩm thì vẫn theo thủ tục chung. Hiện trên thế giới và khu vực, một số quốc gia có những quy định tương tự về việc mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn cả trong giai đoạn xét xử phúc thẩm như Hàn Quốc, Nhật Bản. 1.2. Ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong giải quyết các vụ án hình sự Có thể khẳng định, thủ tục rút gọn có ý nghĩa pháp lý và xã hội sâu sắc trong tình hình hiện nay. Bởi lẽ, thủ tục này là cơ sở pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhiều vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng, có tính chất quả tang, đơn giản, rõ ràng; đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm kịp thời, góp phần giải quyết tình trạng tồn đọng án kéo dài và các vi phạm các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thời hạn hiện đang có xu hướng gia tăng; khắc phục tình trạng quá tải trong các trại tạm giam và trại cải tạo, cũng như khắc phục được phần nào những khó khăn trong tổ chức tạm giữ, tạm giam và cải tạo, giáo dục. Việc giải quyết vụ án nhanh chóng sẽ tạo điều kiện để những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhanh chóng được khắc phục kịp thời, góp phần đảm bảo lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Thủ tục rút gọn còn tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng tiết kiệm được thời gian, tiền bạc, công sức trong việc giải quyết vụ án những vụ án đơn giản, rõ ràng, ít nghiêm trọng, tập trung vào việc giải quyết những vụ án nghiêm trọng, phức tạp hơn; đồng thời cũng tiết kiệm được thời gian và chi phí cho những người tham gia tố tụng và giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống và tham gia vào các quan hệ pháp luật khác. Thủ tục này cũng có ý nghĩa trong việc thực hiện nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự và đáp ứng yêu cầu của nhân dân về việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, xử lý kịp thời, nhanh chóng, chính xác các hành vi phạm tội và người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Qua đó nhanh chóng phát huy tác dụng giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân thông qua hoạt động xét xử, góp phần vào việc phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, mục đích và ý nghĩa của thủ tục rút gọn chỉ thực sự đạt được nếu vụ án đã áp dụng thủ tục rút gọn không phải tiếp tục áp dụng thủ tục chung để giải quyết. Nếu vụ án đã áp dụng thủ tục rút gọn, sau đó cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng thủ tục chung để giải quyết thì sẽ không rút ngắn được về thời gian, không đơn giản được về thủ tục, thậm chí còn làm cho trình tự tố tụng kéo dài và phức tạp hơn nếu chỉ áp dụng thủ tục chung để giải quyết. Vì vậy, cần phải có những biện pháp hạn chế những trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng thủ tục chung để giải quyết vụ án trước đó đã áp dụng thủ tục rút gọn. Thủ tục rút gọn, được quy định tại chương XXXIV bao gồm các quy định từ Điều 318 đến 324, quy định về phạm vi áp dụng, các điều kiện áp dụng, thời hạn tiến hành tố tụng và xét xử sơ thẩm hình sự theo trình tự rút gọn. Việc quy định thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự là hết sức cần thiết và tiến bộ, phù hợp với yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, tiết kiệm được thời gian, chi phí tiền của cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng như đã phân tích. Song thực tiễn áp dụng các quy định tiến bộ của thủ tục rút gọn hiện nay vẫn chưa được áp dụng triệt để và thường xuyên, nhiều địa phương thì thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự hầu như đã bị bỏ quên. Năm 2004, khi Bộ luật tố tụng hình sự được triến khai thi hành, thủ tục rút gọn đã được áp dụng như để thử nghiệm đối với một vài vụ án, sau đó cho đến nay, thủ tục này không được áp dụng mặc dù không ít vụ án có đủ điều kiện để áp dụng. Tại sao lại có tình trạng như vậy? Theo chúng tôi, sở dĩ các cơ quan tiến hành tố tụng không mặn mà trong việc áp dụng thủ tục rút gọn một phần là do các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục này còn chưa hợp lý, mang tính chung chung, chưa cụ thể, rõ ràng, nhất là về mối quan hệ giữa các quy định của thủ tục rút gọn và các thủ tục tố tụng chung bắt buộc phải thực hiện, một phần là do lãnh đạo các cơ quan tư pháp ở địa phương thiếu quan tâm, sâu sát trong chỉ đạo thực hiện. 2. Nội dung của áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết các vụ án hình sự 2.1. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn Về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều 318 BLTTHS thì: “Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm được áp dụng theo quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của chương này”. Như vậy, thủ tục rút gọn chỉ áp dụng giới hạn trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và chỉ áp dụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm còn không áp dụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Nếu sau khi xét xử sơ thẩm, có kháng cáo hoặc kháng nghị theo trình tự phúc thẩm thì vẫn phải áp dụng theo thủ tục chung mà theo quy định tại Điều 242 về thời hạn xét xử phúc thẩm thì “Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày…” . Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án thì Toà án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung. Trong những trường hợp này, những điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn không còn đầy đủ, tính chất của vụ án đã trở nên phức tạp, vì vậy cần áp dụng thủ tục chung để giải quyết. Để hạn chế những trường hợp phải chuyển sang áp dụng thủ tục chung để giải quyết đối với những vụ án trước đó đã áp dụng thủ tục rút gọn thực chất là cần hạn chế những trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy, về thời hạn theo thủ tục rút gọn thì cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử là 30 ngày, trong khi giai đoạn phúc thẩm là 60 ngày, đây là điều không hợp lý, làm mất đi ý nghĩa của thủ tục rút gọn. Theo chúng tôi sẽ hợp lý và phù hợp hơn khi chúng ta cần có thêm quy định về thủ tục rút gọn đối với cả xét xử phúc thẩm trong chương XXXIV Bộ luật tố tụng hình sự. 2.2. Về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn Theo quy định tại Điều 319 Bộ luật tố tụng hình sự thì thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây: “1. Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; 2. Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; 3. Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; 4. Người phạm tội có căn cước lai lịch rõ ràng.” Như vậy, thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi thỏa mãn bốn điều kiện nêu trên mà ở đó: Thứ nhất: Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang, theo quy định tại Điều 82 BLTTHS thì phạm tội quả tang là trường hợp người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Khoản 1 điều 82 BLTTHS năm 2003 quy định: Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kì người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và gửi ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Như vậy, điều Luật quy định ba trường hợp phạm tội quả tang đó là: - Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện: Ở trường hợp này được hiểu là người đang thực hiện những hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm của một tội phạm cụ thể theo BLHS nhưng chưa hoàn thành tội phạm đã bị phát hiện. Đang thực hiện tội phạm có thể là: Đang thực hiện những hành vi làm cơ sở tiền đề liền trước hành vi phạm tội, những hành vi này không phải là hành vi chuẩn bị phạm tội mà đây là những hành vi rất gần, không thể tách ra được với hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm nên được coi là hành vi thực hiện tội phạm. Ví dụ: Hành vi giơ dao định gây thương tích cho người khác, nhặt một vật nặng chuẩn bị ném, hoặc người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan của tội phạm nhưng chưa thực hiện được hết các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm, hoặc mới thực hiện được một trong số những hành vi quy định trong cấu thành tội phạm. Ví dụ: Đang có hành vi sử dụng hình ảnh cá nhân của người khác với mục đích xúc phạm nhân phẩm, danh dự của họ… - Người thực hiện hành vi phạm tội ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Trường hợp này là các hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm đã được thực hiện hết, các dấu hiệu pháp lý của tội phạm đã thỏa mãn đầy đủ, tội phạm cũng vừa được hoàn thành nhưng người thực hiện hành vi chưa kịp xóa dấu vết của tội phạm hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện phạm tội thì bị phát hiện và bắt giữ. Trong trường hợp có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm phát hiện ngay thì mặc dù không có vật chứng để lại cũng là phạm tội quả tang. - Người thực hiện hành vi phạm tội đang bị đuổi bắt. Trường hợp này, người đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Trường hợp này khác với bắt trong trường hợp khẩn cấp ở chỗ là việc thực hiện tội phạm, chạy trốn và bị đuổi bắt có sự liên tục, không bị gián đoạn về thời gian và về diễn biến sự việc. Địa điểm bắt không phải là hiện trường vụ án. Đặc điểm của vụ án mà người phạm tội bị bắt quả tang là hành vi phạm tội đã cụ thể, rõ ràng, chứng cứ, tang vật của vụ án được thu giữ đầy đủ, nhân chứng, người bị hại được xác định. Do khi đó, chứng cứ phạm tội đã đầy đủ nên người phạm tội buộc phải nhận tội ngay, tội phạm nhanh chóng được xác định. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 84 BLTTHS, việc bắt quả tang phải được lập thành văn bản. Sau khi bị bắt hoặc nhận người phạm tội quả tang, “cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24h phải đưa ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt” (Khoản 1 Điều 83 BLTTHS). Điều kiện “người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang” là điều kiện đầu tiên rất quan trọng để xác định vụ án có được đưa ra xét xử hay không theo thủ tục tố tụng hình sự rút gọn hay không. Điều kiện này có ý nghĩa quan trọng để quyết định vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn vì đặc điểm của phạm tội quả tang sẽ đảm bảo cho thời gian tố tụng sau này được nhanh chóng, mặt khác yếu tố này có ý nghĩa để xác định cho điều kiện tiếp theo “sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng”. Thứ hai: Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng là vụ án không có các tình tiết phải mất thời gian điều tra, xác minh, bị cáo đã nhận tội và trong vụ án chỉ có một hoặc hai bị cáo… (Thông tư số 10/TATC năm 1974). Có thể hiểu phạm tội đơn giản là những vấn đề cần chứng minh trong vụ án không phức tạp, dễ xác định, vụ án ít bị cáo, các chứng cứ đã được thu thập tương đối đầy đủ từ đầu, trong đó: - Sự việc phạm tội đơn giản: Căn cứ vào thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, có thể hiểu điều kiện này như sau: Sự việc phạm tội đơn giản là những vụ án không có những tình tiết phải mất nhiều thời gian để điều tra, xác minh theo quy định tại Điều 63 BLTTHS. Việc xác định các dấu hiệu cấu thành tội phạm được thực hiện khá dễ dàng, nhanh chóng, tội phạm đã được thực hiện không có đồng phạm, cụ thể: + Hành vi phạm tội thường do một người thực hiện, trong trường hợp có đồng phạm thì số đồng phạm cũng không nhiều người và sự câu kết giữa những người này không chặt chẽ chỉ là mang tính đồng phạm giản đơn. Tội phạm được thực hiện tại một địa điểm nhất định và không có liên quan đến các địa điểm khác. + Mục đích của tội phạm thường là lợi ích vật chất, động cơ phạm tội mang tính vụ lợi, nhất thời nên dễ dàng xác định được. + Sự việc phạm tội không liên quan đến những vấn đề chính trị, an ninh, kinh tế, xã hội, tôn giáo, phong tục tập quán, hoặc những vấn đề khác có tính chất phức tạp. Việc giải quyết vụ án cũng không đòi hỏi những hoạt động điều tra phức tạp. - Sự việc phạm tội có chứng cứ rõ ràng: Chứng cứ rõ ràng là chứng cứ đã được thu thập tương đối đầy đủ ngay từ đầu, thông qua biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người bị hại, người trực tiếp chứng kiến sự việc phạm tội, các tang vật thu ở hiện trường. Chứng cứ và quá trình thu thập, bảo quản chứng cứ đều hợp pháp, có độ tin cậy cao. Chứng cứ phải được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định. Các chứng cứ có giá trị chứng minh trực tiếp, khách quan và hợp pháp. Do người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang khi đang thực hiện tội phạm nên chứng cứ ở đây chủ yếu là lời khai của người trực tiếp chứng kiến và người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt giữ, lời khai của người bị hại, biên bản bắt người phạm tội quả tang có giá trị chứng minh cao và không phải mất nhiều thời gian điều tra, xác minh. Đây chính là điều kiện thể hiện về tính chất của hành vi phạm tội cụ thể, là dấu hiệu thể hiện rõ bản chất của vụ việc có thuộc loại tội phạm được đưa ra xét xử theo thủ tục rút gọn hay không, đồng thời cũng là một trong những điều kiện cần thiết để có thể giải quyết vụ án nhanh chóng, thuận lợi và chính xác theo yêu cầu của thủ tục rút gọn. Bởi lẽ, trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tính chất đơn giản, chứng cứ rõ ràng của vụ án phải luôn được bảo đảm. Nếu thủ tục rút gọn đã được áp dụng mà sau đó phát hiện vụ án có những tình tiết phức tạp phải điều tra bổ sung, cần thời gian xác minh thêm thì thủ tục rút gọn bị hủy bỏ, vụ án phải chuyển về thủ tục thông thường để giải quyết. Thứ ba: Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng: Đó là loại tội phạm tính nguy hiểm cho xã hội không lớn mà theo quy định tại Điều 8 BLHS thì “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù…” Về mặt lý luận và thực tiễn, thì việc đặt ra điều kiện về loại tội phạm để áp dụng thủ tục rút gọn là điều cần thiết. Điều này một mặt sẽ khoanh vùng rõ ràng các loại tội phạm có thể được áp dụng thủ tục rút gọn giúp cho cơ quan, người tiến hành tố tụng có căn cứ nhận định ngay được loại án cần tiến hành theo thủ tục nào, mặt khác cũng tránh được khả năng tùy tiện của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 BLHS năm 2009, để xác định tội phạm ít nghiêm trọng phải dựa trên hai dấu hiệu: Dấu hiệu về mặt nội dung chính trị xã hội và dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lý. Dấu hiệu về mặt nội dung chính trị xã hội là tính nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội. Dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lý là tính chịu hình phạt. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến 3 năm tù. Do hậu quả mà tội phạm gây ra cho xã hội và hậu quả pháp lý mà người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng có thể phải gánh chịu là không lớn nên việc xử lý có thể nhanh chóng, dễ dàng hơn và nếu trong trường hợp việc xử lý có sai sót thì hậu quả cũng không đến mức nghiêm trọng so với trường hợp thực hiên tội phạm khác và việc khắc phục hậu quả cũng dễ dàng hơn. Thứ tư: Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng Vấn đề căn cước, lai lịch của bị can, bị cáo là một trong những vấn đề cần chứng minh của vụ án hình sự theo quy định tại Điều 63 BLTTHS năm 2003, vấn đề này có ảnh hưởng lớn đến việc giải quyết vụ án: Lý lịch của bị can, bị cáo cũng chiếm một vai trò trong giải quyết các vụ án hình sự nói chung và giải quyết theo thủ tục rút gọn nói riêng, vì vấn đề này liên quan đến năng lực trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo, liên quan đến việc quyết định hình phạt. Căn cước lai lịch của người phạm tội đã rõ ràng thì thời gian điều tra, xác minh có thể được rút ngắn và từ đó mới bảo đảm thời gian hoạt động tố tụng. Đặc điểm về căn cước, lai lịch của người phạm tội được hiểu một cách chung nhất là đặc điểm về nhân thân của người phạm tội. Nhân thân của người phạm tội bao gồm các đặc điểm về giới tính, độ tuổi, thành phần dân tộc, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, quá trình hoạt động chính trị, xã hội, tiền án tiền sự. Khi quyết định áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án hình sự, việc xác định căn cước, lai lịch của bị can rõ ràng hay không có thể dựa vào lời khai ban đầu của bị can về lý lịch của họ. Đối với vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn thì không những lý lịch của bị can, bị cáo phải rõ ràng, có giấy tờ chứng minh hợp pháp, những thông tin về vấn đề này cụ thể, độ tin cậy cao mà còn đòi hỏi việc xác minh căn cước, lai lịch của người phạm tội dễ dàng, nhanh chóng, không ảnh hưởng tới thời hạn áp dụng. Căn cước, lai lịch rõ ràng giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng có thể làm rõ được các yếu tố về nhân thân, gia đình, mối quan hệ xã hội… của người phạm tội một cách nhanh nhất, tạo điều kiện rút ngắn thời gian trong hoạt động tố tụng. Bốn điều kiện trên đây một mặt độc lập với nhau, mặt khác lại có mối quan hệ bổ trợ nhau. Vì thế khi xem xét áp dụng thủ tục rút gọn cần phân tích đánh giá từng điều kiện trong mối liên hệ tổng thể với các điều kiện khác và chỉ quyết định giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn khi cả 4 tiêu chí trên đều đảm bảo. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án theo thủ tục rút gọn nếu 1 trong các điều kiện này mất đi thì vụ án phải chuyển về thủ tục thông thường để giải quyết. 2.3. Về thời hạn hoạt động tố tụng trong việc áp dụng thủ tục rút gọn - Thời hạn trong tố tụng hình sự được hiểu là khoảng thời gian tối đa mà BLTTHS cho phép tiến hành tố tụng đối với vụ án. Theo quy định tại các Điều 321, 323, 324 thì thời hạn hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng kể từ khi khởi tố vụ án tới khi xét xử là 30 ngày. Trong đó, thời hạn điều tra là 12 ngày, thời hạn truy tố là 4 ngày, thời hạn xét xử là 14 ngày. 2.3.1. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn Theo quy định tại Điều 328 thì “1. Sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ các điều kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. 2. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho Cơ quan điều tra và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. 3. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn có thể bị khiếu nại. Bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn; thời hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại được gửi đến Viện kiểm sát đã ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và phải được giải quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại”. Theo quy định tại Điều 320 của BLTTHS thì, cơ quan điều tra chỉ có quyền đề nghị viện kiểm sát ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn chứ không có quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Việc có áp dụng thủ tục rút gọn hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào Viện kiểm sát. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho Cơ quan điều tra và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn có thể bị khiếu nại. Bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn; thời hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại được gửi đến Viện Kiểm sát đã ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và được giải quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. 2.3.2. Thủ tục điều tra Theo quy định tại Điều 321 Bộ luật tố tụng hình sự thì “1. Thời hạn điều tra theo thủ tục rút gọn là mười hai ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. 2. Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định đề nghị truy tố và gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát”. - Thủ tục điều tra được tiến hành như sau: Lập bản phạm pháp quả tang; khởi tố vụ án, bị can; tiến hành xác minh căn cước, lý lịch bị can, trích lục tiền án, tiền sự (nếu có). Ra văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, Viện Kiểm sát gửi quyết định áp dụng thủ tục rút gọn cho Cơ quan điều tra hoặc bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong 24 giờ, kể từ ngày ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Trong trường hợp cần thiết thì tiến hành thêm một số hoạt động điều tra nhằm thu thập và củng cố chứng cứ như: Hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, bị hại, đối chất, trưng cầu giám định.v.v.. Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra ra quyết định đề nghị truy tố ngắn gọn đề nghị Viện Kiểm sát truy tố bị can về tội danh cũng như theo các điều, khoản của Bộ luật Hình sự. 2.3.3. Tạm giữ, tạm giam để điều tra, truy tố Tại Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định: “1. Căn cứ, thẩm quyền và thủ tục tạm giữ, tạm giam được áp dụng theo quy định của Bộ luật này. 2. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. 3. Thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố không được quá mười sáu ngày”. - Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn: Thứ nhất, về biện pháp tạm giữ: Thủ tục rút gọn được áp dụng đối với các vụ án phạm tội quả tang nên trong thực tế tạm giữ sẽ là biện pháp được áp dụng phổ biến đối với các vụ án. Các quy định về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ trong thủ tục rút gọn cũng được tiến hành theo thủ tục chung. Thời hạn tạm giữ tối đa không quá 03 ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt; không được gia hạn tạm giữ. Thứ hai, về tạm giam: Trong việc áp dụng thủ tục rút gọn, biện pháp tạm giam cũng phải tuân thủ các quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục, thẩm quyền như trường hợp tạm giam thông thường. Về nguyên tắc, thời hạn tạm giam không được vượt quá thời hạn tiến hành điều tra, truy tố, xét xử. BLTTHS năm 2003 quy định thời hạn tiến hành tố tụng theo thủ tục rút gọn là 30 ngày; trong đó điều tra 12 ngày, truy tố 04 ngày; xét xử 14 ngày. Do đó, thời hạn tạm giam tối đa là 30 ngày. 2.3.4. Quyết định việc truy tố Tại Điều 323 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định: “1. Trong thời hạn bốn ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau đây: a) Truy tố bị can trước Tòa án bằng quyết định truy tố; b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; c) Tạm đình chỉ vụ án; d) Đình chỉ vụ án. 2. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều này, thì Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung”. - Thủ tục trong giai đoạn truy tố: Trong thời hạn 04 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện Kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau: Truy tố bị can trước toà bằng quyết định truy tố (không cần có bản cáo trạng); trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì vụ án tiến hành tố tụng theo thủ tục chung. 2.3.5. Xét xử Tại Điều 324 Bộ luật hình sự có quy định: “1. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định sau đây: a) Đưa vụ án ra xét xử; b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; c) Tạm đình chỉ vụ án; d) Đình chỉ vụ án. 2. Trong trường hợp ra quyết định đưa vụ án ra xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều này thì trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định, Toà án phải mở phiên toà xét xử vụ án. Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành theo thủ tục chung. 3. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều này thì Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung. 4. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc xét xử. Thời hạn tạm giam không được quá mười bốn ngày. 5. Việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ án đã xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn được tiến hành theo thủ tục chung”. - Thủ tục trong giai đoạn xét xử sơ thẩm: Trong thời gian 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công làm Chủ toạ phiên tòa phải ra một trong các quyết định: Hoặc đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn, trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định, Tòa án phải mở phiên tòa xét xử vụ án. Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành theo thủ tục chung. Hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung và tạm đình chỉ vụ án. Trường hợp này Tòa án sẽ chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung; hay đình chỉ vụ án khi có căn cứ đình chỉ điều tra. Thực tế xét xử cho thấy, Thủ tục rút gọn quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành là những quy định hết sức tiến bộ và có ý nghĩa như đã phân tích ở trên. Song hiện nay, thủ tục này rất ít khi được áp dụng là do các quy định về thủ tục rút gọn vẫn còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự. Chính vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng thường ngại khi áp dụng thủ tục rút gọn, để các học viên nắm bắt được những vướng mắc, bất cập của thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, trong chuyên đề này, tôi sẽ nêu những vướng mắc, bất cập của các quy định về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, để các học viên nắm bắt được và có hướng khắc phục, không bị lúng túng khi giải quyết các vụ án hình sự theo thủ tục rút gọn. Những vướng mắc, bất cập từ chính các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục rút gọn thể hiện như sau: 3. Một số vướng mắc cần lưu ý khi áp dụng thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự khi giải quyết các vụ án hình sự Như đã phân tích thì, thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng hình sự rút ngắn, trong đó có rút ngắn về thời hạn thực hiện các thủ tục tố tụng, giảm bớt một số thủ tục không cần thiết nhưng vẫn tuân theo những nguyên tắc chung của tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án nhằm đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử nhanh chóng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Thủ tục rút gọn chỉ có thể được áp dụng đối với những vụ án có hành vi phạm tội đơn giản, người phạm tội bị bắt quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng. Bộ luật TTHS năm 1988 không quy định về thủ tục rút gọn, tuy nhiên, trong quá trình cải cách tư pháp, chế định về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự lại được đặt ra. Thủ tục rút gọn được Bộ luật TTHS năm 2003 quy định tại chương XXXIV gồm 7 điều, trong đó xác định rõ về phạm vi, thẩm quyền, điều kiện, thủ tục diều tra, truy tố, xét xử và việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam để điều tra, truy tố theo thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai thực hiện thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án hình sự theo quy định hiện hành cho thấy còn có một số bất cập trong các quy định về thủ tục rút gọn trong Bộ luật TTHS hiện hành như sau: 3.1. Về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn được quy định tại Điều 319, Điều 320 BLTTHS là chỉ áp dụng đối với việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự ở cấp sơ thẩm, không mở rộng sang các giai đoạn xét xử phúc thẩm hay xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Nếu vụ án bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm thì sẽ được giải quyết theo thủ tục chung. Về thời hạn theo thủ tục rút gọn thì cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử là 30 ngày, trong khi giai đoạn phúc thẩm là 60 ngày. Đây là điều không hợp lý, làm mất đi ý nghĩa của thủ tục rút gọn. Theo chúng tôi sẽ hợp lý và phù hợp hơn khi chúng ta cần có thêm quy định về thủ tục rút gọn đối với cả xét xử phúc thẩm trong chương XXXIV Bộ luật tố tụng hình sự, mà theo đó các vụ án được cấp sơ thẩm xét xử theo thủ tục rút gọn có kháng cáo thì cấp phúc thẩm cũng cần phải xét xử với thời gian sớm nhất chứ không phải theo thủ tục chung, quy định như hiện nay. 3.2. Về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều 319 BLTTHS Những quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn như đã phân tích ở trên, theo chúng tôi là chưa đầy đủ, còn nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng triệt để thủ tục tiến bộ này trong hoạt động tố tụng hình sự, dẫn đến nhiều địa phương bỏ quên không áp dụng thủ tục này trong hoạt động tố tụng hình sự. Những vướng mắc đó thể hiện như sau: Như trên đã phân tích, chỉ các vụ án hình sự thỏa mãn bốn điều kiện đã nêu thì mới được áp dụng thủ tục rút gọn, song điều kiện thứ nhất quy định bắt buộc người phạm tội bị bắt quả tang là chưa hợp lý, hạn chế tới việc áp dụng thủ tục rút gọn trong thực tiễn hiện nay bởi lẽ: Có rất nhiều vụ án tuy không phải thuộc trường hợp phạm tội quả tang, song sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, căn cước người phạm tội rõ ràng, song lại không được áp dụng thủ tục rút gọn vì không phải là trường hợp phạm tội quả tang. Ví dụ: A trộm cắp của B một chiếc xe máy, hai hôm sau trên đường A đi tiêu thụ thì bị B phát hiện báo Công an bắt giữ A, A thừa nhận hành vi trộm cắp xe máy của B, tang vật được thu hồi trả lại ngay cho B. Hoặc có những trường hợp người phạm tội tự thú về hành vi phạm tội của mình mà hành vi phạm tội đó cũng rất đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội phạm được thực hiện cũng là tội phạm ít nghiêm trọng, lai lịch, căn cước rõ ràng, nhưng vì không phải là trường hợp phạm tội quả tang nên cũng không được áp dụng thủ tục rút gọn. Ví dụ: Trước đó 6 tháng, A tới nhà B trộm cắp của B 01 điện thoại di động trị giá 7 triệu đồng mang về giấu ở nhà với mục đích sau này sẽ đem ra sử dụng, sau khi mất điện thoại, B đã có đơn trình báo ra cơ quan Công an. Trong lúc cơ quan Công an chưa xác định được ai là người lấy trộm điện thoại của B thì A đã tới Công an tự thú hành vi phạm tội của mình đồng thời mang nộp chiếc điện thoại mà mình đã trộm cắp cho cơ quan Công an… Ngoài ra, qua thực tiễn xét xử chúng tôi thấy, có rất nhiều vụ án phạm tội nghiêm trọng, hoàn toàn thỏa mãn các điều kiện 1, 2, 4 quy định tại Điều 319, song không thể áp dụng được thủ tục rút gọn vì không thỏa mãn với điều kiện thứ ba là “Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng”. Như vậy, điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Điều 319 BLTTHS hiện hành chỉ được áp dụng trong trường hợp phạm tội quả tang, đối với tội phạm ít nghiêm trọng, là không phù hợp với thực tiễn, bỏ sót rất nhiều vụ án có thể áp dụng được thủ tục rút gọn, nhưng lại không được áp dụng, làm mất nhiều thời gian, không hạn chế được lượng án tồn đọng, tốn kém về chi phí vật chất, gây thiệt hại cho các chủ thể tham gia tố tụng hình sự, đôi khi còn vi phạm cả về thời hạn tạm giữ, tạm giam, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Theo chúng tôi, để khắc phục tình trạng trên cần bỏ điều kiện thứ nhất quy định tại Điều 319 BLTTHS, chỉ cần những vụ án mà sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, người phạm tội có căn cước lai lịch rõ ràng thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thể xem xét để quyết định có hay không việc áp dụng thủ tục rút gọn, chứ không nên quy định đóng khung như hiện nay. Có như vậy, thì những quy định về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự mới được áp dụng rộng rãi hơn, đúng với ý nghĩa của thủ tục rút gọn là đơn giản hóa quá trình tố tụng, rút ngắn thời hạn tiến hành tố tụng nhằm giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án giải quyết nhanh chóng vụ án. 3.3. Về quyết định áp dụng thủ tục rút gọn theo Điều 320 BLHS
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
Văn hóa anh mỹ...
200
20326
146